← Quay lại trang sách

Chương 11 - Chúng Tôi Gặp Người Ném Lửa.

Dúng thế, tôi đang chiếm mi-crô. Không đời nào Carter kể chính xác phần này, vì liên quan đến Zia. [Im đi, anh Carter. Anh biết là đúng vậy mà.]

Ồ, Zia là ai ư? Xin lỗi nhé, tôi đang cầm đèn chạy trước ô-tô rồi.

Chúng tôi chạy như bay đến lối vào của bảo tàng, và tôi không biết lý do sao phải làm thế, ngoại trừ rằng một miêu nữ phát sáng khổng lồ đã bảo chúng tôi phải làm vậy. Giờ, các bạn ắt cũng đã nhận ra tôi tan nát cõi lòng vì những chuyện đã xảy ra. Đầu tiên, tôi mất đi người cha của mình. Thứ hai, ông bà ngoại yêu quý của tôi đã đuổi cổ tôi khỏi căn hộ. Rồi tôi phát hiện ra rằng tôi hình như có “dòng dõi của các pharaoh”, được sinh ra trong một gia đình có phép thuật, và đủ thứ điều rác rưởi nghe ra khá là ấn tượng nhưng chỉ mang đến cho tôi hàng đống rắc rối mà thôi. Và ngay khi tôi vừa tìm được một ngôi nhà mới - này nhé, một căn biệt thự với bữa ăn sáng đúng kiểu và những người bạn vật cưng đáng yêu cùng một căn phòng khá đẹp dành cho tôi - thì chú Amos lại biến mất, những người bạn mới gồm con cá sấu và con khỉ đầu chó xinh đẹp của tôi cũng bị quẳng xuống sông, và căn biệt thự chìm trong lửa. Và nếu những điều đó vẫn chưa đủ, con mèo Muffin trung thành của tôi đã quyết định tham gia vào một trận chiến vô vọng với một đàn bọ cạp.

Các bạn dùng từ một “đàn” để chỉ những con bọ cạp? Hay một bầy? Hay một đám? Ồ, đừng bận tâm.

Vấn đề ở đây là tôi không thể tin được mình bị yêu cầu mở một cánh cửa phép thuật khi rõ ràng tôi chẳng có chút năng lực nào, còn giờ thì anh trai tôi đang lôi tôi chạy như ma đuổi. Tôi cảm giác như thể mình là một kẻ hoàn toàn vô dụng. [Còn anh thì miễn bàn nhé Carter. Vì như em nhớ, anh cũng chẳng giúp đỡ được gì nhiều trong lúc đó đâu, nhỉ.]

“Chúng ta không thể để nữ thần Bast lại được!” tôi hét lớn. “Nhìn kìa!”

Carter vẫn tiếp tục chạy, kéo theo cả tôi, nhưng tôi có thể nhìn khá rõ những gì đang diễn ra ở khu vực đài tưởng niệm. Một đống bọ cạp đã bò lên hai đôi chân màu xanh lục phát sáng của nữ thần Bast và bò len lỏi bên trong hình ảnh không gian ba chiều như thể hai chân ấy được làm bằng đông sương. Nữ thần Bast dùng chân và nắm đấm tiêu diệt hàng trăm con một lúc, nhưng đơn giản là chúng quá đông. Chẳng mấy chốc chúng tiến lên thắt lưng cô ấy, và vỏ bọc ma thuật của cô ấy bắt đầu nhấp nháy. Trong khi đó, mụ nữ thần mặc đầm nâu dài đủng đà đủng đỉnh tiến tới, và tôi có cảm giác rằng ả còn tệ hơn bất cứ số lượng bọ cạp nào.

Carter kéo tôi đi xuyên qua một dãy cây bụi làm tôi không còn thấy nữ thần Bast. Chúng tôi lao vụt ra Đại lộ số Năm, trông dường như bình thường đến kỳ cục sau trận chiến phép thuật. Chúng tôi chạy về phía cuối vỉa hè, chen vai huých cánh qua đám đông bộ hành dồn đống, và leo lên các bậc thang của Met.

Một băng rôn treo phía trên lối vào thông báo về một chương trình Giáng Sinh đặc biệt nào đó, có lẽ vì vậy mà bảo tàng mới mở cửa trong ngày lễ, nhưng tôi không thèm bận tâm đọc chi tiết. Chúng tôi lao thẳng vào bên trong.

Bảo tàng trông như thế nào nhỉ? Ừm, đấy là một bảo tàng: sảnh vào thênh thang, vô số hàng cột và vân vân. Tôi không thể nói rằng mình đã dành nhiều thời gian chiêm ngưỡng cách bài trí. Tôi nhớ nơi đấy có các dãy quầy bán vé, vì chúng tôi đã chạy băng qua chúng, ở đó cũng có các nhân viên an ninh, vì họ quát chúng tôi khi chúng tôi lao vào trong các khu triển lãm. Ơn trời, cuối cùng chúng tôi cũng đến được khu vực Ai Cập, trước một thứ kiểu như lăng mộ được tái tạo cùng các hành lang hẹp. Carter chắc chắn có thể kể cho các bạn nghe về kiểu kiến trúc đó đáng ra là kiểu gì, nhưng thật lòng mà nói thì tôi chẳng quan tâm.

“Đi thôi,” tôi nói.

Chúng tôi lẻn vào khu triển lãm, chỉ cần thế là cắt đuôi được đám nhân viên an ninh, hoặc có lẽ họ có việc khác đáng để làm hơn là đuổi theo những đứa trẻ nghịch ngợm.

Khi lại ló người ra, chúng tôi lẻn đi quanh phòng cho đến khi chắc rằng mình không bị theo đuôi.

Khu vực Ai Cập không đông lắm - chỉ có một vài nhóm người già và một nhóm khách du lịch nước ngoài với hướng dẫn viên đang giải thích về cái quách bằng tiếng Pháp. “Et voici la momie!”[10]

Lạ lùng là, dường như không ai chú ý đến thanh kiếm to đùng sau lưng Carter, thứ này đáng lẽ phải là một vấn đề an ninh đấy chứ (và thú vị hơn nhiều mấy cái triển lãm kia). Một vài người già quả có nhìn chúng tôi kỳ kỳ, nhưng tôi ngờ rằng đó là vì chúng tôi mặc những bộ pyjama bằng vải lanh, người mồ hôi mồ kê, phủ đầy cỏ và lá cây. Mái tóc của tôi chắc chắn cũng là một cơn ác mộng nữa.

Tôi tìm thấy một căn phòng trống thế là lôi Carter sang một bên. Các hộp kính đầy nhóc shabti. Một vài ngày trước đây hẳn tôi sẽ không suy nghĩ gì về chúng. Giờ đây, tôi mải liếc nhìn các bức tượng, vì bất cứ lúc nào chúng cũng có thể sống lại và cố phang vào đầu tôi.

“Giờ thì thế nào?” tôi hỏi Carter. “Anh có thấy được đền thờ nào không?”

“Không.” Anh nhíu mày lại như thể đang cố hết sức nhớ lại. “Anh nghĩ có một cái đền thờ được xây dựng lại ở cuối sảnh… hay là nó ở Bảo tàng Brooklyn nhỉ? Hay có lẽ là cái ở Munich? Xin lỗi, anh đã đi cùng Cha đến quá nhiều bảo tàng nên chúng cứ trộn lẫn vào nhau.”

Tôi thở dài bực tức. “Tội nghiệp thằng bé, bị buộc phải đi khắp thế giới, không được đến trường, và phải ở cùng với Cha trong khi em có được những hai ngày một năm ở bên ông ấy!”

“Này!” Carter quay người tôi lại với một lực đáng ngạc nhiên. “Em có một ngôi nhà! Em có bạn bè và một cuộc sống bình thường và không thức dậy mỗi sáng rồi tự hỏi em đang ở đất nước nào! Em không…”

Cái hộp kính bên cạnh tôi vỡ tan, bắn vụn kính tung tóe ở chân chúng tôi.

Carter nhìn tôi, hoang mang. “Có phải chúng ta vừa mới…”

“Như cái bánh sinh nhật nổ tung của em,” tôi càu nhàu, cố không để lộ ra việc mình đã giật mình ngạc nhiên đến thế nào. “Anh cần kiểm soát tính khí của mình đi chứ.”

“Anh á?”

Tiếng chuông báo động bát đầu ré lên. Đèn đỏ dọc hành lang nhấp nháy. Một giọng nói eo éo vang lên trên loa phóng thanh và nói điều

gì đó về việc bình tĩnh tiến về phía các cửa thoát hiểm. Đoàn khách người Pháp chạy qua chúng tôi, la hét hốt hoảng, theo sau đấy là một đám đông những người già chống gậy đẩy xe nhanh nhẹn đến ngạc nhiên.

“Chúng ta sẽ kết thúc việc tranh cãi sau, được không?” tôi bảo Carter. “Đi thôi!”

Chúng tôi chạy xuống một hành lang khác, và tiếng còi báo động đột ngột ngừng lại y như khi chúng bắt đầu. Các ánh đèn đỏ như máu vẫn tiếp tục nhấp nháy trong sự im lặng rờn rợn. Rồi tôi nghe ra: âm thanh trơn trượt, lách cách của những con bọ cạp.

“Còn nữ thần Bast thì sao?” Giọng tôi như nghẹn lại. “Cô ấy…”

“Đừng nghĩ về điều đó,” Carter nói, mặc dầu, trông mặt anh, đó chính xác là những gì mà anh đang nghĩ đến. “Tiếp tục đi nào!”

Ngay sau đó chúng tôi lạc đường thê thảm. Theo như tôi nhận thấy, phần Ai Cập của bảo tàng này được thiết kế một cách càng khó hiểu càng tốt, với những ngõ cụt và các sảnh hướng bạn quay ngược trở lại điểm xuất phát. Chúng tôi đi ngang qua các cuộn văn tự chữ tượng hình, trang sức bằng vàng, những cái quách, các bức tượng pharaoh, và các khoanh đá vôi lớn. Sao có người lại đi triển lãm một hòn đá nhỉ? Chẳng phải thế giới ngoài kia đã có lắm đá rồi sao?

Chúng tôi không nhìn thấy bất cứ ai, nhưng các âm thanh trơn trượt đó ngày càng lớn hơn cho dù chúng tôi chạy đi lối nào đi nữa. Cuối cùng tôi quành qua một góc tường rồi đâm thẳng vào một người nào đó.

Tôi hét lên và lùi lại, chỉ để húc vào người anh Carter, cả hai chúng tôi ngã dập mông xuống trong tư thế kém duyên nhất. Màu nhiệm thay là Carter đã không đâm xuyên người bằng thanh kiếm của mình.

Thoạt đầu tôi đã không nhận ra cô gái đang đứng phía trước mặt chúng tôi, mà giờ nghĩ lại thì chuyện này có vẻ lạ thật. Có lẽ cô ta đang sử dụng kiểu hào quang pháp thuật nào đó, hoặc có thể chỉ là tôi đã không muốn tin đó là cô ta.

Cô ta trông hơi cao hơn tôi một chút. Chắc chắn cũng lớn tuổi hơn, nhưng không nhiều lắm. Mái tóc đen được tỉa dọc theo khuôn mặt và phần mái trước hơi dài hơn để che phủ cả đôi mắt. Cô ta có làn da màu nâu nhạt cùng nét mặt xinh xắn phảng phất nét Ả rập. Đôi mắt - được kẻ bằng phấn côn màu đen, kiểu người Ai Cập - có màu hổ phách kỳ lạ, trông hoặc là đẹp vô cùng hoặc là hơi đáng sợ; tôi không thể quyết định được là thế nào. Cô ta đeo ba lô trên vai và mang sandal cùng áo quần rộng thùng thình bằng vải lanh như của chúng tôi. Cô ta trông như thể đang trên đường đến lớp học võ. Chúa ơi, giờ đây khi tôi nghĩ lại, chúng tôi khi đấy chắc chắn cũng trông giống như thế. Xấu hổ quá. Tôi bắt đầu dần dần nhận ra mình đã trông thấy cô ta trước đây. Cô ta là cô gái cầm dao từ Bảo tàng Anh. Trước khi tôi kịp mở miệng, Carter đã đứng bật dậy. Anh ấy di chuyển về phía trước và vung kiếm lên như thể đang cố bảo vệ tôi. Bạn có tin nổi sự dũng cảm đó không cơ chứ?

“Lùi… lùi lại!” Carter lắp bắp nói.

Cô gái thò tay vào trong ống tay áo và lấy ra một mẩu ngà voi trắng cong cong - một cây đũa phép Ai Cập.

Cô ta vụt nhẹ nó sang một bên, thế là thanh kiếm của Carter bay khỏi tay rồi rơi loảng xoảng xuống nền nhà.

“Đừng có tự làm xấu hổ,” cô gái lạnh lùng nói. “Amos đâu?”

Carter trông quá đỗi sững sờ chẳng thể thốt nên lời. Cô gái quay về phía tôi. Đôi mắt vàng của cô ta vừa đẹp và đáng sợ, tôi quyết định là thế, và tôi không thích cô ta tí nào.

“Sao hả?” cô ta gặng hỏi.

Tôi không thấy tại sao mình cần phải trả lời bất cứ chuyện gì với cô này, nhưng một áp lực khó chịu bắt đầu hình thành trong ngực tôi, như thể một cái ợ cần được giải thoát vậy. Tôi nghe chính mình cất tiếng, “Chú Amos đã đi rồi. Chú ấy rời đi vào sáng hôm nay.”

“Còn con quỷ mèo kia?”

“Đó là con mèo của tôi” tôi nói. “Và nó là một nữ thần, không phải là ma quỷ. Nó đã cứu chúng tôi khỏi những con bọ cạp.”

Carter đã tỉnh lại. Anh ấy chụp lấy cây kiếm và chĩa mũi nó vào cô gái một lần nữa. Nên được khen ngợi vì sự kiên trì, tôi nghĩ.

“Cô là ai?” anh ấy gặng hỏi. “Cô muốn gì?”

“Tên ta là Zia Rashid.” Cô ta nghiêng đầu như thể đang lắng nghe.

Đúng lúc đó, toàn bộ căn nhà rung chuyển. Bụi rơi như mưa xuống từ trần nhà, và các âm thanh trơn trượt của những con bọ cạp vang lên lớn gấp hai lần phía sau lưng chúng tôi.

“Và ngay bây giờ,” Zia nói tiếp, nghe hơi thất vọng, “ta phải cứu lấy mạng sống đáng thương của các ngươi. Đi thôi.”

Tôi cho là lẽ ra chúng tôi đã có thể từ chối, nhưng lựa chọn của chúng tôi dường như chỉ là hoặc Zia hoặc những con bọ cạp, vì thế chúng tôi đành chạy theo Zia.

Cô ta chạy ngang qua một cái hộp đựng đầy các bức tượng và ngẫu nhiên gõ cây đũa phép lên mặt kính. Các bức tượng pharaoh bằng đá gra-nít và các vị thần bằng đá vôi bé tẻo teo cựa mình theo lệnh của cô ta. Chúng nhảy ra khỏi các bệ tượng và đâm xuyên qua lớp kính. Một vài người sử dụng vũ khí. Những người khác đơn giản sử dụng nắm tay bằng đá của mình. Chúng để chúng tôi đi qua, nhưng lại nhìn chòng chọc về phía cuối hành lang phía sau chúng tôi như thể đang đợi kẻ thù.

“Nhanh lên,” Zia bảo chúng tôi. “Bọn này sẽ chỉ…”

“Cho chúng ta một ít thời gian thôi,” tôi đoán. “Đúng thế, chúng tôi đã nghe thấy điều đó trước đây.”

“Cô nói nhiều quá đấy,” Zia nói mà không ngừng bước.

Tôi định đáp trả cô ta bằng một lời láo xược. Thành thật mà nói, tôi chắc hẳn đã có thể cho cô này biết phải trái là gì rồi. Nhưng ngay lúc đó chúng tôi xông vào một căn phòng lớn và giọng tôi đã bỏ rơi tôi.

“Ối chà,” Carter thốt lên.

Tôi không thể không đồng ý với anh ấy. Nơi này cực kỳ ối chà.

Căn phòng có kích thước của một sân bóng đá. Một bức tường được làm hoàn toàn bằng kính và nhìn ra phía ngoài công viên, ở giữa phòng, trên phần nền được nâng lên cao, một công trình cổ được tái dựng lại. Một cổng chào bằng đá xếp cao chừng tám mét, phía sau đấy là khoảng sân nhỏ thông thoáng và một công trình hình vuông vức được làm từ các khối sa thạch gồ ghề, bề ngoài được khác đầy hình ảnh của các vị thần, các pharaoh và chữ tượng hình, ở hai bên cánh lối vào của tòa nhà là hai cây cột tám mình trong ánh sáng kỳ quái.

“Một đền thờ Ai Cập,” tôi đoán.

“Đền thờ Dendur,” Zia nói. “Thật ra nó được xây bởi những người La Mã…”

“Khi họ chiếm đóng Ai Cập,” Carter nói tiếp, như thể đó là một thông tin thú vị lắm vậy.

“Augustus đã ra lệnh làm điều đó.”

“Đúng thế,” Zia nói.

“Ngưỡng mộ ghê,” tôi lẩm bẩm. “Hai người có thích được ở một mình cùng một cuốn sách giáo khoa môn lịch sử không?”

Zia quắc mắt nhìn tôi. “Dù sao đi nữa, đền thờ được dâng tặng cho nữ thần Isis, vì thế nó sẽ đủ sức mạnh để mở một cánh cửa.”

“Để triệu hồi thêm các vị thần sao?” tôi hỏi.

Đôi mắt Zia lóe lên giận dữ. “Kết tội ta như thế thêm một lần nữa, ta sẽ cắt lưỡi cô đấy. Ý ta là cái cổng để đưa các ngươi ra khỏi đây.”

Tôi thấy chẳng hiểu quái gì cả, nhưng tôi đang quen với điều này. Chúng tôi đi theo Zia lên các bậc thang và đi xuyên qua cổng chào bằng đá của đền thờ.

Khoảnh sân nhỏ vắng tanh, bị bỏ rơi bởi các khách tham quan đã tháo chạy, khiến khoảng sân mang cảm giác khá là sởn gai ốc. Các bức tượng thần linh được tạc khổng lồ đang chòng chọc nhìn xuống tôi. Các câu khắc bằng chữ tượng hình ở khắp mọi nơi, và tôi sợ rằng nếu mình quá tập trung, mình sẽ có thể đọc được chúng.

Zia ngừng lại ở các bậc thang trước đền thờ. Cô ta đưa cao đũa phép và viết gì đó trong không trung. Một chữ tượng hình quen thuộc sáng lên giữa các cây cột.

Mở ra - cùng một ký hiệu mà Cha đã dùng ở Phiến đá Rosetta. Tôi chờ đợi thứ gì đó nổ tung, nhưng chữ tượng hình chỉ dần mờ đi.

Zia mở ba lô của mình ra. “Chúng ta sẽ đứng đợi ở đây cho đến khi cánh cổng có thể được mở ra.”

“Sao không mở nó ra ngay lúc này?” Carter hỏi.

“Các cổng dịch chuyển chỉ có thể xuất hiện vào giờ lành,” Zia nói. “Lúc bình minh, hoàng hôn, nửa đêm, thiên thực, ngày ba hành tinh xếp thẳng hàng, thời gian chào đời chính xác của một vị thần…”

“Ôi, thôi nào,” tôi nói. “Sao cô có thể nhớ được tất cả những ngày đó?”

“Phải mất nhiều năm mới nhớ được toàn bộ lịch,” Zia nói. “Nhưng giờ lành tiếp theo thì dễ lắm: chính ngọ. Còn mười phút rưỡi nữa.”

Cô ta không thèm nhìn đồng hồ. Tôi tự hỏi sao cô ta biết rõ thời gian một cách chính xác như thế, nhưng tôi quyết định đấy không phải là câu hỏi quan trọng nhất.

“Sao chúng tôi lại phải tin cô?” tôi hỏi. “Theo như tôi nhớ lại, lúc ở Bảo tàng Anh, cô đã muốn moi ruột chúng tôi bằng dao cơ mà.”

“Làm thế hẳn sẽ đơn giản hơn nhiều,” Zia thở dài. “Không may là, các thượng cấp của ta nghĩ rằng các ngươi có thể là những kẻ vô tội. Vì thế hiện tại, ta không thể giết các ngươi. Nhưng ta cũng không thể để các ngươi rơi vào tay của Chúa Đỏ. Và vì thế… các ngươi có thể tin ta.”

“Ồ, tôi bị thuyết phục đấy,” tôi nói. “Tôi thấy trong lòng ấm áp nôn nao cả rồi này.”

Zia thò tay vào túi và lấy ra bốn bức tượng nhỏ - người có đầu động vật, mỗi một bức tượng cao năm centimet. cô ta đưa chúng cho tôi. “Đặt các bức tượng Con trai thần Horus quanh chúng ta ở bốn phương.”

“Xin lỗi chứ?”

“Bắc, nam, đông, tây.” Cô ta nói chầm chậm, như thể tôi là một con ngốc vậy.

“Tôi biết các hướng của la bàn! Nhưng…”

“Đó là hướng bắc.” Zia chỉ tay về phía bức tường kính. “Các hướng còn lại thì tự nghĩ ra đi.”

Tôi làm theo những gì cô ta yêu cầu, mặc dầu tôi không rõ sao mấy tên đàn ông nhỏ bé đó sẽ giúp được chúng tôi. Trong khi đó, Zia đưa cho Carter một mẩu phấn và bảo anh ấy vẽ một vòng tròn bao quanh chúng tôi, nối các bức tượng lại.

“Phép thuật bảo vệ,” anh Carter nói. “Như Cha đã làm ở Bảo tàng Anh.”

“Đúng thế,” tôi cằn nhằn. “Và chúng ta đã thấy được cái thứ đó hoạt động hiệu quả như thế nào.”

Carter lờ tôi đi. Còn chuyện gì khác mới hơn nữa nào? Anh ta hăng hái muốn làm hài lòng Zia đến nỗi thực thi ngay nhiệm vụ vẽ nghệ thuật đường phố.

Rồi Zia lấy thêm thứ gì đó ra từ trong túi ra - một que gỗ trơn như cái mà cha chúng tôi đã sử dụng ở Luân Đôn. Cô ta thì thầm một từ, và que gỗ biến thành một cây gậy màu đen dài hai mét với một đầu khắc hình đầu sư tử. Cô ta một tay quay gậy như gậy chỉ huy - chỉ làm màu mà thôi, tôi chắc mà - trong khi tay kia cầm cây đũa phép bằng ngà voi.

Carter vẽ xong vòng tròn bằng phấn khi những con bọ cạp đầu tiên xuất hiện ở lối vào khu triển lãm.

“Cái cổng đó còn mất bao lâu nữa?” tôi hỏi, hy vọng rằng giọng tôi không tỏ ra sợ hãi như mình cảm nhận.

“Ở bên trong vòng tròn dù có bất cứ chuyện gì xảy ra,” Zia nói. “Khi cánh cổng mở ra, nhảy ngay qua đấy. Và cứ ở phía sau lưng ta!”

Cô ta chạm đũa phép vào vòng tròn bằng phấn, đọc thêm một từ khác, và vòng tròn bắt đầu phát ra ánh sáng đỏ sẫm.

Hàng trăm con bọ cạp lúc nhúc tràn về phía đền thờ, biến sàn nhà thành một đống càng và ngòi sống động. Rồi người phụ nữ mặc đồ nâu, Serqet, tiến vào khu triển lãm. Ả lạnh lùng mỉm cười với chúng tôi.

“Zia,” tôi nói, “đó là một nữ thần. Bà ta đã đánh bại Bast. Cô thấy mình có bất cứ cơ hội nào không?” Zia dương cây gậy của mình lên cao và đầu khắc chạm hình sư tử bùng lên thành ngọn lửa - một quả cầu lửa bé nhỏ đỏ rực, sáng đến nỗi thắp sáng toàn bộ căn phòng. “Ta là thư lại ở Ngôi Nhà của Sự sống, Sadie Kane à. Ta được đào tạo để chiến đấu với các vị thần.”