← Quay lại trang sách

Vọc nước giỡn trăng

Điệu mới đến ngọn rạch này từ sau ngày rày. Anh chưa có nghề gì sanh sống, không ai quen thuộc để dạy bảo những bước đầu tiên trên đường đời. Cha mẹ anh nghe đâu mất sớm. Ông Năm Lượng nghĩ vậy mà thương, gọi về ở chung nhà, cho ngủ trên cái vạc tre, phía trước.

Gặp những công việc lặt vặt như nấu cơm, rửa chén, bửa củi thì anh khỏi mó tay vì đã có cô Hậu - con gái ông Năm Lượng đảm đương giùm.

Tháng Giêng, buổi chiều thật là êm ả, nếu quên đi chuyện muỗi mòng. Mùi lúa chín từ đồng khơi đưa về nồng ấm. Nước giựt xuống thấp, cây rừng bày gốc rễ trông cao lớn hơn mọi lần. Mớ lá khô nằm đó, vàng sẫm như lót đường cho chim cò, rùa rắn. Ngọn rau muống từ giã bờ rạch, bò lên mé rừng, dây ốm tong teo nhưng dẻo dai, lá nhỏ cuốn tròn bên mấy chùm bông tím đang rũ xuống, kết trái, thứ trái nhỏ tròn như cái nút áo. Bươm bướm bay tung tăng, đậu trên đó. Rồi bươm bướm lại bay, màu cánh vàng chan hòa trong nắng hoàng hôn. Lát nữa, khi đêm về tràn ngập, bươm bướm sẽ về đâu? Bươm bướm có ngủ không? Hay là cứ bay như vậy mãi? Điệu bâng khuâng, tự hỏi.

Ông Năm Lượng cất tiếng:

- Sao ngồi đây cú rũ hoài vậy cháu? Tháng tốt mà! Nói chuyện này chuyện nọ cho vui. Suy nghĩ gì đó?

Điệu trả lời:

- Dạ, ở không hoài sinh buồn bực, phải có công chuyện gì làm ăn như thiên hạ thì mới vui.

Ông Năm Lượng thấy cậu trai nọ là người tốt.

“Ở không hoài sanh buồn bực. - Phải có công chuyện làm ăn như thiên hạ thì mới vui”. Thánh hiền ngày xưa dạy “nhàn cư vi bất thiện”, gẫm lại cũng chẳng hay ho gì hơn câu nói nôm na ấy.

- Thằng này coi bộ được.

Ông Năm nghĩ như vậy, khoái chí:

- Cháu siêng năng lắm. Bác khen cháu. Ngặt xứ này làm lúa muộn. Ngoài đồng lúa chín vàng mơ, trong nhà mờ con mắt là cảnh này đó. Cứ ở không mà chờ. Chịu túng thiếu.

Điệu trả lời:

- Cháu muốn làm nghề gì cho hợp với xứ này. Nhờ bác chỉ dạy giùm.

- Xứ này có cả trăm nghề: đốn củi, bắt rùa, bắt rắn, ăn ong, gặt lúa. Nghề gì cũng học tại trận mới nên; ngồi nói tầm phào đâu được. Biết nghề gì bây giờ? Nằm một chỗ, tháng Giêng, bác dạy cháu một nghề này hay lắm. Cái nghề hát huê tình!

Điệu nửa mừng nửa lo. Mừng vì anh được dịp tiêu khiển. Lo vì khó bề ăn nói. Trong nhà, còn có cô Hậu, con gái ông Năm, chưa chồng cũng như anh chưa vợ. Hát huê tình, mắc cỡ miệng quá, sợ bị hiểu lầm.

Anh hỏi:

- Hát huê tình dễ không bác. Đó là một nghề sao? Lạ quá.

- Gì mà lạ. Học ăn, học nói, học gói, học mở. Ăn nói là điều trời phú cho, ai cũng nói ra tiếng, vậy mà còn phải học, hà huống chuyện hát huê tình đối đáp. Tóm lại, nó như nghề hát bội. Mà có lẽ nó khó hơn vì không có sách, không có bổn tuồng.

Điệu tò mò, đi sâu vào vấn đề:

- Sao vậy bác? Mình đâu cần múa men tay chân, hoặc hát theo nhịp kèn nhịp trống.

- Chưa ắt. Làm sao học thuộc lòng như hát bội được? Người hát huê tình không theo bài bản nhất định. Lúc lom khom gặt lúa, mình làm cho thiên hạ hiểu rằng mình đang chèo ghe hoặc ở lầu cao gác tía hay là hóa phép như Tề Thiên Đại Thánh.

- Khó như vậy, làm sao cháu học được?

- Đừng ngại. Phàm người Việt Nam ai cũng có tài về môn đó. Mới lọt lòng ra đã nghe hò hát rồi.

Điệu nói:

- Đó là hát đưa em.

- Hát đưa em với hát huê tình không khác nhau. Đưa em ở trong nhà. Hò hát ở ngoài đồng ruộng. Nhưng guồn gốc của nó là ở ngoài đồng. Tỷ như người thất tình nọ than thở với mớ dây rau muống ngoài đồng.

Chờ em cho mãn kiếp chờ.

Chờ cho rau muống vượt lên bờ trổ bông.

Câu đó được đưa vô nhà để đưa em ngủ. Nhưng người ta đem nó trở ra đồng ruộng để... hát huê tình. Có người trả lời:

Rau muống trổ bông, lên bờ nó trổ.

Ai biểu anh chờ, anh kể công ơn!

Rồi thì nó trở vô nhà, dùng để đưa em, từ một câu sanh ra hai câu.

Chợt thâu nhận một bài học ngồ ngộ. Điệu cười tươi. Ông Năm Lượng cao hứng vì gặp người biết nghe, chịu nghe.

- Nè! Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi.

Kẻo giông gió đến, rồi bờ bụi tối tăm...

Bên gái trả lời:

- Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể.

Cưới vợ có chửa về, thổi lửa queo râu.

Rốt cuộc, mấy câu hát huê tình trở thành câu hát đưa em. Câu hát đưa em trở thành câu hát huê tình. Nhà lạc nghiệp, tha hồ bỏ ngỏ, trăng gió ra vào không có trăng gió nào là của riêng ai. Cháu thấy rõ chưa? Nhờ hát huê tình mà lòng dạ con người thơ thới, khỏe khoắn. Ngồi trong chòi chớ mà đầu óc bao trùm trời đất. Đứng giữa trời đất đầy nắng mưa giông tố mà thấy ấm áp như trong chòi hẹp.

Điệu muốn học sớm chừng nào hay chừng ấy để kịp thi thố tài năng, vào cuối tháng Giêng.

- Tập tành bao lâu là xong, thưa bác?

- Học mau lắm. Như đứa con nít mới đẻ nhờ bà mụ dộng đầu xuống đất, đánh một cái bốp thì là nó khóc ré lên. Đó là nói sơ qua chớ nói kỹ lưỡng thì không cùng. Cái chuyện thở của con người, tới ngày nay mấy ông thầy thuốc cũng chưa rành nữa kia. Bằng cớ là còn lắm thứ bịnh ho mà thuốc bổ phế, dưỡng lao trị không xuể. Chờ lát nữa, con Hậu rảnh tay, dạy cho cháu mấy lối hát huê tình. Nó hát khá lắm đó...

Cô Hậu dẫn giải rằng hát huê tình gồm ba loại. Loại thứ nhất là “truyện”, dùng sự tích trong truyện Tàu để so sánh với tình cảm người đời nay.

Kế là loại “văn”, dùng cách ngôn thánh hiền, trích trong sách Minh Tâm Bửu Giám.

Thông thường hơn hết - và khó hơn hết - là loại “mép” tức là nói mép, chuyện con chó, con gà, bụi chuối, trận mưa...

Cô đưa ra vài thí dụ:

Bên trai hát:

Văng vẳng bên tai, tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?

Anh đây là chàng Lữ Bố kết nguyền thuở xưa.

Bên gái đáp:

Thiện xử ngã, chẳng qua duyên gió. Lòng tương tư nhớ đến bạn vàng. Thôi thôi, anh đừng có nói lôi thôi. Từ đây, tôi với đó kẻ một nơi, người một nhà...

Hoặc bên trai mở lời:

Phòng loan trải chiếu rộng thinh.

Anh lăn đụng gối, tưởng bạn mình, anh hun.

Bên gái trả lời:

Phải chi em được ở chung.

Thì đâu có ra nông nỗi anh phải hun gối gòn.

Điệu giựt mình, bẽn lẽn, không dè cô Hậu ngỗ nghịch bạo ăn nói đến nước đó. Anh liếc ra sau nhà, trông chừng ông Năm Lượng. Ông ngồi chẻ củi, lại nói lớn:

- Con nhỏ này kỳ cục. Đã dạy thì phải dạy kỹ lưỡng, cho hết lời. Tại sao ngập ngừng?

Cô Hậu thưa:

- Con sợ dạy chưa đúng, nghe kỳ quá.

Ông Năm nói ôn tồn:

- Không kỳ gì hết. Thằng Điệu mới học, con nên dạy nó hát mép như câu hồi nãy. Đừng đem tích Lữ Bố, Điêu Thuyền ra làm chi cho cầu kỳ. Dùng tích xưa, khó mà đúng, lắm khi nghe nhức xương nhức cốt. Ghét nhứt là mấy người hát chạy tới chạy lui: Tiết Nhơn Quí thành ra Tiết Ung Quí, Võ Văn Thành Đô thành ra Võ Văn Ùng Đô! Cứ lựa mấy câu hát mép mà “môi” ra thêm, hoặc “bẻ” cho đúng với tình cảnh. Đó mới là cái hay cái dở của nghề.

Cô Hậu mũi phập phồng. Điệu ngồi bên người đẹp thẹn chưa dám nhìn tự nhiên vào đôi mắt cô. Mấy tiếng “ở chung”, “hun gối gòn” còn văng vẳng, ngọt ngào bên tai.

Như hiểu tâm trạng của chàng trai, cô Hậu tìm những câu hát ít sỗ sàng hơn:

- Anh à! Hát huê tình cần nhất là tùy cơ ứng biến lanh trí, sắp sẵn trong bụng nhiều chữ bắt vần với nhau. Như nàng, gươm vàng, phụng hoàng, viễn tẩu khá nan tàng...

- Chi vậy cô?

- Để khi bí lối, mình hát rao lên vài phút. Miệng mình hát láp dáp câu này để cho đầu óc rảnh rang tìm ra câu kia:

- Tin ve chai năm nay sụt giá. Tôi bán không khá. Tôi trở về Rạch Giá chở một chuyến khoai lang. Tôi xuống chợ Trà Bang... để tìm con bạn ngọc, tôi thở than đôi lời. Phải chi tôi đặng lên trời. Hỏi thăm duyên nợ đời đời về đâu?

Điệu hỏi bối rối:

- Cô bắt nhiều vần lung tung, làm sao tôi nhớ kịp?

Cô Hậu mỉm cười:

- Chỉ cần nhớ hai câu chót mà thôi. Khúc đầu: khoai lang, Trà Bang... không quan trọng. Nói mà nghe chớ tiếng nào mà không quan trọng. Mấy câu đầu giống như tranh sơn thủy. Câu chót là tình ý của riêng mình. Giống như con chim đậu trên nhánh cây. Nhánh cây tốt, có trổ bông thì con chim càng đẹp.

- Còn “môi” là làm sao?

- Là như vậy đó!

- Như vậy đó là làm sao chớ?

- Để tôi nói rõ cho anh nghe thêm... Câu hát này cộc lốc quá:

Chim kêu nhiều tiếng lạ lùng. Kêu cho quân tử nghe cùng, phải duyên thì đẹp, phải lòng thì ưng...

Người hát phái “môi” nó trở lại, cho lảnh lót như tiếng chim kêu:

Con chim (nho nhỏ, mỏ đỏ xanh lông, đỏ mồng xanh kiếng, nó) kêu (xao xuyến) nhiều tiếng lạ lùng. Kêu (sao? Kêu lại) cho quân tử nghe cùng. Phải duyên, quân tử kết: phải lòng quân tử ưng...

Điệu nói:

- Tôi hiểu rồi. Đó là “môi”. Còn “bẻ” câu hả! Nghĩa là sao?

- Là sửa lại mấy câu hát cũ, sẵn có. Thí dụ như ở Sài Gòn người ta khoe khoang:

Xứ đâu thị tứ bằng xứ Sài Gòn.

Dưới sông tàu chạy, trên đường ngựa đua.

Thì ở miệt rừng U Minh, mình bẻ lại là:

U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường.

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.

Như đắc ý, cô Hậu bèn hát khe khẽ một câu quá dài:

Anh thấy em bịnh chắc, anh chạy lại ông thầy thuốc bắc, anh hốt một thang thuốc về sắc hai chén còn lại bảy phân. Tay bưng chén thuốc, anh vuốt ngực chung tình. Chung tình ơi! Chén thuốc kia nóng mà có khi còn nguội, huống chi hai đứa mình giận nhau.

Điệu há miệng ngạc nhiên. Cô Hậu vội nói tiếp:

- Còn nữa. Câu hát buồn bã ấy có thể trở thành khôi hài, vô cùng tận như sau:

Em thấy anh tương tư bịnh chắc, em rước ông thầy thuốc bắc, em sắc hai chục chén còn lại một phân. Bỏ thêm một lát gừng sống, một đống gừng lùi, một nùi chuối hột, một hộp đơn qui, một ky trái táo, năm sáu chục trái cà na, thần sa một lượng, khoai sượng một chục, măng cụt một trăm, rau răm một đám, cám một bao, con gái rao rao mười hai đứa, sứa lửa vài trăm...

Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm...

Uống ba thang mà anh không mạnh thì em đào hầm chôn luôn!

Nghe qua Điệu cười như nắc nẻ. Ông Năm Lượng và cô Hậu cũng cười theo.

Điệu nói:

- Câu hát đó “bẻ” thiệt hay mà “môi” thêm cũng tài!

Ông Năm Lượng thích chí:

- Vậy là cháu hiểu cách hát huê tình rồi đó. Vô nghề đi. Dễ lắm. Nhưng thủng thỉnh rồi cháu thấy nó khó vô cùng tận. Còn nhiều câu “ế tử” không ai đáp nổi. Phải là tay đầy đủ khí phách mới mong qua khỏi cơn gió độc hiểm nghèo. Ờ. Câu gì năm ngoái đó Hậu?

Cô Hậu ngập ngừng, cười rồi cúi mặt:

- Dạ cái câu: Lỡ chân em té xuống bùn. Áo quần lem lấm, anh hun chỗ nào?

Ông Năm Lượng hỏi:

- Đâu! Thằng Điệu mày trả lời thử coi. Nghe qua mà phát nóng lạnh. Chẳng lẽ bọn con trai thua trí một cô gái?

Điệu ấp úng:

- Dạ không biết... mà cháu cũng không dám lên tiếng.

Ông Năm cười giòn:

- Người con gái kiêu hãnh, khinh khi bọn đàn ông. Đàn ông nên tỏ ra rộng lượng khoan hồng cho cô gái ngán. Mình gỡ lại như vầy: Cô ơi! Đừng nói thấp cao, thân cô lem lấm chỗ nào tôi cũng hun!

Điệu buộc miệng:

- Hay quá. Nhưng mà ghê quá!

- Cái gì mà ghê? Hát huê tình phải vậy đó cháu. Ở ngoài ruộng, trời mây bao la gió thổi mạnh, trong sạch lắm. Người ta xúm nhau thách đố, cười thật lớn, châm chọc thật đau, cho qua cơn mệt nhọc. Để rồi quên tất cả. Như diễn tuồng hát bội: người trẻ đóng tuồng làm cha của người già tuổi hơn. Huê tình là chuyện ngàn xưa ai ai cũng có, cũng ưa. Nó như ao bùn có bông sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Chỉ ngại là: khi về nhà, ngồi một mình trong phòng the cửa kín mà nghĩ chuyện xằng bậy. Để bác nhớ thử. Dường như ông vua Thành Thái đã răn phạt một bà cung phi chỉ vì bà ta vô ý hoặc cố tình hát câu này “ngồi buồn vọc nước giỡn trăng... Nước xao trăng dợn biết rằng về đâu?” Hai đứa bây hiểu chưa, thằng Điệu con Hậu?

Đôi trai tơ gái lứa nghiêm mặt, lẳng lặng nghe ông Năm Lượng nói tiếp:

- Vua Thành Thái có lý lắm. Bà cung phi có ý mơ ước tình ái viển vông với một người khác, phụ bạc nhà vua. Câu đó gồm những chữ tao nhã trong sạch. Nhưng hát không đúng lúc thì nó chứng tỏ người hát mang tâm địa xấu xa. Thanh hay tục là do lòng người chớ nào vì câu hát. Bùn không có tội. Bông sen không có tội. Câu hát huê tình cao siêu lắm. Bởi vậy thiên hạ gìn giữ nó hoài hoài...