Chương 3 - Bị Cầm Tù Cùng Với Con Mèo Của Tôi.
Dưa em xem cái mic quái quỷ đó.]
Xin chào. Sadie đây. Anh trai tôi là một người kể chuyện thật tệ. Xin lỗi về điều đó. Nhưng giờ các bạn đã có tôi, thế là ổn thỏa rồi.
Để xem nào. Vụ nổ. Phiến đá Rosetta biến thành cả tỉ mảnh nhỏ. Cái gã lửa xấu xa đó. Cha bị nhốt trong một cái quan tài. Gã người Pháp kỳ quái và cô nàng Ả-rập với một con dao. Chúng tôi ngất đi. Được rồi.
Vì thế khi tôi tỉnh lại, cảnh sát đang tuôn vào như bạn nghĩ. Họ tách tôi khỏi anh trai. Tôi không phản đối điều đó. Dù sao anh ấy cũng là một kẻ phiền phức. Nhưng họ đã nhốt tôi trong phòng của người quản lý trong một thời gian dài. Và vâng, họ dùng xích xe đạp của chúng tôi để làm điều đó. Nhưng kẻ ngu ngốc.
Tôi hoàn toàn kiệt sức, dĩ nhiên. Tôi đã bị làm cho bất tỉnh bởi một cái thứ bốc lửa nào đó. Tôi đã nhìn thấy cha tôi bị nhốt vào trong một cái quách và bắn xuyên qua sàn nhà. Tôi cố nói cho cảnh sát về điều đó, nhưng họ có quan tâm không? Không đâu.
Tệ hơn cả: tôi chịu một cơn ớn lạnh âm ỉ, như thể ai đó đang châm các mũi kim lạnh như băng vào phía sau cổ tôi. Điều này bắt đầu khi tôi nhìn vào những chữ phát ánh sáng xanh mà cha đã vẽ lên Phiến đá Rosetta và tôi biết chúng có nghĩa là gì. Một căn bệnh di truyền, có lẽ thế nhỉ? Liệu kiến thức về những thứ vớ vẩn của người Ai Cập chán ốm đó sẽ được di truyền sao? Chúc tôi may mắn đi.
Một thời gian dài sau khi kẹo cao su của tôi trở nên nhạt nhẽo, một nữ cảnh sát cuối cùng cũng thả tôi ra khỏi văn phòng của người quản lý. Cô ta chẳng hỏi tôi điều gì. Cô ta chỉ đẩy tôi vào bên trong một chiếc xe cảnh sát và đưa tôi về nhà. Ngay sau đó, tôi cũng không được phép giải thích cho ông bà ngoai. Người nữ cảnh sát đó chỉ việc quăng trôi vào phòng và tôi chờ. Và chờ.
Tôi không thích chờ.
Tôi đi tới đi lui trên sàn nhà. Phòng tôi chẳng có gì sang trọng, chỉ là gác mái với một cái cửa sổ, một cái giường và một cái bàn. Chẳng có gì nhiều để làm. Muffin ngửi ngửi lấy chân tôi và cái đuôi của nó phồng lên như cái bàn chải cọ chai. Tôi cho là nó không thích mùi của bảo tàng. Nó rít lên và biến xuống dưới giường.
“Cám ơn rất nhiều,” tôi lầm bầm.
Tôi mở cửa ra, nhưng người nữ cảnh sát đang đứng gác.
“Một lát thanh tra sẽ gặp cô,” cô ta bảo tôi. “Làm ơn ở yên bên trong.”
Tôi có thể nhìn xuống dưới lầu - chỉ loáng thoáng hình ảnh ông ngoại đang đi tới đi lui trong phòng, vặn vẹo hai tay, trong khi anh Carter và một thanh tra cảnh sát nói chuyện trên ghế sofa. Tôi không nghe ra được những gì họ đang nói. “Liệu tôi có thể dùng nhà vệ sinh không?” tôi hỏi nữ cảnh sát xinh đẹp.
“Không.” Cô ta đóng sập cửa vào mặt tôi. Như thể tôi sẽ tạo ra một vụ nổ trong nhà vệ sinh vậy. Trời ạ.
Tôi lấy iPod ra và tìm khắp danh sách bài hát. Chẳng có gì làm tôi hứng thú. Tôi chán ghét ném nó lên giường. Khi tôi bị sao nhãng đến mức không thích nghe nhạc nữa, đó là điều đáng buồn nhất. Tôi tự hỏi sao anh Carter lại là người đầu tiên nói chuyện với cảnh sát. Thật chẳng công bằng tý nào.
Tôi nghịch nghịch chiếc vòng cổ cha đã đưa cho tôi. Tôi chưa bao giờ biết ý nghĩa của biểu tượng này là gì. Của anh Carter rõ ràng là một con mắt, nhưng của tôi trông giống một thiên thần, hoặc có thể là một con robot giết người ngoài hành tinh.
Cái quái gì mà cha tôi lại hỏi liệu tôi vẫn còn giữ nó không? Dĩ nhiên là tôi vẫn còn giữ nó. Nó là món quà duy nhất mà ông đã tặng cho tôi. Ừm, thì ngoài con Muffin ra, mà với tính cách của con mèo, tôi không chắc là có nên gọi nó là món quà đúng nghĩa không nữa.
Xét cho cùng là cha gần như bỏ rơi tôi lúc tôi lên 6. Chiếc vòng cổ là mối liên kết duy nhất của tôi với ông. Vào những ngày vui vẻ tôi sẽ nhìn chằm chằm vào nó và nhớ ông một cách trìu mến. Vào những ngày buồn bã (điều thường xuyên xảy ra hơn) tôi sẽ ném nó qua phía bên kia phòng, giẫm len nó và nguyền rủa ông vì đã không ở bên canh tôi, làm vậy tôi lại cảm thấy khá hơn. Nhưng cuối cùng, tôi luôn mang nó vào lại.
Dù sao đi nữa, khi những chuyện kỳ lạ diễn ra ở bảo tàng - mà tôi không có bịa chuyện đâu nhé - chiếc vòng cổ trở nên nóng hơn. Tôi suýt cời nó ra, nhưng tôi không thể ngăn việc tự hỏi liệu nó có thật sự bằng cách nào đấy đang bảo vệ cho tôi hay không.
Cha sẽ làm mọi thứ trở nên đúng đắn, Cha đã nói, với cái nhìn như có lỗi ông thường nhìn tôi.
Hừm, một sai lầm nghiêm trọng đây, Cha ạ.
Ông đã nghĩ gì ấy nhỉ? Tôi muốn tin rằng tất cả đã chỉ là một giấc mơ xấu: những chữ tượng hình phát sáng, cây gậy rắn, cỗ quan tài. Những chuyện như thế đơn giản là chỉ không xảy ra. Nhưng tôi biết rõ. Tôi không thể mơ bất cứ thứ gì đáng sợ như khuôn mặt của gã đàn ông lửa khi gã quay lại nhìn chúng tôi. Gã đã nói với anh Carter, “Sẽ chóng thôi, thằng nhãi,” như thể gã có ý định lần theo bắt chúng tôi. Chỉ mới nghĩ thế mà hai tay tôi đã run rồi. Tôi cũng không thể không tự hỏi về việc chúng tôi dừng lại ở Cleopatra’s Needle, về cách cha tôi cứ khăng khăng muốn nhìn thấy nó, như thể ông đang làm cho mình trở nên dũng cảm, như thể những gì ôn đã làm ở Bảo tàng Anh có liên quan đến mẹ tôi vậy.
Đôi mắt tôi lang thang khắp phòng rồi nhìn chằm lên mặt bàn học của tôi.
Không, tôi nghĩ. Sẽ không làm điều đó.
Nhưng tôi bước tới và mở ngăn kéo ra. Tôi gạt sang một bên một vài cuốn tạp chí cũ, một vài cái kẹo tôi đã giấu đi, một đống bài tập toán về nhà mà tôi đã quên nộp, và một vài bức ảnh tôi cùng các bạn học Liz và Emma đang thử những chiếc mũ buồn cười ở chợ Camden. Và nằm bên dưới mấy thứ đó là bức ảnh mẹ tôi.
Ông bài ngoại có hàng đống ảnh. Họ dựng một miều thờ mẹ Ruby trong tủ ly ở hành lang - các bức vẽ từ thời còn bé, các kết quả tốt nghiệp trung học phổ thông[4], hình chụp tốt nghiệp đại học, đồ trang sức yêu thích của bà. Thật khá cảm tính. Tôi đã quyết đinh không giống họ, sống với quá khứ. Xét cho cúng thì tôi hầu như không nhớ gì về Mẹ, và chẳng có gì có thể thay đổi được sự thật rằng bà đã mất.
Nhưng tôi có giữ lại cho mình một bức ảnh. Đó là hình chụp Mẹ và tôi ở nhà chúng tôi tại Los Angeles, được chụp sau khi tôi được sinh ra. Bà đứng bên ngoài ban công, Thái Bình Dương ở phía sau lưng, đang ôm một đứa bé béo mập nhăn nheo mà một ngày nào đó sẽ lớn lên thành tôi ở hiện tại. Em bé là tôi lúc đó chẳng có gì để nói, nhưng mẹ tôi thật lộng lẫy, thậm chí chỉ với quần soóc và áo phông rách. Đôi mắt bà mang màu xanh thăm thẳm. Mái tóc vàng được túm lại phía sau. Da bà không tì vết. Khá chán khi so với da tôi. Mọi người thường nói tôi trông giống bà, nhưng tôi thậm chí không thể nặn sạch mụn khỏi cằm, lại càng không thể trông chín chắn hay xinh đẹp bằng mẹ mình được.
[Không được nhe răng cười, Carter.]
Bức ảnh khiến tôi thích thú vì tôi hầu như chẳng nhớ chút nào đến cuộc sống chung của chúng tôi. Nhưng lý do quan trọng nhất tôi giữ lại nó là vì biểu tượng trên áo phông của mẹ: một trong số các biểu tượng của sự sống - ankh, chìa khóa của sự sống.
Người mẹ đã chết của tôi mặc áo có biểu tượng của sự sống. Không gì có thể buồn hơn. Nhưng bà đã mỉm cười về phía máy ảnh như thể bà biết được một bí mật. Như thể cha tôi và bà đang chia sẻ một câu chuyện cười của riêng hai người.
Có thứ gì đó nháy nhó trong tâm trí tôi. Người đàn ông thấp, to khỏe trong chiếc áo dài từng tranh cãi với cha tôi ở phía bên kia đường - ông ta đã nói điều gì đó về Per Ankh.
Từ ankh của ông ta là từ biểu tượng sự sống sao, và nếu như thế thì từ per là gì? Tôi cho rằng ý ông ta không phải là từ pear như một loài trái cây ấy chứ nhỉ.
Tôi có một cảm giác kỳ quái rằng nếu tôi nhìn thấy được từ Per Ankh viết bằng chữ tượng hình, tôi sẽ biết được chúng có nghĩa là gì.
Tôi đặt bức ảnh của mẹ xuống. Tôi cầm cây bút chì lên và lật ngược lại một trong số các tờ giấy bài tập về nhà cũ của tôi. Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu tôi thử vẽ các từ Per Ankh. Liệu mẫu chũ tượng hình thích hợp có tự nảy đến với tôi không?
Khi tôi vừa chạm đầu bút chì xuống trang giấy, cửa phòng tôi mở ra. “Cô Kane?”
Tôi quay người lại và thả cây bút chì xuống.
Một thanh tra cảnh sát cau mày đúng ở cửa phòng tôi. “Cháu đang làm gì thế?”
“Toán,” tôi nói.
Trần phòng tôi khá thấp, vì thế viên thanh tra phải cúi lom khom để bước vào. Ông ta mặc một bộ vest màu bụi vải hợp với mái tóc bạc và khuôn mặt nhợt nhạt của ông ta. “Thế này này, Sadie. Tôi là Chánh Thanh tra Williams. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau một lát nhé, được không? Ngồi xuống nào.”
Tôi không ngồi, và ông ta cũng không, chắc chắn điều này khiến ông ta khá khó chịu. Thật khó để giống một người chỉ huy khi bạn phải khòm người lại như thằng gù Quasimodo.
“Làm ơn kể cho tôi nghe mọi thứ nào,” ông ta nói, “từ thời điểm cha cháu đến đón cháu.”
“Cháu đã nói cho người cảnh sát ở bảo tàng rồi.”
“Nói lại một lần nữa, nếu cháu không phiền.”
Thế là tôi kể cho ông ta tất cả. Sao lại không chứ? Đôi lông mày bên trái của ông ta nhướn lên mỗi lúc một cao hơn khi tôi kể ra những phần kỳ lạ như những chữ phát sáng và cây gậy rắn.
“Ừm, Sadie này,” Thanh tra Williams nói. “Cháu quả là có óc tưởng tượng đấy.”
“Cháu không nói dối, thưa Thanh tra. Và cháu nghĩ lông mày ông đang cố trốn thoát kìa.”
Ông ta cố nhìn lông mày của chính mình, rồi quắc mắt nhìn tôi. “Giờ thì, Sadie, tôi chắc điều này thật khó với cháu. Tôi hiểu cháu muốn bảo vệ danh tiếng của cha mình. Nhưng giờ ông ấy đã ra đi...”
“Ý ông là xuyên qua sàn nhà trong một cái quan tài sao,” tôi khăng khăng. “Ông ấy không chết.”
Thanh tra Williams dang hai tay ra. “Sadie, tôi rất lấy làm tiếc. Nhưng chúng ta phải tìm ra lý do sao ông ta lại thực hiện cái hành động... ừm...”
“Hành động gì?”
Ông ta hắng giọng một cách khó chịu. “Cha cháu đã phá hủy các hiện vật vô giá và hình như đã tự giết mình trong khi làm việc đó. Chúng ta rất muốn biết lý do cho việc đó.”
Tôi nhìn chòng chọc vào ông ta. “Ông đang nói cha tôi là một kẻ khủng bố sao? Ông có điên không thế?”
“Chúng tôi đã gọi cho một vài đồng nghiệp của cha cháu. Tôi được biết là cách cư xử của ông ấy trở nên thất thường sau cái chết của mẹ cháu. Ông ấy trở nên thu mình và bị ám ảnh với các nghiên cứu của mình, dành ngày càng nhiều thời gian hơn ở Ai Cập...”
“Ông ấy là một nhà Ai Cập học, trời ạ! Ông nên tìm kiếm ông ấy, chứ không phải hỏi những câu hỏi ngớ ngẩn như thế!”
“Sadie,” ông ta nói, và tôi có thể nhận ra qua giọng nói của ông ta rằng ông ta đang cố chống lại mong muốn được bóp chết tôi. Lạ lùng thay, tôi gặp phải khá nhiều phản ứng kiểu này từ người lớn. “Có những nhóm người cực đoan ở Ai Cập phản đói các hiện vật của người Ai Cập được giữ trong các bảo tàng của nước khác. Những người đó có thể đã tiếp cận với cha cháu. Có thể ở địa vị của mình, cha cháu trở thành mục tiêu dễ dàng với bọn chúng. Nếu cháu từng nghe thấy ông ấy nhắc đến bất cứ cái tên nào...”
Tôi đi sầm sầm ngang qua ông ta để đến bên cửa sổ. Tôi quá giận đến nỗi không thể nào suy nghĩ được. Tôi từ chối tin rằng Cha đã chết. Không, không, không. Và một kẻ khủng bố ư? Làm ơn đi. Sao những người lớn lại ngốc đến thế nhỉ? Họ luôn bảo “nói sự thật đi”, và khi bạn làm thế, thì họ lại không tin bạn. Thế thì nói làm gì?
Tôi nhìn chăm chú xuống con phố tối đen. Đột nhiên cái cảm giác lạnh lẽ râm ran lại trở nên tệ hơn bao giờ hết. Tôi tập trung nhìn vào cây khô đã chết nơi tôi đã gặp Cha lúc sớm. Giờ đang đứng đó, trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đường, ngước nhìn lên phía tôi, là gã mập lùn mặc chiếc áo khoác màu đen và cặp mắt kính tròn cùng chiếc mũ phớt - người đàn ông mà Cha đã gọi là Amos.
Tôi cho rằng đáng ra mình phải thấy bị đe dọa bởi một người đàn ông kỳ lạ đang chăm chú nhìn mình trong đêm tối như mực. Nhưng nét mặt ông ta lại đầy rẫy quan tâm. Và ông ta trông thật là quen. Tôi muốn nổi điên khi không thể nhớ được lý do sao lại quen như thế.
Phía sau lưng tôi, viên thanh tra hắng giọng. “Sadie, không ai đổi lỗi cho cháu về vụ tấn công ở bảo tàng cả. Chúng ta hiểu cháu bị lôi vào chuyện này ngoài ý muốn.”
Tôi quay mặt khỏi khung cửa sổ. “Ngoài ý muốn ư? Cháu đã nhốt người quản lý trong phòng của ông ta.”
Lông mày của viên sỹ quan lại bắt đầu bò lên. “Cho dù thế đi chăng nữa, chắc chắn là cháu đã không hiểu được những gì cha cháu định làm. Có thể anh trai cháu có liên quan?”
Tôi khịt mũi. “Anh Carter sao? Làm ơn đi.”
“Vậy cháu cũng quyết định bảo vệ cậu ta. Cháu xem cậu ta như một người anh đích thực của mình, nhỉ?”
Tôi thật không thể tin nổi. Tôi muốn tát vào mặt ông ta. “Nói vậy là ý gì? Vì anh ấy không giống tôi sao?”
Viên thanh tra chớp mắt. “Tôi chỉ muốn nói...”
“Tôi biết ý ông là gì. Dĩ nhiên anh ấy là anh trai tôi!”
Thanh tra Williams đưa hai tay lên biểu lộ sự xin lỗi, nhưng tôi vẫn đang điên cả tiết. Mặc dầu anh Carter làm tôi thấy khó chịu, nhưng tôi ghét khi mọi người cho rằng chúng tôi không có quan hệ với nhau, hay nhìn cha tôi một cách ngờ vực khi ông nói ba chúng tôi là một gia đình - như thể chúng tôi đã làm điều gì sai lầm ấy. Tiến sĩ Martin ngu ngốc ở bảo tàng. Thanh tra Williams. Chuyện này xảy ra mỗi khi Cha, anh Carter và tôi ở cùng nhau. Lúc nào cũng như thế.
“Tôi xin lỗi, Sadie,” viên thanh tra nói. “Tôi chỉ muốn chắc chắn rằng chúng tôi phân loại người vô tội và kẻ có tội. Sẽ dễ dàng hơn cho mọi người khi cháu hợp tác đấy. Bất cứ thông tin nào. Bất cứ điều gì cha cháu đã nói. Những người ông ấy có thể đã nhắc đến.”
“Amos,” tôi bật ra cái tên đó, chỉ để nhìn xem phản ứng của ông ta. “Ông đã gặp một người tên là Amos.”
Thanh tra Williams thở dài. “Sadie, cha cháu không thể làm thế. Chắc cháu biết rõ điều đó. Chúng tôi đã nói chuyện với Amos cách đây chưa tới một tiếng, qua điện thoại từ nhà ông ấy ở New York.”
“Ông ta không ở New York!” tôi khẳng định. “Ông ta ở ngay...”
Tôi liếc nhìn qua cửa sổ và Amos đã biến mất. Kinh điển thật.
“Không thể tin được,” tôi nói.
“Chính xác,” viên thanh tra đáp.
“Nhưng ông ta đã ở đây!” tôi kêu lên. “Ông ta là ai? Một trong số các đồng nghiệp của cha tôi sao? Sao các ông biết mà gọi cho ông ta?”
“Thật tình đấy, Sadie. Ngừng làm trò đi.”
“Làm trò?”
Viên thanh tra chăm chú nhìn tôi trong một lúc, rồi ông ta nghiến răng như thể đã có quyết định. “Chúng tôi đã biết được sự thật từ Carter. Tôi không muốn làm cho cháu buồn, nhưng cậu ta đã kể tất cả. Cậu ta hiểu chẳng có ích gì khi bảo vệ cho cha cháu vào lúc này. Thôi thì cháu cũng giúp cho chúng tôi cho rồi, và sẽ chẳng có lời buộc tội nào đối với cháu đâu.”
“Các ông không nên nói dối với trẻ con!” tôi hét lớn, hy vọng giọng nói của tôi có thể vang xuống phía dưới lầu. “Anh Carter sẽ không bao giờ nói điều gì chống lại Cha, và cả tôi cũng thế!”
Viên thanh tra thậm chí chẳng có lấy chút xấu hổ nào.
Ông ta khoanh tay lại. “Tôi lấy làm tiếc vì cháu cảm thấy như vậy, Sadie à. Tôi e giờ là lúc chúng ta phải xuống nhà... để thảo luận các hậu quả với ông bà ngoại cháu.”