← Quay lại trang sách

Chương 5 - Chúng Tôi Gặp Con Khỉ.

LẠI LÀ CARTER ĐÂY. XIN LỖI. Chúng tôi phải ngưng việc thu âm trong một lúc vì chúng tôi đang bị theo dõi bởi - ừm, chúng tôi sẽ kể điều đó sau.

Sadie đang kể cho các bạn nghe làm thế nào chúng tôi rời khỏi London, đúng không?

Thế là, chúng tôi đi theo Amos xuống con thuyền kỳ lạ đậu ở mé cầu tàu. Tôi cắp chặt cái túi của Cha. Tôi vẫn không thể tin là ông đã mất. Tôi cảm thấy tội lỗi khi rời London mà không có ông, nhưng tôi tin điều chú Amos đã nói: hiện tại Cha đã vượt ngoài khả năng giúp đỡ của chúng tôi. Tôi không tin chú Amos, nhưng tôi nghĩ nếu tôi muốn khám phá ra điều gì đã xảy đến với Cha, tôi sẽ phải đi cùng chú ấy. Chú dường như là người duy nhất biết được mọi việc.

Chú Amos bước lên con thuyền sậy. Sadie nhảy ngay lên, nhưng tôi còn ngần ngừ. Tôi đã nhìn thấy những con thuyền như thế này trên sông Nile trước đây, và chúng dường như chẳng bao giờ chắc chắn cả.

Về cơ bản nó chỉ là một chiếc thuyền được bện từ các cuộn sợi thực vật như một cái thảm nói khổng lồ. Tôi cho rằng đặt những ngọn đuốc ở phía trước chẳng phải là một ý gì hay ho, vì nếu chúng tôi không bị chìm thì cũng bị thiêu cháy. Ở phía cuối, phần tay lái được điều khiển bởi một người đàn ông nhỏ bé mặc chiếc áo khoác và đội cái mũ phớt của chú Amos. Cái mũ được kéo xuống sâu nên tôi không thể thấy mặt người đó. Hai bàn tay và chân thì biến mất trong nếp gấp của chiếc áo.

“Cái này di chuyển như thế nào?” tôi hỏi chú Amos. “Chúng ta không có buồm.”

“Tin chú đi.” chú Amos chìa tay ra cho tôi.

Trời về đêm khá lạnh, nhưng sau khi đặt chân lên thuyền tôi đột nhiên cảm thấy ấm áp hơn, như thể ánh sáng từ ngọn đuốc đang tỏa ra một vầng sáng bảo vệ bao trùm lấy chúng tôi. Ở giữa con thuyền là một cái lều được dệt từ chiếu. Từ trên tay của Sadie, con Muffin ngửi ngửi túp lều và kêu gừ gừ.

“Vào bên trong ngồi đi,” chú Amos gợi ý. “Chuyến đi có thể hơi dằn xóc một chút đấy.”

“Cháu sẽ đứng, cảm ơn.” Sadie hất đầu về phía người đàn ông nhỏ thó ở phía sau. “Người lái tàu của chú là ai thế?”

Chú Amos tỏ ra như thể chú đã chẳng nghe thấy câu hỏi. “Bám chắc vào nhé mọi người!” Chú ấy gật đầu về phía người lái thuyền, và con thuyền lao về phía trước.

Cảm giác có được thật khó mà miêu tả. Bạn biết được cảm giác nhoi nhói ở hõm thượng vị khi bạn ở trên một chiếc tàu lượn siêu tốc và nó bắt đầu rơi tự do xuống chứ gì? Cảm giác này kiểu kiểu như thế, ngoại trừ việc chúng tôi không rơi xuống, và cảm giác đó chẳng mất đi. Con thuyền di chuyển với tốc độ kinh ngạc. Ánh sáng của thành phố nhòa đi, rồi bị nuốt chửng vào màn sương mù dày đặc. Những âm thanh kỳ lạ vang vọng trong đêm tối: tiếng trượt và tiếng rít, những tiếng hét từ xa xăm, những giọng nói đang thì thầm thầm bằng những ngôn ngữ mà tôi không thể hiểu.

Cảm giác nhộn nhạo đó biến thành tình trạng buồn nôn. Các âm thanh trở nên lớn hơn, cho đến khi tôi sắp tự mình hét lên. Rồi đột nhiên con thuyền chậm dần lại. Những tiếng ồn biến mất, và sương mù tan đi. Ánh sáng thành phố quay trở lại, sáng hơn lúc nãy.

Hiện lên lù lù phía trên chúng tôi là một cây cầu, cao hơn nhiều so với bất cứ cây cầu nào ở London. Dạ dày tôi tròng trành chậm dần lại. Ở phía bên trái, tôi nhìn thấy đường chân trời quen thuộc - toàn nhà Chrysler, toàn nhà Empire State.

“Không thể nào,” tôi nói. “Đây là New York.”

Sadie trông cũng xanh mét y hệt tôi. Con bé vẫn ôm chặt lấy con Muffin với hai mắt nhắm chặt lại. Con mèo dường như đang rên rỉ. “Không thể,” Sadie nói. “Chúng ta chỉ vừa mới đi có một vài phút.”

Thế nhưng chúng tôi đã ở đây, đang lướt thuyền đi trên sông Đông, ngay dưới cầu Williamsburg. Chúng tôi lướt vào một bến đõ kế bên một bãi đậu thuyền nhỏ phía Brooklyn. Phía trước chúng tôi là sân của một khu công nghiệp được chất đầy các đống kim loại phế liệu và dụng cụ xây dựng cũ. Ở chính giữa, ngay gờ nước, mọc sừng sững một nhà kho to lớn bị vẽ chi chít sơn xịt graffiti, các cánh cửa đều được đóng ván bít lại.

“Đây không phải là biệt thự gì cả,” Sadie nói. Năng lực nhận thức của nó thật sự kinh ngạc.

“Nhìn lại lần nữa đi.” chú Amos chỉ tay lên đỉnh tòa nhà.

“Sao... sao chú có thể làm thế...?” giọng tôi không thốt ra nổi. Tôi không rõ vì sao lúc nãy tôi không nhìn thấy nó, nhưng giờ nó lại hiện ra một cách rõ ràng: một khu biệt thự cao năm tầng được xây trên mái nhà kho, như một lớp bánh khác. “Chú không thể xây một cái nhà ở trên đó được!”

“Chuyện dài lắm,” chú Amos nói. “Nhưng chúng ta cần có một địa điểm riêng biệt.”

“Và có phải nó nằm ở phía bờ đông không?” Sadie hỏi. “Chú đã nói điều đó lúc ở London - ông bà ngoại của cháu đang sống ở bờ đông.”

Chú Amos mỉm cười. “Đúng thế. Rất tốt, Sadie. Trong thời cổ đại, bờ đông của sông Nile luôn là bờ của sự sống, là nơi mặt trời mọc. Người chết được chôn ở bờ tây của con sông. Nơi đấy được xem là điềm xấu, thậm chí còn là nguy hiểm, khi sống ở đó. Truyền thống đó vẫn được duy trì triệt để giữa... những người như chúng ta.”

“Những người như chúng ta?” tôi hỏi, nhưng Sadie chen vào với một câu hỏi khác.

“Vậy chú không thể sống ở Manhattan sao?” con bé hỏi.

Lông mày chú Amos cau lại khi chú ấy nhìn sang Tòa nhà Empire State. “Manhattan là những rắc rối khác. Những vị thần khác. Tốt hơn hết là chúng ta nên tách riêng ra.”

“Những cái gì khác ạ?” Sadie gặng hỏi.

“Không có gì.” Chú Amos bước ngang qua chúng tôi đến bên người lái tàu. Chú kéo mạnh mũ và áo của người đàn ông đó xuống - và chẳng có ai ở bên dưới chúng. Người lái tàu tuyệt đối đã không ở đó. Chú Amos đội chiếc mũ phớt lên, gập cái áo khoác lên phía cánh tay mình, rồi vẫy tay về phía cầu thang bằng kim loại ngoằn ngoèo từ một bên nhà kho lên đến tận biệt thự phía trên nóc nhà.

“Tất cả lên bờ nào,” chú ấy nói. “Và chào mừng đến với Nome 21.”

“Gnome - chú lùn ư?” tôi hỏi, khi chúng tôi đi theo chú ấy lên cầu thang. “Giống như những anh chàng còi cọc nhỏ bé ấy à?”

“Thánh thần ơi, không phải,” chú Amos nói. “Chú ghét bọn quỷ lùn đó. Chúng có mùi rất hôi.”

“Nhưng chú đã nói...”

“Nome, n-o-m-e. Có nghĩa là quận, một khu vực. Từ đó đên từ thời cổ đại, khi Ai Cập được chia làm 42 tỉnh. Ngày nay, hệ thống phân chia hơi khác một chút. Chúng ta đã phát triển trên toàn cầu. Thế giới được chia thành 360 Khu vực. Ai Cập, dĩ nhiên là Khu Vực 1. Thành phố Đại New York là Khu vực 21.”

Sadie liếc nhìn tôi mà xoay xoay ngón tay quanh thái dương.

“Không phải đâu, Sadie,” chú Amos nói mà chẳng cần ngoái lại nhìn. “Chú không có khùng đâu. Có rất nhiều điều mà cháu cần phải học đấy.”

Chúng tôi leo lên đến đầu cầu thang. Ngước nhìn lên biệt thự, khó mà hiểu được tôi đang nhìn thấy cái gì. Căn nhà cao ít nhất 15m, được xây bằng các khối đá vôi khổng lồ và các cửa sổ được viền thép. Các chữ tượng hình được khắc quanh các cánh cửa sổ, và những bức tường được thắp sáng khiến nơi này trông giống một gạch nối giữa một bảo tàng hiện đại và một ngôi đền thờ cổ xưa. Nhưng điều kỳ lạ nhất là nếu tôi liếc nhìn sang chỗ khác, toàn bộ căn nhà dường như biến mất. Tôi cố thử một vài lần, chỉ để cho chắc. Nếu tôi nhìn ngôi biệt thự qua khóe mắt, nó không có ở đó. Tôi buộc mắt mình phải chăm chú nhìn vào nó, và thậm chí điều đó cũng lấy đi nhiều sức mạnh ý chí.

Chú Amos ngừng lại phía trước lối vào, có kích thước của một cánh cửa gara - một khối gỗ vuông nặng nề màu đen chẳng có lấy tay cầm hay khóa. “Carter, cháu vào trước đi.”

“Ừm, sao cháu...”

“Cháu nghĩ gì?”

Hay thật, lại thêm một điều bí ẩn khác. Tôi vừa định đề nghị chúng tôi nện đầu chú Amos vào đó xem thử có mở được cửa không. Rồi tôi nhìn lại cánh cửa một lần nữa và cảm giác kỳ lạ hết đỗi. Tôi duỗi tay ra. Từ từ chậm rãi, không để tay chạm lấy cánh cửa, tôi đưa tay mình lên và cánh cửa làm theo chuyển động của tôi - trượt lên trên cho đến khi nó biến mất vào trong trần nhà.

Sadie nhìn đầy kinh ngạc. “Sao...”

“Anh không biết,” tôi thú nhận, hơi xấu hổ một chút. “Thiết bị cảm biến chuyển động, có lẽ thế?”

“Thú vị đấy.” Chú Amos nói với giọng hơi đau khổ. “Không phải cách chú sẽ làm, nhưng rất tốt. Cực kỳ tốt.”

“Cảm ơn, cháu cũng nghĩ thế.”

Sadie cố bước vào bên trong trước, nhưng ngay khi con bé đặt chân lên ngưỡng cửa, con Muffin đã ré lên và gần như lao xuống khỏi cánh tay Sadie.

Sadie loạng choạng thối lui. “Thế là sao vậy hử, mèo?”

“Ồ, dĩ nhiên,” chú Amos nói. “Cho tôi xin lỗi nhé.” Chú đặt tay mình lên đầu con meif và nói, rất trịnh trọng, “Người được phép bước vào.”

“Con mèo cần cho phép sao?” tôi hỏi.

“Trường hợp đặc biệt,” chú Amos nói, cũng chẳng phải là lời giải thích cho lắm, nhưng chú ấy đã bước vào bên trong mà chẳng nói thêm một lời nào khác. Chúng tôi di theo, và lần này con Muffin hoàn toàn im lặng.

“Ôi chúa ơi...” Sadie há hốc miệng cả ra. Con bé rướn hết cổ để nhìn lên trần nhà, và tôi nghĩ miếng kẹo cao su đã rơi khỏi miệng nó.

“Đúng thế,” Amos nói. “Đây là Đại Sảnh.”

Tôi có thể hiểu sao chú ấy gọi nơi này như thế. Trần nhà cao 4 tầng được lắp bằng các cây xà làm từ gỗ tuyết tùng, gác lên những cột đá có chạm khác các chữ tượng hình. Một bộ đủ loại đủ kiểu kỳ quặc các dụng cụ âm nhạc và vũ khí Ai Cập cổ đại trang trí cho khắp các bức tường. Ba tầng ban công bao quanh lấy căn phòng, với hàng dãy cửa, tất cả đều hướng ra khu vực trung tâm. Khu vực lò sưởi rộng đến mức có thể đỗ vừa một chiếc xe, với một ti vi plasma ở phía trên mặt lò sưởi và những chiếc ghế sofa da to lớn được đặt ở cả hai bên. Trên sàn nhà là một tấm thảm da rắn, chỉ là nó dài 12m và rộng 4m - lớn hơn rất nhiều so với bất cứ con rắn nào. Phía bên ngoài, nhìn qua các bức tường kính, tôi có thể trông thấy các mái hiên bao quanh lấy căn nhà. Mái hiên có một bể bơi, một khu vực ngồi ăn, một hố lửa đang cháy sáng. Và ở phía cuối xa xa của Đại Sảnh là một bộ cửa đôi được khắc hình con mắt của Horus, bị xích bằng nửa tá ổ khóa. Tôi tự hỏi cái gì có thể ở phía sau hai cánh cửa đó.

Nhưng điểm nhấn thật sự là bức tượng ở giữa Đại Sảnh. Tượng cao hơn 9m, và được làm bằng đá cẩm thạch đen. Tôi có thể nhận ra đây là một vị thần Ai Cập vì bức tượng có phần thân người và đầu của động vật - như một con cò hay một con sếu, với một cái cổ dài và một cái mỏ thật dài.

Vị thần đó mặc theo kiểu cổ xưa với khố, khăn quàng vai, và vòng cổ. Ông ta cầm một cây bút trâm trong tay, một cuộn giấy mở ở tay còn lại, như thể ông ta vừa mới viết chữ tượng hình được khắc ở đó: một chữ ankh - thánh giá thòng lọng của người Ai Cập - với một hình chữ nhật bao quanh đỉnh.

“Là nó!” Sadie kêu lên. “Per Ankh.”

Tôi trố mắt nhìn con bé mà không thể tin nổi. “Được rồi, sao em có thể đọc được chữ đó?”

“Em không biết,” con bé nói. “Nhưng nó chẳng phải rành rành ra đó sao? Cái phần phía trên hình dáng như mặt phẳng của một cái nhà.”

“Sao em lại hiểu được vậy? Nó chỉ là một cái hộp thôi mà.” Vấn đề là con bé nói đúng. Tôi nhận ra ký hiệu đó, và nó đúng ra là hình vẽ lược giản của một ngôi nhà với lối vào, nhưng phần lớn mọi người không dễ dàng nhận ra điều đó, đặc biệt là với người có tên là Sadie. Chưa kể là con bé trông khá tự tin.

“Nó là một ngôi nhà,” con bé khăng khăng. “Và phần dưới hình vẽ là ankh, biểu tượng của sự sống. Per Ankh - Ngôi Nhà Của Sự Sống.”

“Rất tốt, Sadie.” Chú Amos trông khá là ấn tượng. “Và đây là bức tượng của vị thần duy nhất vẫn được phép ở trong Ngôi Nhà của Sự Sống - ít ra thường là vậy. Cháu có nhận ra ông ta không, Carter?”

Chỉ khi đấy mọi chuyện bừng tỏ: con chim đó là một con cò quăm, loài chim thường sống trên sông ở Ai Cập. “Thần Thoth,” tôi nói. “Vị thần thông thái. Ông ấy đã sáng tạo ra chữ viết.”

“Đúng thế,” chú Amos nói.

“Sao lại có cái đầu của động vật?” Sadie hỏi. “Tất cả các vị thần Ai Cập đều có đầu động vật. Trông mới ngớ ngẩn làm sao.”

“Họ thường không xuất hiện dưới hình dáng đó,” chú Amos nói. “Không phải trong đời thực.”

“Đời thực ư?” tôi hỏi. “Thôi đi. Chú nói như thể chú đã gặp họ trong đời thực rồi ấy.”

Nét mặt chú Amos không làm tôi tin tưởng. Chú ấy trông như thể đang nhớ lại điều gì đó không được vui cho lắm. “Các vị thần có thể xuất hiện dưới nhiều hình dáng khác nhau - thường thì dưới hình dáng hoặc con người hoặc con vật, nhưng đôi khi là dưới hình dáng vật lai như thế này. Họ là các nguồn lực nguyên thủy, các cháu biết đấy, một kiểu cầu nói giữa nhân loại và tự nhiên. Họ được vẽ với đầu động vật để cho thấy rằng họ tồn tại giữa hai thế giới cùng một lúc. Các cháu có hiểu không?”

“Không chút nào,” Sadie nói.

“Ừm.” Chú Amos nghe ra chả lấy gì làm ngạc nhiên. “Đúng, chúng ta cần phải huấn luyện nhiều lắm. Dù ở hình dáng nào đi nữa, vị thần trước mặt các cháu đây, thần Thoth, đã sáng lập ra Ngôi Nhà của Sự Sống, vì điều đó ngôi biệt thự này là cơ quan đầu não ở địa phương. Hay ít nhất... nó từng là thế. Chú là người duy nhất còn lại ở Khu vực 21. Hay chú đã từng, cho đến khi hai cháu cùng đến đây.”

“Khoan đã.” Tôi có quá nhiều câu hỏi đến nỗi tôi hầu như không thể nghĩ được nên bắt đầu từ đâu. “Ngôi Nhà của Sự Sống là gì? Sao thần Thoth lại là vị thần duy nhất được phép ở đó, và sao chú...”

“Carter, chú hiểu cảm giác của cháu.” Amos mỉm cười đầy thông cảm. “Nhưng những điều này tốt hơn nên được thảo luận trong ánh sáng ban ngày. Bọn cháu cần đi ngủ một lúc, và chú không muốn cháu gặp ác mộng.”

“Chú nghĩ cháu có thể ngủ sao?”

“Meo.” Muffin duỗi người trong cánh tay của Sadie và ngáp dài.

Chú Amos vỗ tay. “Khufu!”

Tôi nghĩ chú ấy vừa mới hắt xì, vì Khufu là một cái tên kỳ cục, nhưng rồi một người bé tí cao khoảng 90 phân với bộ lông vàng và áo phông màu tía lạch bạch leo xuống cầu thang. Tôi phải mất một giây mới nhận ra đó là một con khỉ đầu chó đang mặc một chiếc áo của đội L.A Lakers.

Con khỉ đầu chó búng người lộn vòng trên không trung và đáp xuống trước mặt chúng tôi. Nó nhe răng ra và phát ra âm thanh nghe nửa như tiếng gầm nửa như tiếng ợ hơi. Hơi thở nó có mùi như bánh bắp giòn Doritos hương vị khoai tây.

Tất cả những gì tôi có thể nghĩ để nói ra là, “Lakers là đội ruột của tao!”

Con khỉ đầu chó vỗ hai tay vào đầu nó và ợ to lần nữa.

“Ồ, Khufu thích cháu đấy,” chú Amos nói. “Hai đứa rồi sẽ thân nhau lắm đây.”

“Đúng thế.” Sadie trông choáng váng. “Chú có một con khỉ làm quản gia. Sao lại không nhỉ?”

Muffin kêu rừ rừ trong tay Sadie như thể con khỉ đầu chó chẳng làm noa bận tâm ấy.

“Agh!” Khufu càu nhàu với tôi.

Chú Amos tặc lưỡi. “Nó muốn đi riêng với cháu đấy, Carter. Để, à, cùng cháu xem trận bóng ấy mà.”

Tôi chuyển chân này sang chân kia. “Ừm, được thôi. Chắc rồi. Có lẽ để mai đi. Nhưng sao chú có thể hiểu...”

“Carter, chú e là cháu có nhiều việc cần phải làm quen đấy,” chú Amos nói. “Nhưng nếu cháu muốn sống sót và giải cứu được cha cháu, thì cháu sẽ phải nghỉ ngơi cái đã.”

“Xin lỗi,” Sadie nói, “có phải chú vừa mới nói ‘sống sót và giải cứu cho cha bọn cháu’ không? Liệu chú có thể giải thích điều đó chi tiết hơn không?”

“Sáng mai,” chú Amos nói. “Chúng ta sẽ bắt đầu buổi giới thiệu đại ý cho các cháu và buổi sáng. Khufu, làm ơn dẫn hai người về phòng nào.”

“Agh-uhh!” con khỉ càu nhàu. Nó quay lưng và đi lạch bạch lên cầu thang. Ngặt nỗi là, chiếc áo thi đấu của đội Lakers không che được hết cái mông đầy màu sắc của nó.

Chúng tôi chuẩn bị đi theo thì chú Amos bảo, “Carter, cái túi, làm ơn. Tốt hơn là để chú khóa nó vào trong thư viện.”

Tôi ngần ngừ. Tôi gần như quên chiếc túi trên vai tôi, nhưng nó là tất cả những gì tôi còn lại từ Cha. Tôi đã thậm chí không có lấy hành lý của chúng tôi vì nó vẫn bị giữ lại ở Bảo tàng Anh. Thành thật mà nó, tôi thấy ngạc nhiên khi cảnh sát đã không lấy cả cái túi đồ nghề, nhưng dường như không ai trong số họ chú ý đến nó.

“Cháu sẽ có lại nó thôi,” chú Amos hứa. “Khi thời điểm chín muồi.”

Chú ấy đã yêu cầu khá tử tế, nhưng có điều gì đó trong mắt chú ấy cho tôi rằng tôi thật sự không có sự lựa chọn nào khác.

Tôi đưa chiếc túi cho chú. Amos thận trọng cầm lấy nó, như thể nó chưa đầy chất nổ vậy.

“Gặp lại các cháu vào buổi sáng nhé.” Chú quay người lại và sải bước về phía cánh cửa bị xích. Cửa tự mở khóa và hé ra vừa đủ để chú Amos đi qua mà không cho chúng tôi thấy được bất cứ thứ gì bên trong. Rồi những sợi xích lại tự khóa lại phía sau lưng chú ấy.

Tôi nhìn Sadie, không rõ phải làm gì. Việc hai chúng tôi một mình ở lại trong Đại Sảnh với bức tượng thần Thoth rùng rợn dường như không phải là chuyện gì vui vẻ lắm, vì thế chúng tôi đi theo Khufu lên lầu.

Sadie và tôi ở hai phòng kế nhau trên tầng 3, và tôi phải thừa nhận rằng hai phòng này tuyệt hơn bất cứ nơi nào tôi đã ở trước đây.

Tôi có riêng cho mình một cái bếp nhỏ, chất đầy những món đồ ăn vặt yêu thích của tôi: nước soda gừng - [Không phải Sadie. Đó không phải soda dành cho người già! Im miệng!] - Twix, và Skittles. Điều này dường như là không thể. Sao chú Amos lại biết được tôi thích gì chứ? Tivi, máy tính, và dàn âm thanh nổi đều toàn là đồ công nghệ cao. Phòng tắm có sẵn loại kem đánh răng, đồ khử mùi, mọi thứ thương hiệu mà tôi vẫn thường hay dùng. Chiếc giường cỡ đại cũng thật tuyệt nữa, mặc dầu cái gối hơi kỳ lạ một chút. Thay vì là một chiếc gối bằng vải, thì đấy lại là cái kê đầu bằng ngà voi như cái tôi đã từng thấy trong các lăng mộ Ai Cập. Nó được trang trí bằng hình những con sư tử và (dĩ nhiên) cùng với các chữ tượng hình khác nữa.

Căn phòng thậm chí còn có một sàn hiên gỗ nhìn ra phía vịnh New York, với quang cảnh khu Manhattan và tượng Nữ thần Tự do ở phía xa xa, nhưng cánh cửa kính trượt đã bị khóa chặt lại. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho thấy rằng có điều gì đó không ổn.

Tôi quay lại để tìm Khufu, nhưng nó đã bỏ đi. Cánh cửa phòng tôi đã bị đóng. Tôi cố mở nhưng nó đã bị khóa.

Một giọng nói như bị nghẹt lại vọng đến từ căn phòng kế bên. “Carter ơi?”

“Sadie.” Tôi cố mở cánh cửa thông sang phòng con bé, nhưng cửa này cũng bị khóa lại nốt.

“Bọn mình thành tù nhân mất rồi,” con bé nói. “Anh có nghĩ Amos... ý em là, chúng ta có thể tin ông ấy không?”

Sau tất cả những gì tôi đã nhìn thấy ngày hôm nay, tôi không còn tin và bất cứ điều gì, nhưng tôi có thể nghe thấy sự sợ hãi trong giọng nói của Sadie. Điều này khơi dậy một cảm giác xa lạ trong tôi, giống như là tôi cần phải trấn an con bé. Ý tưởng này dường như buồn cười quá đỗi. Hình như Sadie khi nào cũng dũng cảm hơn tôi - làm những gì con bé muốn, không bao giờ quan tâm đến hậu quả. Tôi mới là đứa hay sợ. Nhưng hiện giờ, tôi cảm thấy mình cần đóng vai trò mà đã từ rất lâu mình không làm: trở thành một người anh.

“Sẽ ổn thôi mà.” Tôi cố nghe sao cho tự tin. “Nghe này, nếu chú Amos muốn hại chúng ta, đến lúc này chú ấy đã có thể ra tay rồi. Hãy cố ngủ một chút đi.”

“Carter này?”

“Hử?”

“Đó là phép thuật, đúng không? Những gì xảy ra với Cha ở bảo tàng ấy. Con thuyền của chú Amos. Ngôi nhà này. Tất cả là phép thuật.”

“Anh nghĩ thế.”

Tôi có thể nghe tiếng con bé thở dài. “Tốt. Ít nhất em sẽ không bị điên.”

“Đừng để những con rệp cắn đấy,” tôi gọi lớn. Và tôi nhận ra mình đã không nói điều đó với Sadie kể từ khi chúng tôi sống cùng nhau ở L.A, khi Mẹ vẫn còn sống.

“Em nhớ Cha,” con bé nói. “Em hầu như không bao giờ nhìn thấy ông, em biết, nhưng... em nhớ ông.”

Tôi rơm rớm nước mắt, nhưng tôi hít thật sâu. Tôi sẽ không trở nên yếu đuối. Sadue sẽ cần tôi. Cha cần chúng tôi.

“Chúng ta sẽ tìm ông,” tôi nói với con bé. “Có những giấc mơ đẹp nhé.”

Tôi lắng nghe, nhưng chỉ thấy được tiếng con Muffin kêu meo meo và tiếng con mèo chạy khắp nơi, khám phá nơi ở mới của mình. Ít nhất nó dường như không phải không vui vẻ.

Tôi thay đồ đi ngủ rồi leo lên giường. Vỏ chăn dễ chịu và ấm áp, nhưng cái gối kỳ quái quá. Nó làm cho cổ tôi bị chuột rút, vì thế tôi đặt nó lên sàn nhà và đi ngủ mà chẳng cần đến gối.

Sai lầm lớn đầu tiên của tôi.