← Quay lại trang sách

Chương 4 - Bị Bắt Cóc Bởi Người-Không-Xa-Lạ-Cho-Lắm.

TÔI QUẢ LÀ THÍCH CÁC BUỔI GẶP MẶT GIA ĐÌNH. Rất ấm áp, với các vòng hoa Giáng sinh được treo quanh lò sưởi cùng một ấm trà xinh đẹp và một thám tử đến từ Sở Cảnh sát Anh sẵn sàng để bắt bạn.

Carter ngồi sụp xuống trong ghế sofa, ôm cái túi đồ nghề của Cha trong tay. Tôi tự hỏi sao cảnh sát để cho anh ấy giữ nó. Nó đáng lẽ phải là bằng chứng hay là gì đấy chứ, nhưng viên thanh tra dường như chẳng chú ý gì đến cái túi ấy cả.

Carter trông thật tệ - ý tôi là còn tệ hơn cả bình thường. Thật tình chứ, anh ấy chưa bao giờ theo học ở một trường học chính thống nào, thế mà lại ăn mặc trông giống hệt một giáo sư đại học, với quần kaki và một chiếc áo sơ mi cài kín cổ cùng giày da. Tôi cho rằng anh ấy không đến nỗi xấu trai. Anh ấy khá cao và mạnh khỏe, tóc tai cũng không đến nỗi. Anh mang đôi tất của Cha, và những người bạn của tôi, Liz và Emma thậm chí đã từng nói với tôi khi nhìn thấy ảnh của Carter là anh ấy trông thật hấp dẫn, khiến tôi thấy bán tin bán nghi vì (a) anh ấy là anh trai tôi, và (b) những người bạn của tôi hơi điên một chút. Nói tới quần áo, Carter thật là hết thuốc chữa.

[Ồ, không nên nhìn em như thế, Carter. Anh biết đó là sự thật mà.]

Dù sao đi nữa, tôi không nên quá khó chịu với anh ấy như thế. Anh ấy đang phải chịu đựng sự biến mất của Cha thậm chí còn nhiều hơn cả tôi.

Ông bà ngoại đang ngồi hai bên anh ấy, trông khá sợ hãi. Ấm trà và đĩa bánh quy được đặt trên bàn, nhưng không ai đụng vào bất cứ thứ gì. Chánh Thanh tra Williams ra lệnh ra tôi ngồi vào chiếc ghế trống còn lại duy nhất. Rồi ông ta đi tới đi lui phía trước lò sưởi ra vẻ quan trọng. Thêm hai cảnh sát nữa đứng ở phía cửa trước - người phụ nữ lúc nãy và một anh chàng to béo cứ mãi đưa mắt nhìn đĩa bánh quy.

“Ông bà Faust,” thanh tra Williams nói, “tôi e là chúng ta có hai đứa trẻ không biết hợp tác.”

Bà ngoại nghịch gấu váy của mình. Thật khó tin là bà lại có họ hàng với mẹ. Bà ngoại yếu đuối và nhợt nhạt, trông thật sự giống một hình nhân nguệch ngoạc, trong khi mẹ trong các bức ảnh luôn trông rất hạnh phúc và đầy sức sống. “Chúng chỉ là những đứa trẻ thôi mà,” bà nói. “Rõ là các ông không thể đổ lỗi cho chúng.”

“Hừ!” ông ngoại nói. “Chuyện này nực cười quá, ông thanh tra. Chúng chẳng phải chịu trách nhiệm gì cả.”

Ông ngoại là một tay cựu cầu thủ bóng bầu dục. Ông có hai cánh tay lực lưỡng, một cái bụng quá lớn sơ với cái áo sơ mi, và đôi mắt lún sâu bào trong khuôn mặt, như thể ai đó đã đấm chúng vào vậy (ừm, thật ra cha đã đấm chúng cách đây vài năm, nhưng đó là chuyện khác). Ông ngoại trông khá đáng sợ. Thường thì người ta né khỏi ông, nhưng thanh tra Williams dường như chẳng mấy quan tâm.

“Ông Faust,” ông ta nói, “ông hình dung xem các tiêu đề báo sáng sẽ là gì nào? ‘Bảo tàng Anh đã bị tấn công. Phiến đa Rosetta đã bị phá hủy.’ Con rể ông...”

“Cựu con rể,” ông ngoại đính chính.

“...dường như biến mất trong vụ nổ, hay ông ta đã bỏ chạy, trong trường hợp đó...”

“Cha đã không bỏ chạy!” tôi hét lớn.

“Chúng tôi cần biết ông ta đang ở đâu” viên thanh tra tiếp tục nói. “Và các nhân chứng duy nhất, hai cháu ngoại của ông, từ chối nói cho tôi biết sự thật.”

“Chúng tôi đã nói cho ông sự thật,” Carter nói. “Cha không chết. Ông đã chìm xuyên qua sàn nhà.”

Thanh tra Williams liếc nhìn về phía bà ngoại, như thể muốn nói, Đấy, bà thấy không? Rồi ông ta quay về phía Carter. “Anh bạn trẻ này, cha cậu đã phạm tội. Ông ta đã bỏ cậu lại để giải quyết các hậu quả...”

“Không đúng!” tôi cắt ngang, giọng tôi run rẩy vì tức giận. Dĩ nhiên tôi không thể tin rằng Cha chủ định bỏ chúng tôi lại phó mặc cho cảnh sát. Nhưng ý nghĩ ông từng bỏ rơi tôi - ừ thì, như tôi đã đề cập ấy, chuyện này là một đề tài hơi nhạy cảm.

“Cháu yêu, làm ơn đi,” bà ngoại nói với tôi, “ông thanh tra đây chỉ đang làm nhiệm vụ của mình mà thôi.”

“Làm dở như hạch!” tôi nói.

“Chúng ta uống ít trà nhé,” bà ngoại gợi ý.

“Không!” Carter và tôi cùng hét lên, khiến tôi cảm thấy hơi tệ với bà ngoại, vì bà gần như rũ xuống trong ghế sofa.

“Chúng tôi có thể bắt cô,” viên thanh tra cảnh báo, quay sang phía tôi. “Chúng tôi có thể và chúng tôi sẽ...”

Ông ta cứng người lại. Rồi ông ta chớp mắt một vài lần, như thể ông ta đã quên những gì mình đang làm.

Ông ngoại cau mày.”Ờ, thanh tra này?”

“Vâng...” Chánh Thanh tra Williams lầm bầm như trong mơ. Ông ta cho tay vào túi và lấy ra một cuốn sổ nhỏ màu xanh - một cuốn hộ chiếu Mỹ. Ông ta ném nó vào lòng Carter.

“Cậu bị trục xuất,” thanh tra thông báo. “Cậu sẽ phải rời khỏi đất nước này trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nếu chúng tôi cần hỏi cậu thêm nữa, cậu sẽ được liên lạc thông qua FBI.”

Miệng Carter cứ gọi là há hốc cả ra. Anh ấy nhìn tôi, và tôi biết mình đang không tưởng tượng về chuyện này. Viên thanh tra đã đổi hướng hoàn toàn. Tôi chắc chắn về điều đó. Và rồi tự nhiên từ trên trời rơi xuống, ông ta trục xuất Carter sao? Thậm chí các viên cảnh sát khác trông cũng hoang mang.

“Thưa thanh tra?” Nữ cảnh sát lên tiếng hỏi. “Ông có chắc...”

“Im lặng, Linley. Hai người có thể rời đi.”

Hai viên cảnh sát ngần ngừ cho đến khi ông Williams xua xua tay đuổi đi. Họ rời đi và đóng cánh cửa đằng sau họ lại.

“Chờ đã,” Carter nói. “Cha tôi đã biến mất, và ông muốn tôi rời khỏi đất nước này sao?”

“Cha cậu đã chết hoặc là bỏ trốn, con trai ạ,” viên thanh tra nói. “Việc trục xuất là lựa chọn an toàn nhất. Việc đó đã được dàn xếp.”

“Với ai?” ông ngoại hỏi. “Ai chịu trách nhiệm cho chuyện này?”

“Với...” viên thanh tra lại khoác vào cái nhìn trống rỗng buồn cười đó. “Với những người có thẩm quyền thích hợp. Tin tôi đi, như thế tốt hơn nhà tù nhiều.”

Carter trông đau khổ không thốt nên lời, nhưng trước khi tôi có thể cảm thấy buồn cho anh ấy, thì thanh tra Williams đã quay về phía tôi. “Cháu, cả cháu nữa.”

Thà ông ấy lấy búa nện tôi luôn đi cho rồi.

“Ông đang trục xuất tôi ư?” tôi hỏi. “Tôi sống ở đây cơ mà!”

“Cháu là một công dân Mỹ. Và trong trường hợp này, tốt nhất là cháu nên quay về nhà.”

Tôi chỉ trừng trừng nhìn ông ta. Tôi không thể nhớ được bất cứ ngôi nhà nào ngoại trừ căn hộ này. Các bạn học của tôi ở trường, căn phòng của tôi, mọi thứ tôi biết đều ở đây. “Tôi phải đi đâu đây?”

“Thanh tra này,” bà ngoại nói, giọng bà đang run rẩy. “Điều này không đúng. Tôi không thể tin...”

“Tôi sẽ để cho mọi người có thời gian chào tạm biệt,” viên thanh tra cắt ngang. Rồi ông ta cau mày như thể bị đánh đố bởi các hành động của chính mình. “Tôi... tôi phải đi.”

Điều này không nghĩa lý gì cả, và viên thanh tra dường như nhận ra điều đó, nhưng ông ta dù sao cũng đã đi về phía cửa trước. Khi ông ta mở cửa ra, tôi gần như nhảy dựng lên, vì Amos, người đàn ông trong bộ đồ đen, đang đứng ở đó. Ông ta đã bỏ cái áo khoác lẫn mũ ở đâu đó, nhưng vẫn đang mặc cùng bộ vest may bằng vải sọc và cặp mắt kính tròn. Mái tóc được tết của ông ta lấp lánh các hạt vàng.

Tôi tưởng viên thanh tra sẽ nói gì đấy, hay bày tỏ ngạc nhiên, nhưng ông ta thậm chí còn không nhận biết Amos. Ông ta đi băng qua Amos và biến mất trong bóng đêm.

Amos đi vào bên trong và đóng cửa lại. Ông bà ngoại đứng bật dậy.

“Cậu,” ông ngoại gầm lên. “Ta nên biết điều này chứ. Nếu ta trẻ hơn, ta sẽ đánh cậu ra thành bã đấy.”

“Xin chào, ông bà Faust,” Amos nói. Ông ta nhìn Carter và tôi như thể chúng tôi là những rắc rồi cần giải quyết. “Đến lúc chúng ta cần nói chuyện.”

Amos cứ tự nhiên như ở nhà vậy. Ông ta thả người xuống ghế sofa và tự rót tra cho mình. Ông ta nhai tóp tép một cái bánh quy, điều đó khá nguy hiểm, vì bánh quy của bà ngoại thường rất tệ.

Tôi nghĩ đầu ông ngoại sẽ nổ tung. Khuôn mặt ông đỏ rực. Ông đi vòng ra sau Amos và đưa tay lên như thể sắp đánh ông ta vậy, nhưng Amos vẫn nhai tóp tép cái bánh quy của mình.

“Làm ơn, ngồi xuống đi,” ông ta bảo với chúng tôi.

Và tất cả chúng tôi ngồi xuống. Đây là điều lạ lùng nhất - như thể chúng tôi đang chờ lệnh của ông này. Thậm chí cả ông ngoại cũng bỏ tay xuống và đi vòng ra ghế sofa. Ông ngồi xuống kế bên Amos với một cái thở dài đáng ghét.

Amos nhấp một ngụm trà và nhìn tôi chăm chú với sự không hài lòng. Chẳng công bằng gì cả, tôi nghĩ. Tôi trông không tệ đến thế, xét theo những gì chúng tôi đã trải qua. Đoạn ông ta nhìn sang Carter và lẩm bẩm.

“Thời điểm dở tệ,” ông ta lầm bầm. “Nhưng chẳng còn cách nào khác. Chúng phải cùng đi với tôi.”

“Xin lỗi nhé?” tôi nói. “Tôi sẽ không đi đâu cả cùng với một gã lạ hoắc nào đó mặt dính đầy bánh quy đâu!”

Quả thật là ông ta có các mẩu bánh quy vụn trên mặt, nhưng ông ta hình như chẳng quan tâm, vì ông ta chẳng thèm kiểm tra xem.

“Ta không phải là người lạ, Sadie,” ông ta nói. “Cháu không nhớ sao?”

Thật là rùng mình khi nghe ông ta nói với tôi bằng cái kiểu có vẻ quen thuộc như thế. Tôi cảm thấy tôi nên biết ông ta. Tôi nhìn sang Carter, nhưng anh ấy dường như cũng bối rối y như tôi vậy.

“Không, Amos,” bà ngoại run rẩy nói. “Cậu không thể mang Sadie đi. Chúng ta đã thỏa thuận với nhau.”

“Julius đã phá vỡ cái thỏa thuận đó vào tối nay.” Amos nói. “Hai người biết là mình không thể chăm lo cho Sadie thêm nữa - không thể sau tất cả những gì đã xảy ra. Cơ hội duy nhất của chúng là đi cùng tôi.”

“Sao chúng tôi phải đi đâu đó với ông chứ?” Carter hỏi. “Ông suýt đánh nhau với cha tôi mà!”

Amos nhìn vào túi đồ nghề trong lòng Carter. “Ta nhìn thấy cậu giữ cái túi của cha mình. Tốt đấy. Cậu sẽ cần nó. Còn về việc suýt đánh nhau ấy à, Julius và ta đã đánh đấm trăm lần rồi. Nếu cậu không chú ý, Carter, ta đang cố ngăn anh ấy khỏi việc làm điều gì đó thiếu suy nghĩ. Nếu anh ấy nghe lời ta, thì chúng ta đã không ở trong tình huống này.”

Tôi không biết ông ta đang nói gì, nhưng ông ngoại chắc chắn hiểu rõ.

“Cậu và những điều mê tín của cậu!” ông nói. “Tôi đã bảo cậu là chúng tôi chẳng muốn điều đó.”

Amos chỉ tay về phía sân sau. Qua các lớp cửa kính, bạn có thể nhìn thấy ánh sáng soi tỏa trên dòng sông Thames. Quang cảnh này vào buổi đêm khá đẹp, khi bạn không thể nhận ra vài tòa nhà ở đó đã cũ nát như thế nào.

“Điều mê tín, phải không?” Amos hỏi. “Ấy vậy mà ông bà còn tìm một nơi để sống ở bờ sông của con sông cơ đấy.”

Mặt ông ngoại trở nên đỏ hơn. “Đó là ý của Ruby. Nghĩ rằng như thế sẽ bảo vệ chúng ta. Nhưng con bé đã sai về nhiều thứ, chẳng phải sao? Đơn cử này, nó tin vào Julius lẫn cậu!”

Amos trông chẳng bối rối chút nào. Ông ta có mùi thật thú vị - như các gia vị cổ xưa, nhựa copan và hổ phách, như những cửa tiệm bán hương trầm ở Convent Garden.

Ông ta uống hết tách trà và nhìn thẳng vào bà ngoại. “Bà Faust, bà biết chuyện gì đã được bắt đầu. Cảnh sát là mối lo không đáng bận tâm nhất của bà.”

Bà ngoại nuốt khan. “Cậu... cậu đã biến đổi đầu óc của viên thanh tra đó. Cậu đã là cho ông ta trục xuất Sadie.”

“Hoặc là thế hoặc phải nhìn lũ trẻ bị bắt,” Amos nói.

“Khoan đã,” tôi nói. “Ông đã biến đổi đầu óc của thanh tra Williams sao? Bằng cách nào thế?”

Amos nhún vai. “Không được lâu đâu. Sự thật là chúng ta nên đến New York trong khoảng một tiếng gì đó trước khi thanh tra Williams bắt đầu tự hỏi sao ông ta lại thả cho hai đứa đi.”

Carter cười đầy hoài nghi. “Ông không thể đi từ London đến New York trong vòng một tiếng được. Thậm chí là với máy bay nhanh nhất...”

“Đúng thế,” Amos đồng ý. “Không phải máy bay.” Ông ta quay sang bà ngoại như thể mọi thứ đã được giải quyết. “Bà Faust, Carter và Sadie chỉ còn một lựa chọn an toàn duy nhất. Bà biết điều đó. Chúng sẽ đến ngôi biệt thự ở Brooklyn. Tôi có thể bảo vệ chúng ở đó.”

“Ông có một biệt thự,” Carter nói. “Ở Brooklyn.”

Amos mỉm cười vui vẻ với anh ấy. “Biệt thự của dòng họ ấy mà. Cậu sẽ được an toàn khi ở đó.”

“Nhưng Cha chúng tôi...”

“Hiện đã nằm ngoài khả năng giúp đỡ của cậu,” Amos buồn bã nói. “Ta xin lỗi, Carter. Ta sẽ giải thích sau, nhưng Julius muốn cậu được an toàn. Vì điều đó, chúng ta phải nhanh chóng ra đi. Ta e ta là tất cả những gì cậu có.”

Nghe khá là tàn nhẫn nhỉ, tôi nghĩ bụng. Carter liếc nhìn ông bà ngoại. Rồi anh ấy ủ rũ gật đầu. Anh ấy biết rằng ông bà ngoại không muốn có anh ấy ở bên. Anh ấy thường gọi cho họ nhớ về cha chúng tôi. Và vâng, quả là một lý do ngu ngốc để không nhận nuôi cháu trai của mình, nhưng đúng là vậy đấy.

“Ừm, Carter có thể làm những gì anh ấy muốn,” tôi nói. “Nhưng cháusống ở đây. Và cháu sẽ không đi khỏi cùng với một người lạ, đúng không?”

Tôi nhìn bà ngoại nhằm tìm kiếm đồng minh, nhưng bà đang nhìn chằm chằm vào những cái khăn lót bằng ren trên bàn như thể chúng đột nhiên trở nên khá là thú vị ấy.

“Ông ơi, nhất định...”

Nhưng ông cũng không nhìn tôi. Ông quay sang Amos. “Cậu có thể đưa chúng ra khỏi nước sao?”

“Khoan đã!” tôi phản đối.

Amos đứng dậy và phủi vụn bánh khỏi áo jacket. Ông ta bước về phía cửa dẫn ra sân sau và chăm chú nhìn vào con sông. “Cảnh sát sẽ sớm quay trở lại. Hãy nói cho họ bất cứ điều gì mà ông bà thích. Họ sẽ không thể tìm ra chúng tôi.”

“Ông sẽ bắt cóc chúng tôi sao?” tôi hỏi, choáng váng. Tôi nhìn sang Carter. “Anh có tin được chuyện này không?”

Carter đeo túi đồ nghề lên vai. Rồi anh ấy đứng dậy như đã sẵn sàng để đi. Có thể anh ấy chỉ muốn đi ra khỏi căn hộ của ông bà ngoại. “Ông dự định bằng cách nào để đến New York trong 1h đồng hồ?” anh ấy hỏi Amos. “Ông đã nói là không phải bằng máy bay.”

“Đúng thế,” Amos đồng ý. Ông ta đặt một ngón tay lên cánh cửa sổ và phác họa điều gì đó trong làn hơi nước - thêm một chữ tượng hình quỷ sứ nữa.

“Một con thuyền,” tôi nói - rồi nhận ra mình đã lớn tiếng dịch, điều mà lẽ ra tôi không thể làm được.

Amos săm soi nhìn tôi từ phía trên đôi mắt kính tròn. “Sao cháu có thể...”

“Ý cháu là chữ cuối cùng ấy trông giống một con thuyền,” tôi thốt lên. “Nhưng đó không thể là những gì ông muốn nói. Nực cười quá.”

“Nhìn kìa!” Carter reo lên.

Tôi chen đến đứng kế bên anh ấy nơi mấy cánh cửa dẫn ra sân sau. Ở dưới cầu tàu kia, một con thuyền đã neo ở đó. Mà này, không phải là một con thuyền bình thường đâu nhé. Đó là một con thuyền sậy của người Ai Cập, với hai cây đuốc cháy ở phía trước, và một cái đuôi lái lớn ở phía sau. Một hình người trong một chiếc áo khoác dài và mũ đen - chắc là Amos - đứng ở phần tay lái.

Tôi phải thừa nhận, chỉ một lần này thôi, tôi không biết phải nói gì.

“Chúng ta sẽ đi bằng cái đó,” Carter nói. “Đến Brooklyn.”

“Chúng ta tốt hơn hết nên khởi hành thôi,” Amos nói.

Tôi lao về phía bà ngoại tôi. “Ngoại, làm ơn đi mà!”

Bà quẹt nước mắt khỏi má mình. “Làm thế vì lợi ích tốt nhất đấy, cháu yêu. Cháu nên mang theo con Muffin.”

“À, đúng rồi,” Amos nói. “Chúng ta không thể quên con mèo.”

Ông ta quay về phía cầu thang. Như thể nhận được mệnh lệnh, Muffin phóng xuống tạo thành một dải lưu ảnh màu da báo và nhảy vào tay tôi. Nó chưa bao giờ làm điều đó.

“Ông là ai?” tôi hỏi Amos. Rõ ràng là tôi không có sự lựa chọn nào khác, nhưng ít nhất tôi muốn có được câu trả lời. “Chúng tôi không thể đi cùng một người nào đó xa lạ được.”

“Ta không phải là người lạ.” Amos mỉm cười với tôi. “Ta là người nhà.”

Và đột nhiên tôi nhớ lại khuôn mặt ông ta đang cúi gằm và mỉm cười với tôi và nói, “Chúc mừng sinh nhật, Sadie.” Một ký ức quá xa xăm, tôi gần như quên béng đi.

“Chú Amos?” tôi hỏi một cách mơ hồ.

“Đúng thế, Sadie,” ông ta nói. “Ta là em trai của Julius. Giờ thì đi nào. Chúng ta sẽ đi một đoạn đường dài đấy.”