← Quay lại trang sách

Vẹt Lục Bình

Hai Cần vào bếp chụm lửa nấu cơm, chợt nghe giọng quen thuộc của lão Ngượt:

- Ráng chịu cực vài ngày nữa, rồi thì có vợ có con như thiên hạ.

Hai Cần đáp:

- Cháu chán cái cảnh sống một mình, một nhà như vầy. Ngặt vì xứ lạ quê người, tứ cố vô thân, thiên hạ chê cháu nghèo, chẳng ai thèm gả con.

Câu nói của Hai Cần ngụ ý hờn mát. Trước đó vài tháng, người bạn già của lão Ngượt từ rạch Tràm Trốc tới thăm, mua mắm ruốc và ba khía, đem về xứ bán lại. Bạn già ấy tên là Khâm, đi với đứa con quá tuổi cập kê tên là Hiếm. Hai Cần thương mến cô gái miền “gạo trắng nước trong”, khen ngợi nết na của cô Hiếm với lão Ngượt rồi nói e dè:

- Phải chi cô Hiếm xuống đây mỗi tháng vài lần thì vui lắm. Xứ mình nào rừng tràm, nước mặn, muỗi mòng ai cũng chê.

- Được rồi, thủng thẳng, bác lo liệu thử. Bác nói với lão Khâm, họ chưa trả lời ngay được, nhưng thế nào cũng nhắn tin, để bác cháu mình đi Tràm Trốc, thăm nhà đàng gái.

Giờ đây, lão Ngượt muốn dành cho Hai Cần sự ngạc nhiên thích thú. Chờ khi Hai Cần vo gạo xong, lão nói:

- Dừng tay lại. Cháu chịu khó “rinh” cái cà ràng, cái nồi cơm đó xuống xuồng để đi du lịch đường xa.

Hai Cần chưa hiểu:

- Vô rừng ăn ong hả? Mùa này, đâu còn ong mật.

Lão Ngượt vấn điếu thuốc rồi cười:

- Không trúng. Cho cháu nói thêm một lần nữa.

- Hay là bác cháu mình vô rừng đốn củi lậu thuế.

- Càng trật. Hôm nay, bác rủ cháu đi một việc hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, đúng theo lễ giáo ông bà truyền lại. Mình tới Tràm Trốc thăm bác Khâm, sẵn dịp ra mắt cô Hiếm. Người ta mời mình. Cháu nên đi một chuyến để biết sự đời.

Quá mừng rỡ. Hai Cần lại lúng túng:

- Đi như vậy, coi kỳ quá. Mua cái gì cho người ta chớ?

- Đi chơi, như là tình cờ. Thôi, mau bưng nồi, cà ràng xuống xuồng.

- Xuồng của ai. Xuồng bác hay xuồng cháu?

Lão Ngượt như suy nghĩ, đắn đo:

- Đi xuồng của cháu tốt hơn, dọc đường khỏi tát nước, từ đây tới Tràm Trốc bảy tám giờ đồng hồ, gay go lắm.

Tuân lịnh, anh bưng cà ràng, nồi, củi xuống xuồng của mình nhưng lão Ngượt lại thay đổi ý kiến:

- Như vầy... đi với chiếc xuồng của bác. Xuồng bác xấu xí mục rồi, mặc kệ nó.

Hai Cần thắc mắc. Phận mình nghèo, ra mắt đàng gái, lần đầu thì nên phô trương, không khéo gia đình cô Hiếm chê anh nghèo chí tử. Chiếc xuồng quá cũ giống như chiếc áo rách dễ gây dư luận không hay cho chòm xóm.

Lão Ngượt trông theo ngọn nước lớn đang chảy hăng rồi quyết định:

- Cháu cưới vợ chớ đâu phải chiếc xuồng cưới vợ. Dọn cà ràng qua xuồng của bác, cho kịp con nước, ăn cơm dọc đường.

Vừa mở sợi dây phía mũi xuồng của lão Ngượt, Hai Cần vừa phân vân: điềm dị đoan, mê tín gì đây? Chắc lão Ngượt chọn chiếc xuồng là mạng Mộc, xuống sông là mạng Thủy, xuất hành đúng giờ Thìn, giờ Tỵ gì đó, nào đại kiết, sát chủ, lung tung khó hiểu quá.

Nước chảy xoáy cuồn cuộn ở đầu doi. Lão nói:

- Bác điều khiển một mình, cháu nấu cơm.

- Dạ để cháu chèo lái, còn trẻ, sức lực dẻo dai mà.

Từ đây tới Tràm Trốc, xa dữ không bác?

- Xa chớ. Muốn thử sức, chèo lái.

Gió thổi mỗi lúc càng mạnh, nước chảy xuôi nhưng gió ngược. Trên sông Cái Lớn, sóng dấy lên, bỏ vòi, bọt trắng xóa, như ngoài biển khơi. Hai Cần hơi thối chí. Từ bé đến giờ, anh quen bơi hoặc chống xuồng nơi lau sậy mịt mùng, cạn nước, hoặc trên bãi bùn giữa ruộng, có con đường làng cong queo. Thỉnh thoảng anh “quá giang” ghe lưới ra Hòn Tre, làm quen với biển và mấy con nhạn. Anh nghĩ thầm:

- Cọp sấu trên rừng, cá mập ngoài biển mình không nao núng, lẽ đâu lại ngán sóng gió ở con sông nhỏ này. Nhưng gió vẫn làm chúa tể cả bầu trời. Mỗi mái chèo có thể đưa chiếc xuồng lướt tới năm bảy thước, nhờ nước xuôi, nhưng sức gió cản lại quá mạnh, mặt nước gồ ghề, đôi khi sóng đập mạnh vào mũi xuồng, nước văng lên ướt mặt mày lão Ngượt. Nhìn lên cây cối bên bờ, Hai Cần thấy rõ là chiếc xuồng như dừng một chỗ.

Lão Ngượt cười:

- Theo cái điệu này, ngàn năm nữa bác cháu mình vẫn chưa tới nơi tới chốn. Cháu ghé vô bờ, ngay gốc bần bên kia sông.

- Cháu đủ sức chèo nữa mà.

- Ậy, ghé giây lát thôi.

Xuồng vừa tới bờ, lão Ngượt xách cây búa nhảy lên bãi, lựa cây bần khá to, đốn nghe “cum, cum” vào gốc. Dưới mắt Hai Cần, dường như lão ta đang làm chuyện ngược đời. Gốc bần bị đốn phía trong bờ, lát sau nghiêng nghiêng rồi đổ xuống, răng rắc, rớt nguyên xác xuống sông.

- Làm gì vậy? Để cháu vớt nó lên. Coi bộ nặng nề, nhánh nhóc lung tung.

- Đừng nóng. Cháu lấy sợi dây ở mũi xuồng buộc vô gốc cây bần này cho thiệt chắc. Nó trôi theo dòng nước rồi nó kéo chiếc xuồng mình đi tới, khỏi chèo cho mệt.

Chiếc xuồng trở mũi ra giữa sông, lão Ngượt ra lịnh:

- Cháu ngồi xuống mà cầm lái, đứng làm gì cho cản gió. Thấy chưa, gặp nước xuôi mà gió ngược thì ta “chạy buồm dưới nước”. Cây bần này trôi, kéo chiếc xuồng, nó là một cánh buồm.

Hai Cần thích chí, khen ngợi sáng kiến của lão Ngượt, nhưng đưa ra lời phê phán:

- Ngộ quá, như có con trâu nước hoặc con sấu, con thuồng luồng lội tới, kéo xuồng. Gốc bần càng to, nhánh nhóc càng nhiều thì xuồng đi càng lẹ. Ngặt xuồng khẳm, phía trước mũi.

- Ừ, lại thường xảy ra nguy hiểm. Rủi “con trâu nước” đụng vô cột hàng đáy, đụng ghe xuồng của người khác thì thiên hạ bồi thường. Mũi xuồng ghịt tới, khó cầm lái cho vững.

Lâu lâu, lão Ngượt quát to:

- Coi chừng đụng. Đừng ai lại gần...

Vài chiếc ghe từ miệt trên chạy buồm phăng phăng, ngược chiều, họ nhìn, chỉ trỏ ngón tay, như thán phục kẻ có sáng kiến lúc nước xuôi gió ngược.

Đến xế, tới vàm rạch Nước Trong, quẹo qua nhánh nhỏ, bên trái. Trên chặng đường này, tình thế đảo ngược lại: gió thổi xuôi nhưng nước chảy ngược. Anh ta hỏi:

- Để cháu ra sức chèo. Nãy giờ, nhờ trời. Bây giờ, nếu chiếc ghe to, có buồm, khỏe biết mấy.

Lão nói:

- Để coi. Bày cách khác, miễn là con rạch đừng quá hẹp. Lời tục thường ví “Một nắm gió bằng ba bó chèo”. Bắt đầu từ đằng kia, cháu lãnh công việc nặng nhọc một chút.

Lão cho xuồng ghé lại bãi, tìm một tàu lá dừa nước khá to, vừa ý:

- Hai Cần. Ngồi trước mũi, dựng tàu lá này lên cao, cho nó bọc gió. Tháo dây, bỏ cây bần cho Hà Bá đi. Nãy giờ nó kềm chiếc xuồng mình, làm mất trớn.

Sáng kiến thứ nhì này đem cho Hai Cần niềm vui mới. Anh ta ngồi xếp bằng ở giữa xuồng, ôm phần gốc của tàu lá, dựng thẳng lên cao. Gió thổi mát mẻ, phía sau lưng, từng luồng mát lạnh, sức cầm giữ của anh có hạn, đôi khi tàu lá đảo qua đảo lại, chiếc xuồng chao đảo, nước tạt vào.

Lão ra lịnh:

- Coi chừng nó nghiêng rồi chìm luôn. Mắt nên nhìn phía chót tàu lá, coi hướng gió.

Chiếc xuồng lướt nhanh chóng hơn khi nãy được kéo với gốc cây bần, cứ phóng tới, mũi xuồng như sôi bọt khi rẽ nước. Mây trắng trôi trên nền trời xanh thẳm. Lão lẩm bẩm:

- Ráng chịu cho quen tay. Nhiều người lanh tay, vừa giữ tàu lá, vừa cầm lái, tùy làn gió mà quơ qua quơ lại như ông tướng phất cờ ra trận.

Khoảng bốn giờ chiều, tới Xẻo Nước, nước ngưng chảy, gió im bặt, lâu lâu, vài luồng hiu hiu. Tàu lá dừa nước chẳng còn vai trò gì cả. Lão hút thuốc, loan tin:

- Giỏi thì nửa giờ thôi, mình tới Tràm Trốc, khỏi ăn cơm dọc đường.

Hai Cần mừng ra mặt, lát nữa, gặp cô Hiếm, hai người chào nhau chắc bẽn lẽn, thẹn thùa. Lão Khâm đang chờ đợi, biết đâu cô Hiếm đang nhổ lông vịt, mời vài bạn gái tới tiếp cơm nước.

- Mình bỏ tàu lá, nghe bác.

- Quăng đi, để làm gì cho nặng chiếc xuồng.

- Hồi nãy gió thổi mạnh, tàu lá này đong đưa, mấy lá nhỏ tua túa ra, như răng cây lược thưa. Người ta hát ví: Gió đẩy đưa, lược thưa uốn éo.

- Cháu nhớ dai quá. Nay mai sanh con đầu lòng, hát câu đó cho con nít nghe, êm tai, nhưng hát như vầy mới đúng: Gió đẩy đưa, đọt dưa uốn éo, không phải lược thưa. Đọt dưa hấu, lúc mới trồng, bò lan ra, ngóng lên trời, gặp gió tết nhè nhẹ. Cảnh đó coi hay lắm. Bây giờ, nghỉ lâu rồi, để bác chèo cho giãn gân cốt. Cháu ngồi dưỡng sức, lát nữa làm công việc khác, khá nặng nhọc.

Trong phút giây, Hai Cần nhớ tới những việc mà chàng rể nào cũng đảm nhận, khi thăm viếng bên vợ, lúc chưa làm lễ cưới. Gặp gì làm nấy. Nào bửa củi, gánh nước, làm cỏ vườn, xay lúa, hoặc gặt hái, tùy mùa. Phía sau lái, lão Ngượt ra sức chèo, rõ ràng là lòng tốt của bực cha chú, đối với một thanh niên đơn chiếc, không họ hàng.

- Chừng bao lâu nữa tới Tràm Trốc? Lo cơm chớ, sợ bác đói bụng. Đủ gạo, củi, nước mắm, mấy con khô lóc và rượu.

- Sách có chữ “nhập giang tùy khúc” tùy doi vịnh, gió nước.

- Hết gió nước xuôi ngược, còn gì mà lo nữa đâu?

- Còn chớ. Trước mặt mình, đằng kia, không còn là con sông trời xanh. Nó thẳng băng. Cái kinh xáng của Tây hồi xưa, dùng xáng múc. Ngặt nghèo lắm. Lát nữa, tới đó coi thử. Ở đây nước lình bình, lớn cũng như ròng.

- Để cháu chèo thay bác.

Lão nhìn mấy giề lục bình khá to, như bèo trong ao tù đọng.

Bởi vì lình bình, nên lục bình mới là báo hại. Thò tay xuống nước, anh nắm giề lục bình, đem lên xuồng. Lão nói:

- Xứ mình, gần biển, gặp nước mặn, lục bình chết, ở đây nước ngọt. Nhiều người kêu nó là sen Nhựt Bổn. Nghe đâu nó tràn qua xứ mình hồi bão lụt năm Thìn, người thì nói Tây đem qua để trồng làm cây cảnh cho đẹp mắt. Lần hồi, nó sanh sôi nảy nở tràn đồng, tràn mương. Trước mặt mình, trên kinh xáng, nó gom lại dày bịt. Nhà ông già Khâm với con Hiếm ở phía trên đó, chẳng xa xôi gì.

Hai Cần đứng dậy, quan sát. Đằng kia, lục bình chận ngang con kinh, bề dài cỡ bảy tám trăm thước, hoặc ngàn thước. Anh ta ước lượng: mỗi giề nặng hơn kí lô, quỳ xuống trước mũi xuồng để lấy thế, mỗi lượt hai bàn tay vẹt (vạch) ra được hai gié, quăng ra gần đó, miễn là trước mũi không gì ngăn cản, chiếc xuồng vượt lên được một thước, đầu đuôi, vẹt chừng một ngàn lần, khom lưng một ngàn lần, đủ sức chịu đựng.

Lão Ngượt hỏi:

- Bày thử mưu kế gì lạ coi. Tới đây, bác hết biết cách... chạy buồm rồi.

Lão Ngượt như chịu thua, ắt là khó. Anh tỏ ra dè dặt:

- Ở xóm mình mùa hạn, kiếm một nhánh không ra, nó tàn lụi hết.

- Xứ này nước ngọt quanh năm, bốn mùa xuân hạ thu đông; nó sống lưu niên. Một giề tách ra hai giề con.

Hai Cần nhạy miệng:

- Ba giề đẻ ra sáu giề.

- Trật rồi, cháu ơi. Đẻ ra cỡ chín giề, phải cộng thêm ba giề mẹ, nghĩa là một ngàn giề, trong nửa tháng, ra mười ngàn giề có dư. Như chuột, như con dòi.

- Nhưng tại sao nó không cuốn ra biển khi nước ròng? Dông dài lắm. Chỗ này kêu là “giáp nước”, do Tây đào kinh xáng gây ra. Nước lớn phía Cần Thơ dồn qua, nước lớn phía Rạch Giá dồn lại. Hai ngọn nước gặp nhau tại đây. Suốt ngày đêm, nước đứng tại chỗ. Xa biển, ngoài biển vừa ròng, thỏm nỏm, chưa rút hết thì đứng lại, rồi nước lớn. Bởi vậy, từ mấy chục năm rồi, nó sanh đẻ tại chỗ, dày bịt, qui tụ nào xác chó, rắn nước, cá tôm. Giống như cái trấp ở U Minh, trên mặt cứng, phía dưới nước lõng bõng, coi như bơi xuồng được, nhưng rốt cuộc là chịu thua, sa lầy.

- Rồi thiên hạ làm sao qua khỏi cái giáp nước này?

- Ghe xuồng thứ lớn thì đi vòng ngả trên, đường xa hơn, nhưng chắc ăn. Còn xuồng nhỏ, họ khiêng lên bờ kinh xáng, đi bộ, hơi nặng vai, tới đầu kia thả xuồng xuống nước, tiếp tục. Thôi, hai bác cháu mình, người mũi, kẻ lái như thiên hạ.

Khó định đoạt quá. Lão Ngượt chịu cực khổ để làm mai mối cho anh. Đường dài vượt chín phần mười rồi, chẳng lẽ phần chót, nỡ lòng nào để lão khiêng vác. Xuồng này, thêm nồi chén, dao, củi lung tung, đâu nhẹ.

Hai người nhìn nhau. Lão lên tiếng trước:

- Cháu tính sao?

Hai Cần hỏi ngược lại:

- Bác thấy sao?

- Bác muốn khiêng lên bờ.

- Bác ngồi sau lái, nghỉ ngơi, cháu ra trước mũi, quỳ gối khom xuống, lấy tay mà vẹt.

Lão Ngượt mỉm cười, bí mật:

- Bác ngồi, thêm nặng. Chi bằng bác đi bộ lại nhà... đàng gái, báo tin trước cho họ yên tâm, gặp cháu, họ khỏi ngỡ ngàng, ban đêm, họ thắp đèn đuốc, vài người gần nhà, qua chơi cho ấm áp.

Hai Cần mừng thầm. Là người mang dòng máu “lên rừng xỉa răng cọp, xuống biển hốt trứng sấu”, anh nhứt quyết trổ tài cho nhà gái biết mặt. Chưa ai dám lập kỳ công ở khu vực giáp nước ác hại này. Cây trên rừng, thiên hạ còn lần hồi đốn sạch, cỏ ở U Minh có thể lần hồi nhổ hết, huống gì mớ lục bình nhẹ cân, lêu bêu không căn cội gì trên mặt nước. Ta nắm chóp từng giề mà quăng bỏ, như con nít đùa giỡn.

Trước khi lên bờ. Lão Ngượt căn dặn:

- Nhà ông Khâm khỏi đám lục bình này, bên kia chừng mười công đất, phía tay trái. Một căn hai chái, trước sân trồng bốn cây dừa lùn. Cả nhà chờ cháu tới ăn cơm chiều, nghe không. Đêm nay có trăng sáng.

Cởi áo ra, Hai Cần tới mũi xuồng, khom lưng, vẹt lục bình, ném từng giề, quăng lên cao và thật xa. Xuồng nhích tới nhanh chóng. Mặt trời còn khá cao. Sức anh còn thừa. Hồi lâu, xuồng đến một phần ba vùng giáp nước. Anh lau mồ hôi trán, bụm hai tay, múc nước uống. Bóng dáng lão Ngượt khuất dần, khuất dần trên bờ kinh, năm sáu chiếc xuồng được vác đường bộ, kẻ mũi người lái, thêm trẻ con phía sau, xách nóp, bưng thúng. Vài người trông xuống kinh, với thái độ ngạc nhiên, bàn tán qua lại. Trước mặt chừng năm chục thước, có chiếc xuồng đang... vẹt lục bình như anh, họ day lại, đưa tay ngoắc, như khích lệ. Hoặc họ chờ anh tới tiếp sức, với mưu mẹo gì đó. Anh khom lưng, cố sức nhưng mỗi lúc dường như mỗi giề lục bình nặng gấp ba, gấp bốn, dính chùm với nhau. Vừa kéo lên một chùm là hàng chục chùm ở chung quanh tràn tới, che kín hẳn mặt nước.

Anh bực tức: Tại sao mình không nhảy xuống, nương vào chiếc xuồng mà kéo. Mặt nước hơi cứng cứng, mềm mềm như mặt đất. Lại thất vọng, bị lún ngang gối, anh vội trèo lên, e chìm lỉm, khó trồi đầu, vẹt lục bình để thở. Nhìn trở lại, mới vượt chừng một phần ba đoạn đường, phía trước, muốn vượt một thước, mệt gấp mười lần.

Lão Ngượt ngồi nhậu với lão Khâm, nói chuyện thời tiết, khá tương đắc. Ở nhà bếp, cô Hiếm nửa mừng nửa lo. Bước qua canh hai rồi, sao chàng trai trẻ chưa tới. Cơm cá trên bếp lạnh tanh, rau sống sắp sửa héo. Lão Khâm khuyên chờ, để lát nữa ăn cơm một lượt cho vui.

Lão Ngượt hỏi:

- Mấy giờ rồi?

Lão Khâm đáp:

- Ai biết, nhắm chừng khoảng 10 giờ. Con nít người lớn trong xóm ngủ hết rồi. Tại sao...

- Chắc nó lạc đường. Tôi dặn kỹ rồi mà: nhà một căn hai chái với bốn cây dừa lùn... Từ đây tới chỗ giáp nước chẳng xa gì. Mình đốt đuốc, đi trở lại kiếm thử, hay là...

Vừa ra tới hàng rào trước sân, lão Ngượt trố mắt, nhận ra một bóng dáng đứng lóm thóm bên cây dừa:

- Ủa, Hai Cần tới hồi nào. Sao chưa chịu vô. Chờ nãy giờ... gần chết. Tới đây bằng cách nào?

Vào nhà, chắp tay chào hỏi, anh thấy mệt lả người, chẳng còn che giấu gì nữa:

- Dạ thưa hai bác, cháu bỏ chiếc xuồng trong đám lục bình rồi lên bờ đi bộ. Một mình, vác xuồng không nổi. Sợ hai bác chờ đợi thành ra cháu mang tiếng thất lễ.

Cô Hiếm dọn cơm ra. Chưa chi Hai Cần cúi đầu ăn lua láo, quá đói. Lão Ngượt nói lai rai:

- Thôi đừng buồn. Vậy là giỏi. Năm xưa, nhớ coi, ông Lơ Pheo khẩn đất gần đây đâm đơn kiện hãng Xáng, con kinh ác hại gây ra cái giáp nước, nước ngọt vô ruộng, làm ăn khá, nhưng tá điền khó đem lúa đong cho ông.

Lão Khâm nói xen vào:

- Nói chi cho xa, mới đây hai năm thôi, nghe đồn võ sĩ vô địch là Sáu Cường từ Trà Vinh tới, thử chạy như bay qua chỗ lục bình, bị sụp, tưởng chết luôn, hồi lâu mới trồi đầu lên để thở.

Ăn xong hai chén, Hai Cần đã tỉnh táo, vuốt mái tóc:

- Cháu xin hỏi, lục bình nhiều quá, tại sao mình chưa xài nó vô việc này việc nọ, thưa bác.

Lão Khâm mừng rỡ, vì chàng rể tương lai rõ ràng chí thú làm ăn, muốn khai thác kinh tế, bất cứ nơi nào. Ông đáp:

- Có ông bác vật tới giáp nước, đem vài giề lục bình về chợ Cần Thơ thử làm giấy hút thuốc. Ổng đi mất dạng luôn, nhờ vậy mà Nhà nước chưa cấm... ăn cắp lục bình. Lại có ông “đốc tưa” khuyên dân xứ này ăn thử lục bình, hái đọt, luộc chấm mắm, vì đầy đủ chất tươi. Có thầy nọ rỉ tai với dân: Đừng nghe dại, lục bình độc lắm, ăn nhiều bị... mục xương, thà rằng ăn bông súng, cỏ lá hẹ, rau dừa. Thêm một điền chủ ở Xà No muốn lập trại nuôi heo, tới đây, đem con heo Ma-ni, heo ăn thử một vài giề, vài ngày sau, kêu la ỏm tỏi, heo đòi ăn... cháo heo.

Hai Cần tự an ủi, dầu cho thất bại trong vụ vẹt lục bình anh đã được “ông già vợ tương lai” và lão Ngượt ca ngợi, xem ngang hàng với chủ hãng Xáng, bác vật, “đốc tưa”, điền chủ. Bỗng dưng, anh thấy lo lắng nghĩ tới chuyện về. Chiếc xuồng nọ giờ này ra sao?

Lão Ngượt nói:

- Cháu ngủ mà dưỡng sức, qua bộ ván bên kia, lát nữa, con Hiếm giăng mùng cho.

- Sáng mai, nhớ kêu thức sớm, cháu trở lại, kiếm thử chiếc xuồng của bác.

- Thôi bỏ luôn đi. Ai tới đó mà lấy, lấy rồi làm sao đem chiếc xuồng ra khỏi vòng vây. Hồi ra đi, bác đoán trước cái tánh hăng hái của cháu. Nó hư rồi, đem về mất công. Sáng mai mình mượn chiếc xuồng của bác Khâm mà về. Bác Khâm hứa tới xóm mình một lần nữa và cháu còn trở lại đây một lần nữa cho xong xuôi...

Lão Khâm nói khẽ:

- Mai mốt, nên nhà nên cửa, còn khó bằng mười lần cái vụ qua chỗ giáp nước này. Rốt cuộc qua được nhưng... nhập giang tùy khúc, chuyện vợ chồng tát biển Đông cũng cạn là vậy đó cháu.