← Quay lại trang sách

Chương 6 - Ăn Sáng Với Cá Sấu.

MÔ TẢ NHƯ THẾ NÀO NHỈ? Không phải là một cơn ác mộng. Mà lại có thực và đáng sợ hơn nhiều.

Trong khi ngủ, tôi có cảm giác mình trở thành phi trọng lượng. Tôi trôi lên, quay lại nhìn và thấy cơ thể của chính tôi đang nằm ngủ ở bên dưới.

Mình chết rồi, tôi nghĩ. Mà cũng không phải. Tôi không phải là một hồn ma. Tôi mang một hình hài mới bằng vàng sáng lấp lánh cùng một cặp cánh thay cho 2 cánh tay. Tôi là một loại chim nào đó. [Không phải, Sadie, không phải là một con gà. Em để cho anh kể tiếp chuyện được không]

Tôi biết mình không phải đang mơ, vì tôi không mơ một giấc mơ đầy màu sắc. Tôi chắc chắn là không mơ bằng cả 5 giác quan. Căn phòng phảng phất mùi hoa lài. Tôi có thể nghe thấy tiếng bong bóng soda kêu xì xì trong lon nước gừng tôi đã mở trên bàn ở đầu giường. Tôi có thể cảm nhận được một cơn gió lạnh luồn qua những chiếc lông vũ của tôi, và tôi nhận ra các cánh cửa sổ đã mở. Tôi không muốn rời đi, nhưng một luồng không khí mạnh mẽ cuốn tôi ra khỏi phòng như một chiếc lá trong cơn bão.

Ánh sáng của căn biệt thự từ từ nhạt nhào đi bên dưới tôi. Đường chân trời của thành phố New York mờ đi và biến mất. Tôi phóng xuyên qua màn sương mù và đêm tối, các giọng nói kỳ lạ đang thì thầm quanh tôi. Dạ dày tôi quặn đau như hồi hôm đi trên thuyền của chú Amos. Rồi sương mù tan đi, và tôi đã ở một nơi hoàn toàn khác.

Tôi trôi đi trên một ngọn núi trơ trụi. Xa xa ở bên dưới, hệ thống ánh sáng của thành phố trải dài khắp đáy thung lũng. Chắc chắn không phải là New York. Hiện đang là ban đêm, nhưng tôi có thể nhận ra mình đang ở trong sa mạc. Gió khô rát, da mặt tôi có cảm giác như một tờ giấy. Và tôi biết như thế này thật chẳng có lý, nhưng mặt tôi có cảm giác như khuôn mặt bình thường, như thể phần thân thể đó của tôi đã không biến thành chim vậy. [Tốt thôi, Sadie. Cứ gọi anh là con gà đầu-Carter đi. Vui chưa?]

Ở trên đỉnh núi bên dưới tôi có 2 người đang đứng. Họ dường như chẳng chú ý gì đến tôi, và tôi nhận ra rằng mình đã không phát sáng nữa. Sự thật là tôi hoàn toàn vô hình, trôi lơ lửng trên bầu trời đêm. Tôi không thể nhận rõ 2 bóng người đó, ngoại trừ việc họ không phải là con người. Nhìn kỹ hơn, tôi có thể nhìn thấy một người thấp, béo, không một cọng tóc, với làn da nhơn nhớt lấp lánh trong ánh sao - như một thứ động vật lưỡng cư đang đứng trên 2 chân sau của nó. Người còn lại cao và ốm tong teo như một con bù nhìn, với cặp móng gà thay cho đôi chân. Tôi không thể nhìn thấy rõ mặt của ông ta, nhưng trông nó đỏ và ẩm ướt và... ừm, hãy chỉ nói là tôi lấy làm mừng vì không thể nhìn rõ nó được.

“Ngài ấy đâu?” tên có vẻ ngoài giống cóc kêu ộp ộp đầy sợ hãi.

“Chưa có được vật chủ cố định,” tên có chân gà la mắng. “Ngài ấy chỉ có thể xuất hiện trong một thời gian ngắn thôi.”

“Mày có chắc là chỗ này không?”

“Chắc, thằng ngốc ạ! Ngài ấy sẽ sớm xuất hiện...”

Một hình dáng lửa xuất hiện phía trên ngọn núi. 2 sinh vật đó sụm ngay xuống, khúm núm quỳ trên mặt đất, và tôi điên cuồng cầu khẩn rằng mình thật sự vô hình.

“Thưa chúa tể!” tên cóc nói.

Thậm chí trong bóng tối, người mới đến khó mà nhìn thấy được - chỉ là bóng của một gã đàn ông được bao bọc bởi ngọn lửa.

“Bọn chúng gọi nơi này là gì nhỉ?” gã ta hỏi. Và ngay khi gã cất tiếng, tôi biết chắc rằng hắn là kẻ đã tấn công cha tôi ở Bảo tàng Anh. Tất cả nỗi sợ mà tôi đã cảm nhận ở bảo tàng vội rần rật ùa về, làm tôi tê liệt. Tôi nhớ mình đã cố nhặt lên viên đá ngu ngốc đó để ném, nhưng tôi thậm chí không thể làm điều đó. Tôi hoàn toàn chẳng giúp được gì cho cha.

“Thưa chúa tể,” tên Chân Gà nói. “Ngọn núi này được gọi là Gù Lạc Đà. Thành phố được gọi là Phoenix[5].”

Gã đàn ông lửa cười lớn - oang oang như sấm rền. “Phoenix. Mới thích hợp làm sao! Và sa mạc này khá giống với quê nhà. Tất cả những gì nó cần lúc này là được xóa sạch đi sự sống. Sa mạc nên là một nơi khô cằn, các người không nghĩ thế sao?”

“Ồ, đúng thế, thưa chúa tể,” tên cóc nói. “Nhưng bốn kẻ còn lại thì sao ạ?”

“Một tên đã bị tống xuống mồ,” gã đàn ông lửa nói. “Tên thứ 2 rất yếu. Ả ta sẽ dễ dàng bị thao túng. Như vậy chỉ còn lại 2 tên. Và chúng sẽ nhanh chóng sớm bị giải quyết thôi.”

“Ờ... bằng cách nào ạ?” tên cóc lại hỏi.

Gã đàn ông lửa phát sáng hơn. “Ngươi là một con nòng nọc bé nhỏ thích tọc mạch, đúng không?” Hắn chỉ tay về phía tên cóc và làn da của sinh vật tội nghiệp đó bắt đầu bốc hơi.

“Không!” tên cóc van nài. “Không-o-o-o!”

Tôi hầu như không dám nhìn. Tôi không muốn miêu tả lại chuyện này. Nhưng nếu bạn đã biết về những gì sẽ xảy ra khi những đứa trẻ độc ác đổ muối lên các con ốc sên, bạn sẽ biết được một cách rõ ràng điều gì xảy đã xảy ra với con cóc. Chẳng mấy chốc không còn lại gì cả.

Tên Chân Gà lo sợ bước lùi lại. Cũng chả trách gã được.

“Chúng ta sẽ xây đền thờ của ta ở đây,” gã đàn ông lửa nói, như thể chẳng có gì xảy ra. “Ngọn núi này sẽ được xem như là nơi thờ phụng cho ta. Khi đền thờ hoàn thành, ta sẽ hô phong hoán vũ thành một cơn bão cuồng nộ nhất trên đời. Ta sẽ quét sạch mọi thứ. Mọi thứ.”

“Vâng, thưa ngài,” tên Chân Gà nhanh chóng đồng ý. “Và, à, nếu tôi có thể đề xuất, thưa chúa tể, để gia tăng sức mạnh của ngài...” Sinh vật đó cúi đầu và đi loẹt soẹt tới trước, như thể muốn thì thầm vào tai của gã đàn ông lửa.

Ngay khi tôi nghĩ tên Chân Gà này chắc chắn sẽ trở thành một con gà nướng mất thôi, thì hắn nói gì đó với gã người lửa mà tôi không nghe được, và gã người lửa lại sáng bừng hơn nữa.

“Tuyệt! Nếu người có thể làm điều đó, ngươi sẽ được trọng thưởng. Nếu không...”

“Tôi hiểu, thưa ngài.”

“Thế thì đi đi,” gã người lửa nói. “Hãy giải phóng các nguồn lực của chúng ta. Bắt đầu với những tên cổ dài. Như thế sẽ làm cho chúng dịu đi. Hãy mang những con non và đưa chúng đến cho ta. Ta muốn chúng còn sống, trước khi chúng có thời gian học sức mạnh của chúng. Đừng có mà làm ta thất vọng.”

“Không đâu, thưa ngài.”

“Phoenix ư,” gã người lửa ngâm nga. “Ta thích tên này lắm.” Hắn vung tay ngang đường chân trời, như thể hắn ta đang tưởng tượng ra thành phố trong biển lửa. “Ta sẽ nhanh chóng trỗi dậy từ đống tro tàn của ngươi. Nó sẽ là một món quà sinh nhật đáng yêu đấy.”

Tôi thức dậy với trái tim đập thình thịch. Tôi cảm thấy nóng bức, như thể gã người lửa đang bắt đầu đốt cháy tôi. Rồi tôi nhận ra con mèo đang nằm trên ngực mình.

Con Muffin chăm chú nhìn tôi, đôi mắt lim dim khép hờ. “Meo.”

“Sao mày vào được?” tôi lầm bầm.

Tôi ngồi dậy, và trong một giây tôi không chắc mình đang ở đâu. Một khách sạn nào đó trong một thành phố khác chăng? Tôi suýt gọi cha tôi... và rồi tôi nhớ lại.

Ngày hôm qua. Bảo tàng. Cái quách.

Tất cả đều đổ ập xuống đầu tôi khiến tôi hầu như không thể thở được.

Ngừng lại, tôi tự nhủ. Mày không có thời gian để mà đau buồn đâu. Và điều này nghe có vẻ kỳ quái, nhưng âm thanh trong đầu tôi gần như là của một người khác - chín chắn hơn, mạnh mẽ hơn. Hoặc đó là một dấu hiệu tốt, hoặc tôi đang bị điên.

Hãy nhớ những gì ngươi đã nhìn thấy, giọng nói vang lên. Hắn đang đuổi theo ngươi. Ngươi phải sẵn sàng.

Tôi run lẩy bẩy. Tôi muốn tin mình chỉ vừa mới có một giấc mơ xấu, nhưng tôi biết không phải vậy. Tôi đã trải qua quá nhiều chuyện trong ngày hôm trước nên trở thành nghi ngờ hết những gì tôi đã chứng kiến. Bằng cách nào đó tôi quả thật đã rời khỏi cơ thể mình khi đang ngủ. Tôi đã đến thành phố Phoenix - cách đây hàng ngàn dặm. Gã người lửa đã ở đó. Tôi đã không hiểu lắm về những gì gã đã nói, nhưng gã đã nói về việc sẽ gửi các đội quân của mình đến để bắt những chú chim non. Quái, ai có thể là chim non nhỉ?

Con Muffin nhảy xuống giường và ngửi cái kê đầu bằng ngà voi, rồi ngước nhìn tôi như thể đang cố nói cho tôi điều gì đó.

“Mày muốn thì lấy đi,” tôi nói. “Nó chẳng thoải mái chút nào.”

Con mèo húc đầu mình vào cái kê đầu rồi chong mắt nhìn tôi với vẻ buộc tội. “Meo”

“Sao cũng được, mèo.”

Tôi đứng dậy và đi tắm. Khi toan mặc quần áo vào, tôi nhận ra rằng áo quần cũ của tôi đã biến mất trong đêm qua. Mọi thứ trong tủ quần áo đều có cỡ của tôi, nhưng lại hoàn toàn khác so với những gì tôi đã quen mặc - những cái quần dải rút và áo sơ mi rộng lùng thùng, tất cả đều bằng vải lanh thuần trắng, và những chiếc áo choàng dành cho trời lạnh, kiểu mà các fellahin, những người nông dân ở Ai Cập, thường mặc. Đây không hắn là kiểu của tôi.

Sadie thích nói với tôi rằng tôi chẳng có phong cách gì. Con bé phàn nàn rằng tôi ăn mặc như một ông già - áo sơ-mi cài kín cổ, quần tây, giày da. Được rồi. Có thể là thế thật. Nhưng thế này này. Cha tôi thường nhồi nét vào đầu tôi rằng tôi phải ăn mặc thật bảnh bao cơ mà.

Tôi nhớ lần đầu tiên ông giải thích điều đó cho tôi. Khi đó tôi lên 10. Chúng tôi đang trên đường đến sân bay ở Athens, và nhiệt độ ngoài trời lúc đó khoảng 44 độ, làm tôi ca cẩm rằng tôi muốn mặc quần soóc và áo phông. Sao tôi không thể ăn mặc thoải mái được chứ? Hôm đấy chúng tôi sẽ chẳng đến nơi nào quan trọng cả - chỉ di chuyển thôi mà.

Cha đặt tay lên vai tôi. “Carter, con đang ngày một lớn lên. Con là một người Mỹ gốc Phi. Mọi người sẽ đánh giá con khắc nghiệt hơn, và vì thế con phải luôn trong hoàn hảo.”

“Điều đó không công bằng!” tôi khăng khăng.

“Công bằng không có nghĩ mọi người đều nhận được cùng một thứ,” Cha nói. “Công bằng có nghĩa là mọi người có được cái họ cần. Và cách duy nhất để có được cái con cần là tự mình làm cho nó xảy ra. Con hiểu không?”

Tôi nói với ông là tôi không hiểu. Thế nhưng tôi vẫn làm theo những gì ông yêu cầu - như quan tâm đến Ai Cập, bóng rổ, và âm nhạc. Như đi du lịch chỉ với một cái vali. Tôi mặc theo cách Cha muốn, vì Cha luôn đúng. Sự thật là tôi biết ông chưa bao giờ sai... cho đến cái đêm ở Bảo tàng Anh.

Dù sao thì tôi cũng mặc vào bộ quần áo vải lanh trong tủ. Đôi giày để bằng thật thoải mái, mặc dầu tôi không nghĩ là chúng thích hợp cho chạy bộ.

Cánh cửa phòng Sadie mở toang, nhưng con bé không có trong đó.

May mà cửa phòng ngủ của tôi không còn bị khóa lại nữa. Con Muffin đi theo tôi và chúng tôi đi xuống tầng dưới, băng qua rất nhiều các căn phòng không có người ở trên đường đi. Căn biệt thự có thể dễ dàng chứa một trăm người, nhưng thay vào đó nó lại có cảm giác trống rỗng và buồn bã.

Dưới Đại Sảnh, khỉ đầu chó Khufu ngồi trên ghế sofa với một quả bóng rổ được đặt giữa 2 chân và một miếng thịt trông kỳ lạ trong 2 tay. Nó được bao phủ bởi lớp lông vũ màu xanh hồng. Kênh ESPN đang được mở trên tivi, và Khufu đang xem phần điểm tin từ những trận đấu đêm trước.

“Này,” tôi nói, mặc dầu tôi cảm thấy hơi kỳ quái khi nói chuyện với nó. “Lakers thắng hả?”

Khufu nhìn tôi và vỗ vào quả bóng rổ như thể nó muốn chơi một trận. “Agh, agh.”

Nó có một cái lông hồng treo lơ lửng dưới cằm, và cảnh đó làm cho dạ dày dợn lên.

“Ừm, được rồi,” tôi nói. “Chúng ta sẽ chơi sau, nhé?”

Tôi có thể nhìn thấy Sadie và chú Amos ở ngoài mái hiên, đang ăn sáng cạnh bể bơi. Có lẽ ngoài đấy đang lạnh cóng, nhưng hố lửa đang cháy bập bùng, và cả chú Amos lẫn Sadie đều không trông có vẻ gì là lạnh. Tôi đi ra phía họ, rồi ngần ngừ phía trước tượng thần Thoth. Trong ánh sáng ban ngày, vị thần đầu chim trông không đáng sợ lắm. Thế nhưng, tôi có thể thề rằng đôi mắt bé tròn lấp lánh đó đang nhìn tôi với vẻ mong chờ.

Gã đàn ông lửa đã nói những gì vào tối qua nhỉ? Điều gì đó về việc bắt chúng tôi trước khi chúng tôi học được các sức mạnh của mình. Nghe thì thật nực cười, nhưng trong một khoảnh khắc tôi cảm nhận được một sức mạnh cuộn dâng - như vào đêm hôm trước chỉ bằng cách nâng tay lên. Tôi có cảm giác như mình có thể nâng được bất cứ thứ gì, thậm chí là cả bức tượng cao 9m này nếu muốn. Trong trạng thái như bị thôi miên, tôi bước về phía trước.

Con Muffin sốt ruột kêu meo meo và húc đầu vào chân tôi. Cảm giác đó biến mất.

“Mày nói đúng,” tôi nói với con mèo. “Ý tưởng ngốc nghếch.”

Ngoài ra, giờ tôi có thể ngửi thấy mùi điểm tâm - bánh mì nướng nhúng trứng, thịt lợn muối xông khói, sô-cô-la nóng - và tôi không thể trách Muffin về việc vội vã được. Tôi đi theo nó ra bên ngoài mái hiên.

“A, Carter,” chú Amos nói. “Chúc mừng Giáng sinh, cậu bé của ta. Đến đây nào.”

“Cũng đã đến lúc rồi đấy,” Sadie càu nhàu. “Em đã dậy từ thời nảo thời nào.”

Nhưng con bé nhìn sâu và mắt tôi trong một lát, như thể nó cũng đang nghĩ về điều giống hệt tôi: Giáng sinh. Chúng tôi đã không cùng nhau trải qua buổi sáng Giáng sinh kể từ khi Mẹ mất. Tôi tự hỏi liệu Sadie có còn nhớ cách chúng tôi làm ra đồ trang trú con mắt của Chúa từ cuộn chỉ và que kem hay không.

Chú Amos rót cho mình một tách cà phê. Áo quần chú giống hệt kiểu đã mặc ngày hôm qua, và tôi phải thừa nhận rằng chú rất có phong cách. Bộ vest được cắt may bằng vải len xanh, chú đội một cái mũ phớt đồng bộ, và mái tóc được kết mới bằng đá da trời màu xanh đậm, một trong số các loại đá mà người Ai Cập sử dụng làm đồ trang sức. Thậm chí cả mắt kính cũng tiệp màu. Trong kính tròn nhuộm xanh nhạt. Một cái kèn tê-no được dựng trên một cái giá kế bên hố lửa, và tôi có thể hoàn toàn hình dung ra cảnh chú đứng chơi kèn ở bên ngoài này, dạo một bản dạ khúc cho sông Đông.

Còn về phần Sadie, con bé mặc bộ pyjama bằng vải lanh trắng y như tôi, nhưng bằng cách nào đó nó đã giữ lại được đôi bốt hầm hố của mình. Con bé chắc là vẫn mang giày khi ngủ. Trông nó khá hài hước với mái tóc nhuộm sọc đỏ cùng bộ trang phục, nhưng vì tôi cũng chẳng mặc gì khá hơn, nên tôi hầu như không thể trêu nó được.

“Ừm... chú Amos này?” tôi hỏi. “Chú không có nuôi bất cứ con chim nào, phải không ạ? Khufu đang ăn cái gì đó có lông màu hồng.”

“Ừm.” Chú Amos nhấp một ngụm cafe. “Xin lỗi vì điều đó đã làm cháu lo lắng. Khufu rất kén chọn. Nó chỉ ăn thức ăn kết thúc bằng chữ -o. Dorito, burrito, hồng hạc[6].”

Tôi chớp mắt. “Chú vừa nói...”

“Carter,” Sadie cảnh báo. Con bé trông hơi khó chịu, như thể nó cũng vừa nói xong câu chuyện này. “Đừng hỏi.”

“Được thôi,” tôi nói. “Không hỏi.”

“Carter, cứ tự nhiên nhé.” Chú Amos vẫy tay về phía bàn buffet được chất đầy đồ ăn. “Rồi chúng ta có thể bắt đầu việc giải thích.”

Tôi không nhìn thấy bất cứ con hồng hạc nào trên bàn ăn, vậy là ổn rồi, còn lại thì trên bàn có đủ các món. Tôi lấy một vài miếng bánh kếp ăn với bơ và siro, một ít thịt lợn muối xông khói, và một ly nước cam.

Thế rồi tôi phát hiện ra thứ gì đó đang chuyển động qua khóe mắt. Tôi liếc về phía bể bơi. Thứ gì đó vừa dài và nhợt nhạt đang lướt đi chỉ ngay bên dưới mặt nước.

Tôi suýt nữa là đánh rơi cái đĩa. “Đó có phải...”

“Một con cá sấu,” chú Amos xác nhận. “Để may mắn ấy mà. Nó mắc chứng bạch tạng, nhưng làm ơn đừng nhắc đến điều đó nhé. Nó nhạy cảm lắm.”

“Tên nó là Philip xứ Macedonia,” Sadie thông tin cho tôi.

Tôi không rõ làm sao Sadie có thể nói về chuyện này một cách quá ư là điềm tĩnh như thế, nhưng tôi đoán là nếu con bé không sợ chết khiếp đi, thì tôi cũng không nên như thế.

“Tên dài nhỉ,” tôi nói.

“Nó là một con cá sấu dài mà,” Sadie nói. “Ồ, với lại nó thích thịt xông khói nhé.”

Để chứng minh, con bé quẳng một miếng thịt xông khó qua vai mình. Philip lao ra khỏi nước và đớp lấy phần thưởng. Da nó trắng bóc và đôi mắt nó màu hồng. Miệng nó thật to, có thể đớp nguyên cả một con lợn.

“Nó khá là vô hại với những người bạn của ta,” chú Amos cam đoan. “Ngày xưa, không có một đền thờ nào được xem là hoàn tất nếu thiếu một cái hồ đầy cá sấu. Chúng là những sinh vật phép thuật đầy sức mạnh.”

“Hay nhỉ,” tôi nói. “Vậy là khỉ đầu chó, cá sấu... còn có bất cứ con vật cưng nào mà cháu nên biết không?”

Chú Amos suy nghĩ trong chốc lát. “Nhưng con mắt thường thấy được ấy à? Không, chú nghĩ là chỉ có chừng đó.”

Tôi chọn cái ghế ngồi càng xa bể bơi càng tốt. Con Muffin đi quanh chân tôi và kêu rừ rừ. Tôi hy vọng nó có đủ khôn ngoan để tránh xa con cá sấu phép thuật tên Philip đó.

“Vậy, chú Amos này,” tôi vừa nhồm nhoàm bánh kếp vừa nói. “Về các lời giải thích ấy.”

“À, phải,” chú ấy đồng ý. “Bắt đầu từ đâu đây...”

“Cha bọn cháu,” Sadie gợi ý. “Chuyện gì đã xảy ra với ông?”

Chú Amos hít thật sâu. “Julius đang cố triệu hồi 1 vị thần. Không may là, đã thành công.”

Để mà nghiêm chỉnh tin lời chú Amos quả thật là khó, khi mà chú ấy vừa nói về việc triệu hồi các vị thần vừa quẹt bơ lên cái bánh mì vòng.

“Cụ thể là vị thần nào ạ?” tôi hời hợt hỏi. “Hay ông chỉ đặt hàng một vị thần chung chung nào đó?”

Sadie đá vào chân tôi dưới gầm bàn. Con bé đang quắc mắt, như thể nó thật sự tin vào những gì chú Amos đang nói.

Chú Amos căn một miếng bánh mì vòng. “Có nhiều vị thần Ai Cập lắm đấy Carter. Nhưng cha cháu đang theo đuổi một vị thần cụ thể.”

Chú ấy nhìn tôi đầy hàm ý.

“Thần Osiris,” tôi nhớ lại. “Khi Cha đang đứng trước Phiến đá Rosetta, ông đã nói, ‘Osiris, hãy đến.’ Nhưng thần Osiris là truyền thuyết. Ông ấy là một người không thật.”

“Chú ước gì điều đó là sự thật.” Chú Amos nhìn chăm chú vào toàn cảnh Manhattan ở phía bên kia bờ sông Đông, đang lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. “Những người Ai Cập cổ đại không phải là những kẻ ngốc, Carter ạ. Họ đã xây dựng các kim tự tháp. Họ đã tạo ra chế độ nhà nước vĩ đại đầu tiên. Nền văn mình của họ tồn tại đến hàng ngàn năm.

“Vâng,” tôi nói. “Và giờ họ đã biến mất.”

Chú Amos lắc đầu. “Một di sản hùng mạnh như thế không biến mất. Nếu đem so với người Ai Cập, người Hy Lạp và La Mã là trẻ nít mà thôi. Còn các quốc gia hiện nay như Vương quốc Anh và Mỹ ư? Chỉ mới tồn tại trong một thời gian ngắn. Cội nguồn văn minh cổ xưa nhất, ít nhất là với nền văn minh phương Tây, là Ai Cập. Hãy nhìn kim tự tháp trên tờ dollar kìa. Hãy nhìn Tượng đài Washington mà xem - một cái tháp tưởng niệm lớn nhất thế giới của người Ai Cập đấy. Ai Cập vẫn còn tồn sinh. Và thật không may, là các vị thần của nó cũng thế.”

“Thôi nào,” tôi cãi. “Ý cháu là... Ngay cả khi cháu tin có điều thực sự gọi là phép thuật đi nữa. Việc tin vào các vị thần cổ xưa lại hoàn toàn khác. Chú đang nói đùa, đúng không?”

Nhưng khi nói điều đó, tôi lại nghĩ về gã đàn ông lửa trong bảo tàng, về cái cách mà khuôn mặt hắn ta chuyển từ con người sang con vật. Và bức tượng thần Thoth - cách đôi mắt bức tượng đã dõi theo tôi.

“Carter này,” chú Amos nói, “người Ai Cập chắc hẳn sẽ không ngu đến nỗi tin vào các vị thần tưởng tượng. Những bản thể mà họ mô tả trong các câu chuyện thần thoại của họ đều rất thật. Thời xưa, các tư tế ở Ai Cập sẽ cậy đến những vị thần đó để chuyển hóa sức mạnh và thi triển các kỳ công vĩ đại. Đó là nguồn gốc cho những gì chúng ta gọi là phép thuật trong hiện tại. Cũng giống nhiều thứ khác, phép thuật cũng được phát mình đầu tiên bởi những người Ai Cập. Mỗi 1 đền thờ có một nhánh các pháp sư được gọi là Ngôi Nhà của Sự Sống. Các pháp sư của họ nổi tiếng khắp thế giới cổ đại.”

“Và chú là một pháp sư Ai Cập.”

Chú Amos gật đầu. “Cha cháu cũng thế. Cháu đã tự mình nhìn thấy điều đó vào tối qua rồi.”

Tôi do dự. Khó mà phủ nhận rằng cha tôi đã làm một vài điều kỳ lạ ở bảo tàng - một vài điều trông giống như phép thuật.

“Nhưng ông là một nhà khảo cổ học cơ mà,” tôi ngoan cố nói.

“Đó là câu chuyện vỏ bọc của ông. Cháu nhớ rằng ông chuyên về dịch các câu thần chú cổ xưa, những từ rất khó để hiểu trừ phi cháu biết rõ về phép thuật. Gia đình chúng ta, dòng họ Kane, đã là một phần của Ngôi Nhà Sự sống kể từ thuở sơ khai. Và gia đình mẹ cháu cũng lâu đời không kém.”

“Dòng họ Faust ư?” Tôi hình dung ra ông bà ngoại Faust làm phép, nhưng trừ phi xem bóng bầu dục qua tivi và nướng bánh quy được xem là phép thuật, bằng không thì tôi không thể hình dung ra gì được.

“Họ đã không thực hiện phép thuật trong nhiều thế hệ rồi,” chú Amos thừa nhận. “Mãi cho đến khi mẹ cháu xuất hiện. Nhưng phải đấy, một dòng máu rất cổ xưa.”

Sadie lắc đầu không tin nổi. “Vậy giờ mẹ cũng có phép thuật. Chú không đùa chứ?”

“Không đùa,” chú Amos cam đoan. “Hai bọn cháu là sự kết hợp dòng máu của 2 dòng họ cổ xưa, cả 2 đều có một lịch sử lâu đời và phức tạp với các vị thần. Các cháu là những đứa trẻ mạnh nhất của dòng họ Kane được sinh ra trong nhiều thế kỷ qua.”

Tôi cố cho điều này thẩm thấu vào đầu. Hiện tại, tôi chẳng cảm thấy chút sức mạnh nào. Tôi cảm thấy khó chịu. “Chú đang nói với cháu rằng cha mẹ cháu bí mật thờ phụng các vị thần có đầu động vật sao?” tôi hỏi.

“Không phải thờ phụng,” chú Amos sửa lại. “Vào cuối thời kỳ cổ đại, những người Ai Cập đã nhận ra rằng các vị thần của họ không phải để được thờ phụng. Họ là những bản thể đầy quyền lực, các lực lượng nguyên thủy, nhưng họ không phải là thần thánh theo nghĩa người ta có thể nghĩ về Chúa. Họ là những thực thể được tạo thành, như con người, chỉ là có quyền lực hơn mà thôi. Chúng ta có thể tôn trọng, sợ hãi họ, sử dụng sức mạnh của họ, hay thậm chí chiến đấu với họ để kiểm soát họ...”

“Đánh nhau với các vị thần ư?” Sadie cắt ngang.

“Liên tục ấy mà,” chú Amos cam đoan. “Nhưng chúng ta không thờ phụng họ. Thần Thoth đã dạy chúng ta điều đó.”

Tôi nhìn Sadie tìm kiếm sự giúp đỡ. Ông già này chắc điên rồi. Nhưng Sadie trông như thể con bé tin mỗi một lời chú ấy nói.

“Vậy...” tôi nói. “Sao Cha lại làm vỡ Phiến đá Rosetta?”

“Ồ, chú chắc là ông ấy không cố ý phá vỡ nó đâu,” chú Amos nói. “Việc này hẳn đã làm ông hoảng kinh cả lên rồi. Sự thật là, chú nghĩ các anh em đồng đạo của chú ở London giờ đã sửa lại nó rồi. Người quản lý sẽ nhanh chóng kiểm tra các hầm đựng đồ vật của họ và phát hiện ra rằng Phiến đá Rosetta sống sót một cách kỳ diệu qua vụ nổ.”

“Nhưng nó đã bị nổ tung thành hàng triệu mảnh nhỏ rồi mà!” tôi kêu lên. “Sao họ có thể sửa chữa nó được?”

Chú Amos cầm một cái đĩa lót lên mà ném xuống sàn nhà bằng đá. Cái đĩa ngay lập tức vỡ tan.

“Đó là phá hủy,” chú Amos nói. “Chú có thể làm chuyện này bằng phép thuật - ha-di - nhưng để đơn giản hơn chú chỉ việc đập nó. Và giờ thì...” Chú Amos đưa tay ra. “Kết hợp. Hi-nehm.”

Một biểu tượng chữ tượng hình màu xanh cháy lên trong không khí phía trên tay chú ấy

Các mảnh vỡ của chiếc đĩa bay vào bàn tay chú và lắp lại như trò chơi ghép hình, thậm chí cả những hạt bụi nhỏ nhất cũng đang tự gắn chặt chúng vào đúng vị trí. Chú Amos đặt cái đĩa lót hoàn hảo lên bàn.

“Một chiêu trò nào đó thôi,” tôi thốt nên lời. Tôi cố nói với giọng bình tĩnh, nhưng tôi lại đang nghĩ về tất cả các điều kỳ quặc đã xảy ra với Cha và tôi trong những năm qua, như các tay súng trong khách sạn ở Cairo đã có kết cục bị treo ngược chân lủng lẳng trên cái đèn chùm. Liệu có phải cha tôi đã làm điều đó với một vài câu thần chú nào đó chăng?

Chú Amos rót sữa vào cái đĩa rồi đặt nó lên sàn nhà. Con Muffin nhẹ nhàng đi tới. “Dù sao đi nữa, cha cháu sẽ không bao giờ có ý làm hư hỏng 1 di vật đâu. Ông ấy đơn giản chỉ là đã không nhận ra được Phiến đá Rosetta chứa đựng sức mạnh lớn đến thế nào mà thôi. Cháu biết đấy, khi Ai Cập lụi tàn, phép thuật của nó được thu thập và tập trung vào trong các di vật còn sót lại của nó. Phần lớn trong số đó, dĩ nhiên, là vẫn còn ở Ai Cập. Nhưng cháu có thể tìm thấy một vài cái ở trong hầu hết các bảo tàng lớn. Một pháp sư có thể sử dụng các đồ tạo tác đó như các điểm tập trung để thực hiện các câu thần chú có cường lực lớn hơn.”

“Cháu không hiểu,” tôi nói.

Chú Amos giang 2 tay ra. “Chú xin lỗi, Carter. Phải mất rất nhiều năm nghiên cứu mới hiểu được phép thuật, và chú đang cố giải thích nó cho cháu chỉ trong một buổi sáng. Điều quan trọng là, trong 6 năm qua cha cháu đang tìm cách để triệu hồi thần Osiris, và đêm qua ông ấy nghĩ mình đã tìm được đúng hiện vật để thực hiện điều đó.”

“Khoan đã, sao ông lại muốn thần Osiris chứ?”

Sadie nhìn tôi với vẻ mặt đầy lo lắng. “Này, Carter, thần Osiris là vị thần của cái chết. Cha có nói về việc sẽ làm mọi thứ trở nên đúng đắn. Cha đang nói về Mẹ đấy.”

Đột nhiên trời sáng hôm đó dường như lạnh hơn. Hố lửa kêu xèo xèo trong ngọn gió từ ngoài sông thổi đến.

“Ông muốn mang Mẹ quay trở lại từ cõi chết sao?” tôi nói. “Nhưng điều đó thật điên rồ!”

Chú Amos ngập ngừng. “Việc đó sẽ nguy hiểm. Không khôn ngoan. Ngu ngốc. Nhưng không điên rồ. Cha cháu là một pháp sư hùng mạnh. Thật ra, nếu đấy là những gì ông ấy theo đuổi, ông ấy hẳn đã có thể đạt được rồi, sử dụng sức mạnh của thần Osiris.”

Tôi liếc nhìn Sadie. “Em thật sự tin chuyện này à?”

“Anh đã nhìn thấy phép thuật ở bảo tàng. Gã đàn ông lửa. Cha triệu hồi thứ gì đó từ hòn đá.”

“Ừm,” tôi nói, nghĩ về giấc mơ của mình. “Nhưng đó không phải là thần Osiris, đúng không?”

“Không phải,” chú Amos nói. “Cha cháu đã nhận được nhiều hơn dự tính. Ông ấy đã thả ra linh hồn của thần Osiris. Sự thật là, chú nghĩ ông ấy đã thành công khi kết hợp với thần...”

“Kết hợp với ai ạ?”

chú Amos đưa tay lên. “Một cuộc trò chuyện dài khác nữa. Còn bây giờ, hãy chỉ nói rằng ông ấy đã lấy hết sức mạnh của thần Osiris vào trong chính bản thân mình. Nhưng ông sẽ chẳng bảo giờ có cơ hội dùng nó vì, theo như những gì Sadie nói với chú, thì có vẻ như Julius đã thả ra năm vị thần từ Phiến đá Rosetta. Tất cả 5 vị thần đều bị giữ lại cùng 1 chỗ.”

Tôi liếc nhìn Sadie. “Em nói cho chú ấy tất cả sao?”

“Chú ấy sẽ giúp chúng ta, Carter à.”

Tôi chưa thật sự sẵn sàng tin vào người đàn ông này, thậm chí nếu ông có là chủ của chúng tôi đi nữa, nhưng tôi quyết định rằng mình chẳng có nhiều sự lựa chọn.

“Được rồi,” tôi nói. “Gã đàn ông lửa đó đã nói điều gì đó như là ‘Người đã thả ra tất cả 5 người.” Ý hắn ta là gì?”

Chú Amos nhấp một ngụm cafe. Cái nhìn xa xăm trên gương mặt chú gợi cho tôi nhớ về Cha. “Chú không muốn làm bọn cháu sợ.”

“Quá muộn rồi ạ.”

“Các vị thần Ai Cập rất nguy hiểm. Trong khoảng 2000 năm qua, các pháp sư bọn chú đã dành rất nhiều thời gian để trói hoặc trục xuất họ bất cứ khi nào họ xuất hiện. Sự thật thì, luật lệ quan trọng nhất của bọn chú, được Pháp sư trưởng Iskandar ở thời La Mã đề ra, là cấm giải thoát các vị thần hay sử dụng sức mạnh của họ. Trước đây cha cháu từng vi phạm điều luật đó 1 lần.”

Khuôn mặt Sadie trở nên xanh mét. “Điều đó có liên quan gì đến cái chết của Mẹ cháu không? Tháp Cleopatra’s Needle ở London ấy?”

“Liên quan tuyệt đối đấy Sadie. Cha mẹ cháu... ừm, họ nghĩ mình đang làm điều tốt. Họ đã chấp nhận rủi ro rất lớn, và việc đó đã lấy đi mạng sống của mẹ cháu. Cha cháu nhận lấy lỗi lầm đó. Ông ấy đã bị lưu đày, ta cho rằng cháu có thể nói thế. Bị trục xuất. Ông ấy bị buộc phải di chuyển liên tục vì Ngôi Nhà giám sát các hoạt động của ông. Họ sợ ông sẽ tiếp tục các... nghiên cứu của mình. Mà ông ấy đã làm thế thật.”

Tôi nghĩ về những lúc Cha luôn nhìn qua vai mình khi ông chép lại một vài câu khắc cổ xưa, hoặc đánh thức tôi dậy vào lúc 3 hoặc 4 giờ sáng gì đó và khăng khăng rằng giờ là lúc thay đổi khách sạn, hoặc cảnh báo tôi không được nhìn vào túi đồ nghề của ông hay chép các bức tranh cụ thể từ các bức tường đền thờ cổ - như thể mạng sống của chúng tôi phụ thuộc vào điều đó.

“Đó là lý do chú không bao giờ đến thăm phải không?” Sadie hỏi chú Amos. “Vì cha cháu đã bị lưu đày à?”

“Ngôi Nhà không cho phép chú gặp ông. Chú rất yêu Julius. Chú đau lòng lắm khi buộc phải phải tránh xa anh trai, xa bọn trẻ con các cháu. Nhưng chú không thể gặp các cháu - cho đến đêm hôm qua, khi chú hoàn toàn không có cách lựa chọn nào khác ngoài việc hết sức giúp đỡ. Julius đã bị ám ảnh với việc tìm kiếm thần Osiris trong bao năm nay rồi. Ông ấy đã héo hon vì đau buồn từ những gì đã xảy ra với mẹ các cháu. Khi chú biết được rằng Julius lại sắp phá luật một lần nữa, cố gắng làm cho mọi chuyện trở nên đúng đắn, chú đã phải ngăn ông ấy lại. Lần phạm tội thứ 2 có nghĩ là bản án tử hình. Không may là chú đã thất bại. Lẽ ra chú phải biết rằng ông ấy quá ngoan cố chứ.”

Tôi nhìn xuống cái đĩa của mình. Thức ăn của tôi đã lạnh. Con Muffin nhảy lên bàn và cọ người vào tay tôi. Khi tôi không phản đối, nó bắt đầu ăn thịt xông khói của tôi.

“Đêm hôm qua ở bảo tàng,” tôi bảo, “cô gái với con dao, người đàn ông với bộ râu chĩa đó họ cũng là các pháp sư sao? Đến từ Ngôi Nhà của Sự Sống à?

“Đúng thế,” chú Amos đáp. “Để trông chừng cha cháu. Bọn cháu thật may vì họ thả cho cháu đi.”

“Cô gái đó muốn giết bọn cháu,” tôi nhớ lại. “Nhưng người đàn ông có bộ râu đã nói, chưa đến lúc.”

“Họ không giết người trừ phi phải thật cần thiết, chú Amos nói. “Họ sẽ đợi xem liệu bọn cháu có phải là một mối đe dọa hay không.”

“Sao lại là mối đe dọa được?” Sadie chất vấn. “Bọn cháu là trẻ con! Việc triệu hồi đó không phải là ý tưởng của bọn cháu.”

Chú Amos đẩy cái đĩa của mình ra xa. “Có một lý do cho việc 2 đứa cháu được nuôi dạy riêng lẻ.”

“Vì dòng họ Faust đã đưa Cha ra tòa,” tôi nói trắng ra. “Và Cha đã thua.”

“Còn nhiều việc sâu xa hơn nữa kia,” chú Amos nói. “Ngôi Nhà khăng khăng rằng 2 cháu phải được tách ra. Cha bọn cháu không muốn giữ lại cả 2 đứa, mặc dầu ông ấy biết rằng điều đó sẽ nguy hiểm như thế nào.”

Sadie trông như thể vừa mới bị ai đó đánh vào giữa 2 mắt. “Ông đã muốn thế sao?”

“Dĩ nhiên. Nhưng Ngôi Nhà đã can thiệp vào và đảm bảo rằng ông bà ngoại của cháu được quyền trông nom cháu, Sadie ạ. Nếu cháu và Carter ở cùng nhau, cháu có thể trở nên rất mạnh. Có lẽ cháu đã cảm nhận được sự thay đổi đó trong mấy ngày qua.”

Tôi nghĩ về sự dâng trào của sức mạnh mà mình đã cảm nhận, và về cái cách Sadie đột nhiên dường như hiểu cách đọc các chữ Ai Cập cổ đại. Rồi tôi nghĩ về điều gì đó còn xa xôi hơn.

“Ngày sinh nhật lần thứ 6 của em,” tôi nói với Sadie.

“Cái bánh,” con bé nói ngay, ký ức chuyển qua giữa 2 chúng tôi như 1 tia lửa điện.

Vào hôm sinh nhật lần thứ 6 của Sadie, lần cuối cùng chúng tôi ở bên nhau như 1 gia đình, Sadie và tôi đã có một cuộc tranh cãi dữ dội. Tôi không nhớ là về chuyện gì. Tôi nghĩ tôi muốn thổi nến thay cho con bé. Chúng tôi bắt đầu cãi nhau. Nó tóm lấy áo sơ-mi của tôi. Tôi đẩy nó. Tôi nhớ Cha đã lao nhanh về phía chúng tôi, cố can thiệp vào, nhưng trước khi ông có thể làm điều đó, cái bánh sinh nhật của Sadie đã nổ tung. Lớp kem phủ bắn lên các bức tường, lên cha mẹ, vào mặt của những đứa bạn 6 tuổi của Sadie. Cha và mẹ đã tách chúng tôi ra. Họ đuổi tôi về phòng. Sau đó, họ nói là chúng tôi ắt đã vô tình đụng phải cái bánh khi chúng tôi đánh nhau, nhưng tôi biết chúng tôi không làm điều đó. Có điều gì đó kỳ quái hơn nhiều đã làm bánh nổ tung, như thể nó đã đáp lại cơn giận dữ của bọn tôi. Tôi nhớ Sadie đã khóc với một miếng bánh dính trên trán nó, và một cây nến lộn ngược dính chặt lên trần nhà với bấc nến đang cháy, và một vị khách người lớn, một trong số những người bạn của mẹ chúng tôi, cặp mắt kính của ông ấy lốm đốm kem phủ màu trắng.

Tôi quay sang nhìn chú Amos. “Người đó là chú. Chú đã có mặt ở buổi tiệc của Sadie.”

“Kem phủ hương va-ni,” chú ấy nhớ lại. “Rất ngon. Nhưng thậm chí ngay cả lúc đó đã quá rõ ràng rằng việc nuôi dạy 2 đưa dưới cùng 1 mái nhà sẽ vô cùng khó khăn.”

“Và vì thế...” tôi ấp úng. “Chuyện gì sẽ xảy ra với bọn cháu bây giờ đây?”

Tôi không muốn thừa nhận ra, nhưng tôi không thể chịu được ý nghĩ về việc bị tách ra khỏi Sadie một lần nữa. Con bé không phải nhiều nhặn gì, nhưng nó là tất cả những gì tôi có.

“Các cháu phải được huấn luyện một cách thích hợp,” chú Amos nói, “cho dù Ngôi Nhà có chấp nhận điều đó hay không.”

“Sao họ sẽ không chấp nhận ạ?” tôi hỏi.

“Chú sẽ giải thích mọi thứ, đừng lo. Nhưng chúng ta phải bắt đầu các bài học của bọn cháu nếu chúng ta phải giữ lấy bất cứ cơ hội nào trong việc tìm kiếm cha cháu và làm cho mọi việc trở nên đúng đắn. Nếu không toàn bộ thế giới sẽ gặp phải nguy hiểm. Nếu chúng ta biết được nơi...”

“Thành phố Phoenix,” tôi buột miệng nói.

Chú Amos trố mắt nhìn tôi. “Gì?”

“Đêm qua cháu đã có... ừm, không phải một giấc mơ, không hẳn...” tôi cảm thấy mình thật ngốc, nhưng tôi vẫn kể cho chú ấy nghe những gì xảy ra khi tôi ngủ.

Xét theo nét mặt của chú Amos, tin tức đó thậm chí còn tệ hơn so với những gì tôi nghĩ.

“Cháu chắc là hắn ta nói ‘món quà sinh nhật’ không?” chú ấy hỏi.

“Chắc ạ, nhưng điều đó có nghĩa là gì?”

“Và một vật chủ vĩnh viễn,” chú Amos nói. “Hắn vẫn chưa có sao?”

“Ừm, đó là những gì mà tên chân gà nói...”

“Đó là một con quỷ,” chú Amos nói. “Một tên tay sai của hỗn mang. Và nếu những con quỷ đó đang tiến vào thế giới loài người, thì chúng ta không có nhiều thời gian nữa đâu. Chuyện này rất xấu, rất xấu đây.”

“Nếu chú sống ở Phoenix,” tôi nói.

“Carter, kẻ thù của chúng ta sẽ không ngừng lại ở Phoenix đâu. Nếu hắn đã trở nên quá mạnh quá nhanh như thế... Hắn đã nói gì về cơn bão, chính xác từng từ nhé?”

“Hắn nói: ‘Ta sẽ hô phong hoán vũ thành một cơn bão thịnh nộ nhất trên đời’ ạ.”

Chú Amos cau mày. “Lần cuối cùng hắn nói điều đó, hắn đã tạo ra sa mạc Sahara. Một cơn bão lớn như thế có thể tiêu diệt toàn bộ vùng Bắc Mỹ, tạo ra đủ năng lượng hỗn mang để giúp hắn có được hình hài gần như là bất khả chiến bại.”

“Chú đang nói về cái gì thế? Gã đó là ai?”

Chú Amos phẩy tay lờ đi câu trả lời. “Điều quan trọng hơn bây giờ là: sao cháu ngủ mà không dùng cái kê đầu?”

Tôi nhún vai. “Không êm.” Tôi nhìn Sadie để tìm kiếm sự hỗ trợ. “Em không sử dụng nó, đúng không?”

Sadie đảo tròn mắt chán chường. “Xời, dĩ nhiên là em có dùng. Rõ ràng nó ở đó là có lý do chứ.”

Đôi khi tôi thật sự ghét em gái mình. [Ối! Đó là chân của anh!]

“Carter,” chú Amos nói, “giấc ngủ rất nguy hiểm. Nó là cánh cửa dẫn đến Cõi Âm.”

“Yêu thật,” Sadie lẩm bẩm. “Thêm một từ lạ nữa.”

“À... Đúng thế, xin lỗi nhé,” chú Amos nói. “Cõi Âm là một thế giới của các linh hồn và phép thuật. Nó tồn tại bên dưới thế giới đang thức tỉnh như một đại dương mênh mông, với nhiều tầng lớp và nhiều khu vực. Chúng ta đã lặn xuống ngay bên dưới bề mặt của nó tối qua để đến New York, vì di chuyển xuyên qua Cõi Âm nhanh hơn nhiều. Carter, tâm thức của cháu cũng băng quan các dòng sông chảy nông nhất của Cõi Âm khi cháu ngủ, đó là cách cháu chứng kiến được những gì xảy ra ở Phoenix. May sao, cháu đã sống sót qua trải nghiệm đó. Nhưng càng đi sâu hơn vào Cõi Âm, cháu sẽ trải qua những điều còn tồi tệ hơn nhiều, và càng khó quay trở lại hơn. Nơi đó có những vương quốc đầy quỷ dữ, những cung điện nơi các vị thần tồn tại trong hình dạng nguyên thủy, quá mạnh đến nỗi chỉ sự hiện diện của họ thôi cũng đủ đốt cháy một con người thành tro. Ở đó có các nhà tù giam giữ những sinh vật mang tội ác ghê tởm, và một vài vực thẳm sâu hoắm và hỗn loạn mà thậm chí cả các vị thần cũng không dám khám phá. Giờ khi sức mạnh của cháu đang trỗi dậy, cháu không được ngủ mà không có sự bảo vệ, hay để bản thân cháu hớ hênh trước những cuộc tấn công từ Cõi Âm hay... những chuyến du hành không định trước thông qua nó. Cái kê đầu đã được yểm bùa, để giữ cho tâm thức neo chặt vào cơ thể của cháu.”

“Ý chú là cháu đã thật sự đã...” Miệng tôi có vị như của sắt. “Liệu hắn đã có thể giết cháu không?”

Nét mặt của chú Amos trông nghiêm trọng. “Việc tâm hồn cháu có thể di chuyển như thế có nghĩa là cháu đang tiến bộ nhanh hơn nhiều so với chú nghĩ. Nhanh hơn nhiều so với mức có thể. Nếu tên Chúa Đỏ đã nhận ra cháu...”

“Chúa Đỏ ư?” Sadie nói. “Cái gã lửa đó hả?”

Chú Amos đứng dậy. “Chú phải tìm hiểu thêm. Chúng ta không thể đơn giản ngồi đợi hắn đến tìm chúng ta. Và nếu hắn sẽ thả ra một cơn bão trong ngày sinh nhật của mình, với tầm sức mạnh của hắn...”

“Ý chú là chú sẽ đi đếm Phoenix sao?” Tôi hầu như không thể nói thành lời. “Chú Amos, cái gã người lửa đó đã đánh bại Cha như thể phép thuật của ông là một trò đùa vậy! Giờ hắn đã có thêm mấy con quỷ, và đang trở nên mạnh hơn, và - chú sẽ bị giết mất!”

Chú Amos trao cho tôi nụ cười lãnh đạm, như thể chú đã cân nhắc được sự nguy hiểm và chẳng cần bất cứ người nào nhắc nhở. Nét mặt của chú đau đớn gọi cho tôi về Cha. “Đừng có xem thường chú của cháu sơm như thế chứ, Carter. Chú có một vài phép thuật của chính mình. Ngoài ra, chú phải biết được chuyện gì đang xảy ra với chính bản thân mình nếu chúng ta có được bất cứ cơ hội nào giải cứu cha cháu và ngăn chặn Chúa Đỏ. Chú sẽ hành động nhanh chóng và cẩn thận. Hãy cứ ở lại đây. Con Muffin sẽ bảo vệ các cháu.”

Tôi chớp mắt. “Con mèo sẽ bảo vệ bọn cháu? Chú không thể để bọn cháu lại đây như thế! Thế còn việc huấn luyện của bọn cháu thì sao?”

“Khi chú quay lại,” chú Amos hứa. “Đừng lo, căn biệt thự này đã được bảo vệ. Chỉ đừng có rời nó đi là được. Đừng để bị lừa mở cửa cho bất cứ ai. Và cho dù bất cứ chuyện gì xảy ra, không được đi vào thư viện. Chú tuyệt đối cấm việc đó. Chú sẽ quay lại vào lúc mặt trời lặn.”

Trước khi chúng tôi kịp phản đối, chú Amos đã nhẹ nhàng bước lên gờ của mái hiên và nhảy xuống.

“Không!” Sadie hét lên. Chúng tôi chạy tới lan can mà nhìn xuống. Ở ngay 30m bên dưới là con sông Đông. Chẳng có dấu vết nào của chú Amos. Chú ấy đơn giản chỉ tan biến đi.

Con Philip xứ Macedonia té nước trong hồ. Muffin nhảy lên lan can và nằng nặc đòi chúng tôi cho nó ăn.

Chúng tôi cô đơn một mình trong một căn biệt thự kỳ lạ cùng với một con khỉ đầu chó, một con cá sấu và một con mèo kỳ quái. Và hình như, toàn bộ thế giới đang lâm vào cảnh nguy hiểm.

Tôi nhìn Sadie. “Giờ chúng ta làm gì đây?”

Con bé khoanh tay lại. “À, điều đó thật rõ ràng, chẳng phải sao? Chúng ta đi khám phá thư viện.”