← Quay lại trang sách

Chương 13 - Tôi Đối Mặt Với Con Gà Tây Sát Thủ.

Dến lượt tôi.

Đầu tiên, lời bình luận “cún con” của Sadie là hoàn toàn không đúng. Tôi không có tình ý gì với Zia. Đó chỉ là vì tôi không gặp được nhiều người có thể ném cầu lửa và chiến đấu với thần thánh như thế. [Ngừng cái việc làm mặt xấu với anh như thế đi, Sadie. Em trông giống hệt con Khufu.]

Dù sao thì chúng tôi đã lao thẳng xuống đường hầm cát.

Vạn vật tối sầm. Dạ dày tôi nhoi nhói với tình trạng phi trọng lực như lúc bạn ở phía trên đỉnh của đường lượn cao tốc khi tôi lao ầm xuống phía trước. Những ngọn gió nóng quất quanh người tôi, và da tôi bỏng rát.

Rồi tôi rơi xuống trên sàn nhà lát gạch men lạnh cóng, và Sadie và Zia rơi xuống trên người tôi.

“Ối!” tôi cằn nhằn.

Điều đầu tiên tôi nhận ra là một lớp cát mịn bao phủ lấy cơ thể mình như đường tán nhuyễn. Rồi khi mắt tôi dần quen với ánh sáng chói chang, chúng tôi đang ở trong một tòa nhà lớn giống một khu mua sắm, với các đám đông đang hối hả qua lại quanh chúng tôi.

Không… đây không phải là một khu mua sắm. Đây là khu vực đợi chuyến bay của một sân bay hai tầng, với các cửa hàng, khá nhiều cửa sổ, và các cột thép bóng loáng. Bên ngoài, trời tối đen, vì thế tôi biết chúng tôi ắt đang ở khu vực trái múi giờ. Các thông báo vang lên qua hệ thống điện thoại nội bộ bằng thứ tiếng nghe như thể tiếng A-rập.

Sadie phun cát ra khỏi miệng. “Kinh!”

“Đi thôi,” Zia nói. “Chúng ta không thể ở đây.”

Tôi chật vật đứng dậy. Mọi người đang ngược xuôi đi lại ngang qua chúng tôi - một vài người mặc áo quần kiểu phương Tây, một vài người mặc áo choàng và khăn trùm đầu.

Một gia đình đang tranh cãi nhau bằng tiếng Đức vội vàng đi đến và suýt thì những cái va-li của họ đâm sầm vào người tôi.

Rồi tôi quay người lại và nhìn thấy thứ mà tôi nhận biết, ở giữa phòng đợi này là một bản sao có kích thước thật một con thuyền cổ của người Ai Cập được tạo ra từ các tủ trưng bày hàng phát sáng - một quầy hàng bán nước hoa và đồ nữ trang.

“Đây là sân bay Cairo,” tôi nói.

“Đúng thế,” Zia trả lời. “Giờ thì đi thôi!”

“Sao lại vội thế? Liệu Serqet… liệu ả có thể đi theo chúng ta xuyên qua cánh cổng cát đó không?”

Zia lắc đầu. “Đồ tạo tác sẽ bị đun nóng mỗi một khi nó tạo ra cánh cổng. Nó cần phải có mười hai tiếng để làm nguội trước khi được tái sử dụng. Nhưng chúng ta vẫn phải lo lắng về việc an ninh sân bay. Trừ phi hai người muốn gặp cảnh sát Ai Cập, nếu không cả hai phải đi cùng ta ngay lúc này.”

Cô ta tóm lấy tay hai chúng tôi và kéo chúng tôi đi xuyên qua đám đông. Hẳn chúng tôi phải trông giống những tên ăn xin trong bộ trang phục lỗi thời, phủ đầy cát từ đầu đến chân. Mọi người đều tránh xa, nhưng không ai cố ngăn chúng tôi lại.

“Sao chúng ta lại đến đây?” Sadie gặng hỏi.

“Để nghiên cứu về các tàn tích của Heliopolis[11],” Zia trả lời.

“Bên trong một sân bay sao?” Sadie hỏi.

Tôi nhớ ra điều gì đó cha tôi đã kể cho tôi nhiều năm trước đây, và da đầu tôi nhói lên.

“Sadie, các tàn tích đó ở ngay bên dưới chúng ta.” Tôi nhìn Zia. “Đúng không?”

Cô ta gật đầu. “Thành phố cổ đã bị cướp phá cách đây nhiều thế kỷ. Một vài đài tưởng niệm của nó đã bị mang đi, như hai cột tháp Cleopatra. Phần lớn các đền thờ của nó đã bị tàn phá để xây nên các công trình mới. Những gì còn sót lại đã biến mất bên dưới ngoại ô của Cairo. Phần lớn nhất nằm bên dưới sân bay này.”

“Và điều đó giúp gì được cho chúng ta?” Sadie hỏi.

Zia đá mở một cánh cửa bảo trì. Ở phía bên kia là một tủ chìm cất chổi. Zia lầm bầm một câu mệnh lệnh – “Sahad” - thế là hình ảnh của cái tủ chìm sáng lấp lóe rồi biến mất, để lộ các bậc đá dẫn xuống bên dưới.

“Vì không phải tất cả thành phố Heliopolis đều là tàn tích,” Zia nói. “Đi theo sát vào. Và không được chạm vào bất cứ thứ gì.”

Cầu thang ắt phải dẫn xuống khoảng bảy triệu dặm, vì chúng tôi cứ đi xuống mãi. Lối đi chắc cũng được làm ra dành cho những người thu nhỏ. Chúng tôi phải cúi người và bò phần lớn đoạn đường, mà thậm chí có là thế, thì tôi vẫn va đầu vào trần nhà hàng tá lần. Ánh sáng duy nhất có được là từ quả cầu lửa trong lòng bàn tay Zia, tạo ra các hình bóng nhảy múa khắp các bức tường.

Tôi đã từng ở nhiều nơi như thế này trước đây - các đường hầm bên trong những kim tự tháp, mấy hầm mộ mà cha tôi khai quật - nhưng tôi chưa bao giờ thích chúng. Hàng triệu tấn đá phía trên dường như ép hết không khí ra khỏi phổi tôi.

Cuối cùng chúng tôi cũng đến được đáy. Đường hầm mở rộng ra, và Zia đột ngột ngừng lại. Sau khi mắt dần quen, tôi mới nhìn ra lý do vì sao. Chúng tôi đang ngay mép vực.

Độc một tấm ván gỗ bắt ngang qua miệng vực. Ở rìa bên kia, hai chiến binh bằng đá gra-nít đầu chó rừng đứng ở hai bên cánh cửa, hai ngọn giáo bắt chéo chắn ngang lối vào.

Sadie thở dài. “Làm ơn, đừng có thêm những bức tượng biến thái nữa chứ.”

“Không được nói đùa,” Zia cảnh báo. “Đây là lối vào Khu Vực 1, chi nhánh cổ xưa nhất của Ngôi Nhà Sự Sống, cơ quan đầu não của tất cả các pháp sư. Công việc của ta là mang hai người đến đây an toàn, nhưng ta không thể giúp hai người băng qua bên kia được. Mỗi một pháp sư phải tự mở đường cho mình, và thử thách đó đối với mỗi một ứng viên là hoàn toàn khác biệt.”

Cô ta nhìn Sadie đầy hy vọng, làm tôi bực cả mình. Đầu tiên là nữ thần Bast, giờ là Zia - cả hai người họ đều đối xử với Sadie như thể con bé có một thứ sức mạnh siêu nhiên nào đó. Ý tôi là, được thôi, con bé đã có thể làm nổ tung các cánh cửa thư viện, nhưng sao mọi người lại không nhìn sang tôi khi cần phải giở những chiêu hay ho cơ chứ?

Ngoài ra, tôi vẫn còn khó chịu với Sadie về những lời bình phẩm

nó đưa ra trong bảo tàng ở New York - việc tôi đã có quãng thời gian tuyệt vời như thế nào khi đi khắp thế giới với Cha. Con bé không biết được tôi đã muốn than phiền về các chuyến đi không ngớt nhiều như thế nào, có bao nhiêu ngày tôi đã ước rằng tôi không phải lên máy bay và chỉ là một đứa trẻ bình thường được đến trường và kết bạn mà thôi. Nhưng tôi không thể phàn nàn. Con luôn phải là một người hoàn hảo, Cha đã bảo tôi thế. Và ông không chỉ muốn nói về áo quần mà thôi. Ông muốn đề cập đến thái độ của tôi nữa. Sau sự ra đi của Mẹ, tôi là tất cả những gì ông có. Cha cần tôi phải mạnh mẽ. Phần lớn thời gian, tôi không quan tâm lắm đến chuyện đó. Tôi yêu cha tôi. Nhưng đôi khi, điều đó cũng thật nặng nề.

Sadie không hiểu được điều đó. Nó được sống cuộc sống dễ dàng. Và giờ con bé dường như đang có được tất cả sự chú ý, như thể nó là người đặc biệt. Thật không công bằng.

Thế rồi tôi nghe thấy tiếng Cha vang lên trong đầu: “Sự công bằng nghĩa là mọi người có được thứ họ cần. Và cách duy nhất để có được những gì con cần là tự mình làm cho nó xảy ra.”

Tôi không hiểu cái quái gì đang ám lấy tôi, nhưng tôi đã rút kiếm ra và đi phăm phăm băng qua tấm ván. Việc xảy ra như thể hai chân tôi đang tự hoạt động mà chẳng thèm chờ đợi thông tin lệnh từ não của tôi. Một phần trong tôi nghĩ: Đây đúng là một ý tưởng vô cùng tồi tệ. Nhưng một phần khác trong tôi đáp trả: Không, chúng ta không sợ điều này. Và giọng nói đó nghe không giống tôi cho lắm.

“Anh Carter!” Sadie gào lên.

Tôi vẫn tiếp tục đi. Tôi cố không nhìn xuống khoảng trống không bên dưới, nhưng chỉ mỗi kích thước của con vực không thôi cũng đã khiến tôi choáng váng. Tôi có cảm giác mình như một trong số các con quay trò chơi đang di chuyển, quay tròn và lắc lư khi tôi đi băng qua tấm ván hẹp đó.

Khi tôi đến gần phía bên kia, cánh cửa giữa hai bức tượng bắt đầu phát sáng, như một tấm màn ánh sáng đỏ.

Tôi hít sâu. Có lẽ ánh sáng ấy là một lối vào, như cánh cổng cát vậy. Nếu tôi lao thật nhanh qua đó…

Rồi một con dao găm đầu tiên được bắn khỏi phía đường hầm.

Cây kiếm của tôi hành động trước khi tôi kịp nhận ra. Con dao ắt đã găm vào ngực tôi, nhưng bằng cách nào đó tôi đã dùng lưỡi kiếm gạt con dao đi và đánh nó bay thẳng xuống vực sâu. Hai con dao găm khác bắn ra từ đường hầm. Tôi chưa bao giờ là người phản xạ nhanh, nhưng giờ phản xạ của tôi đã gia tăng. Tôi thụp xuống tránh một con dao găm và móc con dao còn lại bằng cái lưỡi kiếm cong, xoay con dao găm lại và phóng nó trở lại về phía đường hầm. Thế quái nào mà tôi lại làm được như vậy nhỉ?

Tôi tiến về phía cuối của tấm ván và chém ngang ánh sáng màu đỏ, màn ánh sáng chấp chới rồi tắt hẳn. Tôi chờ các bức tượng sống lại, nhưng không có gì xảy ra. Âm thanh duy nhất là tiếng dao găm va loảng xoảng vào các tảng đá ở vực sâu xa xa bên dưới.

Cánh cửa bắt đầu phát sáng lần nữa. Ánh sáng đỏ kết hợp lại thành một hình dáng kỳ lạ: một con chim cao một mét rưỡi với một cái đầu người. Tôi nâng kiếm lên, nhưng Zia hét lớn, “Carter, không!”

Sinh vật mình chim đó gập cánh lại. Đôi mắt ông ta, được kẻ phấn côn, nheo lại khi chăm chú nhìn tôi. Một bộ tóc giả điểm trang sáng lóng lánh trên đầu ông ta, và khuôn mặt chẳng chịt nếp nhăn. Một trong những bộ râu giả được tết lại của pharaoh được dán vào cằm ông ta như kiểu tóc đuôi gà cột phía sau. ông ta trông không có thái độ thù địch, ngoài trừ ánh sáng đỏ cứ nhấp nháy bao lấy cơ thể ông ta, và sự thật rằng từ cổ trở xuống ông ta là một con gà tây sát thủ to nhất thế giới.

Rồi một ý nghĩ ớn lạnh nảy ra trong tôi: Đây là một con chim với đầu người, cùng hình dáng mà tôi đã tưởng tượng mình khoác vào khi tôi ngủ trong nhà chú Amos, khi linh hồn tôi rời khỏi cơ thể mà bay đến Phoenix. Tôi không biết điều đó có nghĩa là gì, nhưng nó làm tôi sợ.

Con chim cào cào lên sàn đá. Rồi, bất ngờ, ông ta mỉm cười.

“Pari, niswa nafeer,” ông ta nói với tôi, hay ít nhất đó là những gì tôi nghe được.

Zia há hốc miệng. Cô ta và Sadie hiện đang đứng sau lưng tôi, khuôn mặt họ xanh mét. Chắc họ đã xoay sở băng qua miệng vực khi tôi không để ý.

Cuối cùng Zia dường như đã định thần lại. Cô ta cúi đầu với con chim. Sadie làm theo cô ta.

Sinh vật đó nháy mắt với tôi, như thể chúng tôi vừa mới chia sẻ cho nhau một câu chuyện cười. Rồi ông ta biến mất. Ánh sáng đỏ tắt dần. Các bức tượng co tay lại, kéo giáo về khỏi lối vào.

“Vậy thôi á?” tôi hỏi. “Con gà tây đó nói gì thế?”

Zia nhìn tôi với một chút gì đó như là sợ hãi. “Đó không phải là một con gà tây, Carter. Đó là một ba[12].”

Trước đây tôi đã nghe cha tôi dùng từ đó, nhưng tôi không thể nhớ ra được. “Một con quái vật khác à?”

“Là linh hồn một con người,” Zia nói. “Trong trường hợp này, là linh hồn của một người chết. Một pháp sư từ thời xa xưa, quay trở lại để phục vụ như một người bảo vệ. Họ canh giữ các lối vào của Ngôi Nhà.”

Cô ta chăm chú nhìn mặt tôi như thể trên đó vừa xuất hiện một vài cái mụn xấu xí ấy.

“Gì?” tôi gặng hỏi. “Sao cô lại nhìn tôi kiểu đó?”

“Không có gì,” cô ta đáp. “Chúng ta phải nhanh chân lên.”

Cô ta nép người lách qua tôi ngay ngưỡng cửa rồi biến mất trong đường hầm.

Sadie cũng đang chăm chú nhìn tôi.

“Được rồi,” tôi nói. “Cái gã chim đó đã nói gì? Em có hiểu không?”

Con bé lo lắng gật đầu. “Ông ta đã nhầm anh với ai đó. Chắc là thị lực của ông ta không được tốt cho lắm.”

“Vì sao?”

“Vì ông ta đã nói, ‘Xin cứ tiến tới, hỡi đức vua nhân từ’.”

Tôi ở trong trạng thái lâng lâng sau khi nghe điều đó. Chúng tôi đi xuyên qua đường hầm và đi vào một thành phố bên dưới lòng đất rộng mênh mông đầy những sảnh hành lang cùng phòng ốc, nhưng tôi chỉ nhớ được đôi ba thứ gì đó thôi.

Trần nhà cao từ sáu đến chín mét, vì thế chúng tôi không có cảm giác là mình đang ở bên dưới lòng đất. Mỗi một căn phòng được viền quanh bằng các cột đá lớn y hệt những cái tôi đã nhìn thấy ở các

tàn tích khác của người Ai Cập, nhưng những cái này ở tình trạng nguyên vẹn, được sơn sặc sỡ giả làm các cây cọ, với những lá dương xỉ màu xanh lục được chạm khắc phía trên đỉnh, vì thế tôi có cảm giác như tôi đang đi xuyên qua một khu rừng hóa đá. Lửa cháy bập bùng trong các lò than bằng đồng. Chúng dường như không tạo ra chút khói nào, nhưng không khí đượm hương nồng quyện, như một khu chợ chuyên bán đồ gia vị - mùi quế, đinh hương, nhục đậu khấu, và những mùi khác mà tôi không thể nhận ra. Thành phố có mùi như mùi tỏa ra từ người Zia. Tôi nhận ra đây là nhà của cô ta.

Chúng tôi nhìn thấy một vài người khác - phần lớn là những người đàn ông và đàn bà lớn tuổi. Một vài người mặc những chiếc áo choàng bằng vải lanh, một vài người mặc áo quần hiện đại. Một người đàn ông mặc bộ vét dẫn con báo đen buộc dây đi ngang qua chúng tôi, như thể chuyện này là hoàn toàn là bình thường. Một người đàn ông khác quát lên những câu mệnh lệnh cho một đám chổi, giẻ lau sàn, và xô nước nhỏ đang chạy nhốn nháo khắp nơi, lau dọn cả thành phố.

“Giống cái phim hoạt hình đó ấy,” Sadie nói. “Khi Chuột Mickey cố thử làm phép ấy và những cái chổi vẫn cứ tách ra và khuân nước.”

“Người Học Việc của Thầy Phù Thủy,” Zia nói. “Cô biết là chuyện đó được dựa theo một câu chuyện của người Ai Cập, phải không nào?”

Sadie chỉ trố mắt nhìn lại. Tôi biết cảm giác của con bé là gì. Quá nhiều thông tin cần xử lý.

Chúng tôi đi xuyên qua một hành lang với các bức tượng đầu chó, và tôi có thể thề rằng đôi mắt chúng nhìn theo bọn tôi khi bọn tôi đi ngang qua. Một vài phút sau, Zia dẫn chúng tôi đi băng qua một khu chợ trời - nếu bạn có thể gọi bất cứ thứ gì ở bên dưới mặt đất là “trời” - với hàng tá quầy hàng đang bán các vật dụng kỳ lạ như các cây đũa phép hình bu-mơ-răng, các con búp bê đất sét biết cử động, các con vẹt, rắn hổ mang, các cuộn giấy cói, và hàng trăm thứ bùa hộ mạng lấp la lấp lánh.

Kế đến chúng tôi đi băng qua một con đường rải đá phía trên một con sông đen ngòm lúc nhúc những cá. Tôi nghĩ chúng là cá rô cho đến khi tôi nhìn thấy những cái răng ghê sợ của chúng.

“Đó là những con cá ăn thịt người piranha sao?” tôi hỏi.

“Cá hổ từ sông Nile,” Zia đáp. “Giống cá ăn thịt người piranha, trừ việc những con này có trọng lượng lên đến bảy ký.”

Tôi bước đi cẩn thận hơn sau khi nghe thấy điều đó.

Chúng tôi quành qua một góc phố và đi ngang qua một ngôi nhà trang hoàng lộng lẫy được chạm ra từ khối đá đen. Hình ảnh các pharaoh đang ngồi được khắc vào bên trong các bức tường, và cánh cửa có hình dáng như một con rắn cuộn người lại.

“Trong đó là gì thế?” Sadie hỏi.

Chúng tôi liếc nhìn vào bên trong và nhìn thấy các trẻ em ngồi thành các hàng - có lẽ hai mươi bốn người tất cả, khoảng từ sáu đến mười tuổi - đang ngồi bắt chéo chân trên các tấm đệm. Chúng đang gập người phía trên những cái bát bằng đồng, nhìn chăm chú vào một loại chất lỏng nào đó mà thì thầm. Lúc đầu tôi nghĩ đó là một lớp học, nhưng chẳng có bóng dáng của một giáo viên nào, và căn phòng chỉ được thắp sáng bởi một vài ngọn nến. Căn cứ vào số chỗ ngồi còn trống, căn phòng này có thể chứa được gấp hai lần số trẻ hiện có.

“Các thành viên vỡ lòng của chúng tôi” Zia nói, “đang học về bói cầu. Khu Vực 1 phải giữ liên lạc với các anh em bạn hữu trên toàn thế giới. Chúng tôi sử dụng những người nhỏ tuối nhất của chúng tôi như… các người trực tổng đài, tôi cho là hai người sẽ nói thế.”

“Vậy cô có các căn cứ như thế này khắp nơi trên thế giới sao?”

“Phần lớn đều nhỏ hơn, nhưng đúng là thế thật.”

Tôi nhớ những gì mà chú Amos đã kể cho chúng tôi nghe về các Khu Vực. “Ai Cập là Khu Vực 1. New York là 21. Thế còn Khu Vực cuối cùng là gì, số 360 ấy?”

“Đó sẽ là vùng Nam Cực,” Zia nói. “Đó là nơi thực thi trừng phạt. Không có gì ở đó ngoài hai người pháp sư lạnh và một vài con chim cánh cụt biết phép thuật.”

“Các con chim cánh cụt biết phép thuật ư?”

“Đừng hỏi.”

Sadie chỉ về những đứa trẻ bên trong. “Việc này hoạt động như thế nào? Chúng nhìn thấy các hình ảnh trong nước sao?”

“Đó là dầu,” Zia nói. “Nhưng đúng thế.”

“Quá ít nhỉ,” Sadie nói. “Đây là các thành viên vỡ lòng duy nhất trong cả thành phố này sao?”

“Trên toàn thế giới,” Zia sửa lại. “Trước đây đông hơn nhiều…” cô ta ngừng lại.

“Trước khi gì?” tôi hỏi.

“Không có gì,” Zia buồn rầu nói. “Các thành viên vỡ lòng thực hiện việc bói cầu vì tâm trí của trẻ con là dễ tiếp thu nhất. Các pháp sư bắt đầu việc đào tạo không dưới sau mười tuổi… với vài trường hợp ngoại lệ nguy hiểm.”

“Ý cô là chúng tôi,” tôi nói.

Cô ta liếc nhìn tôi với vẻ mặt bất an, và tôi biết cô ta vẫn đang còn nghĩ về những gì mà linh hồn con chim đó đã gọi tôi: đức vua nhân từ. Có vẻ như quá hư ảo, như việc tên gia đình tôi có mặt trong cuộn văn tự Dòng Dõi của Các Pharaoh vậy. Sao tôi có thể dính dáng đến mấy ông vua cổ xưa nào đó chứ? Và thậm chí nếu là có đi nữa, thì tôi chắc chắn không phải là một vị vua. Tôi không có vương quốc. Tôi thậm chí cũng chẳng còn có lấy một cái va-li nữa là.

“Họ đang đợi hai người,” Zia nói. “Đi nào.”

Chúng tôi đã cuốc bộ khá xa rồi, hai chân tôi bắt đầu đau nhức.

Cuối cùng chúng tôi đi đến một giao lộ. Ở phía bên tay phải là một dãy các cánh cửa bằng đồng lớn hai bên có lửa cháy phừng phực; ở bên trái, một bức tượng nhân sư cao sáu mét được khắc vào tường. Một lối vào cửa nép mình vào giữa hai chân nhân sư, nhưng lối vào ấy đã bị xây gạch bít lại và phủ đầy mạng nhện.

“Trông giống con Nhân Sư ở Giza,” tôi nói.

“Đó là vì chúng ta hoàn toàn đang ở bên dưới một con Nhân Sư thực thụ,” Zia nói. “Đường hầm đó dẫn thẳng chúng ta đến chỗ nó. Hay là đã từng như thế, trước khi đường hầm bị niêm phong.”

“Nhưng…” tôi đã làm một vài phép tính nhanh trong đầu. “Con Nhân Sư đó hình như ở cách sân bay Cairo ba mươi hai kilomet cơ mà.”

“Đại để thế.”

“Chúng ta đã không thể nào cuốc bộ xa đến thế được.”

Zia nhoẻn cười tươi, làm tôi không thể không để ý thấy đôi mắt cô ta đẹp như thế nào.

“Khoảng cách thay đổi ở các nơi có phép thuật, Carter à. Chắc chắn giờ cậu cũng đã học được điều đó rồi chứ.”

Sadie hắng giọng. “Vậy sao đường hầm lại bị đóng?”

“Con Nhân Sư quá nổi tiếng với các nhà khảo cổ,” Zia nói. “Họ cứ đào quanh nó mãi. Cuối cùng, vào những năm 80, họ đã khám phá ra phần đầu tiên của đường hầm bên dưới con Nhân Sư.”

“Cha đã kể cho tôi nghe về điều đó!” tôi nói. “Nhưng ông nói đường hầm là một ngõ cụt.”

“Đó là khi chúng tôi quyết định lấp nó lại. Chúng tôi không thể để các nhà khảo cổ biết được họ đã bỏ sót nhiều như thế nào. Một nhà khảo cổ hàng đầu Ai Cập vừa mới nghiên cứu rằng họ chỉ mới khám phá được ba mươi phần trăm các tàn tích cổ xưa ở Ai Cập. Sự thật thì, họ chỉ mới khám phá được một phần mười, và thậm chí còn không phải là một phần mười thú vị gì cả.”

“Thế còn lăng mộ của Vua Tut thì sao?” tôi phản đối.

“Thằng nhóc vua đó sao?” Zia đảo tròn mát. “Chán òm. Cậu phải nên xem qua một vài lăng mộ hay ho ấy.”

Tôi cảm thấy hơi bị tổn thương. Cha đặt tên tôi theo tên của Howard Carter, người đã phát hiện ra lăng mộ của Vua Tut, vì thế tôi luôn có cảm giác gắn kết với nó. Nếu nó chẳng phải là một lăng mộ “hay ho”, tôi thắc mắc chẳng biết cái nào mới là hay ho đây.

Zia quay người đối diện với những cánh cửa bằng đồng.

“Đây là Hành Lang Thời Đại.” Cô ta áp lòng bàn tay mình lên một cái ấn, mang dấu hiệu của Ngôi Nhà Sự Sống.

Những chữ tượng hình bắt đầu phát sáng, và các cánh cửa bật mở.

Zia quay về phía chúng tôi, nét mặt cực kỳ nghiêm túc. “Hai người các ngươi sắp gặp Pháp sư trưởng. Lịch sự lễ phép vào, trừ phi các ngươi muốn biến thành côn trùng.”