Chương 14 - Một Gã Người Pháp Suýt Giết Chúng Tôi.
Một vài ngày gần đây tôi đã nhìn thấy khá nhiều sự việc điên khùng, nhưng Hành Lang Thời Đại này mới là đỉnh điểm.
Hai dãy cột đá chống đỡ trần nhà lên cao vút, bạn có thể đậu một quả kinh khí cầu nhỏ bên dưới nó mà chẳng gặp chút rắc rối nào. Một tấm thảm xanh sáng lấp lánh trông giống nước chảy xuống giữa sảnh, tấm thảm dài thượt, đến nỗi tôi không thể nhìn thấy đầu kia của nó dù trong này được thắp sáng trưng. Các quả cầu lửa bay lơ lửng như những quả bóng rổ khí hê-li, thay đổi màu mỗi khi chúng chạm vào nhau. Hàng triệu dấu hiệu bằng chữ tượng hình nhỏ bé cũng trôi lềnh bềnh trong không trung, ngẫu nhiêu kết hợp thành các từ và rồi tách ra khỏi nhau.
Tôi tóm lấy một cặp chân màu đỏ phát sáng.
Chúng đi qua giữa lòng bàn tay tôi trước khi nhảy xuống và biến mất.
Nhưng điều kỳ quái nhất chính là các vật trưng bày.
Tôi không biết phải dùng tên gọi nào khác để gọi chúng. Giữa các cây cột ở hai bên chúng tôi, các hình ảnh biến chuyển, hiện rõ ra và rồi lại mờ đi như các hình không gian ba chiều trong một cơn bão cát.
“Đi thôi,” Zia nói với chúng tôi. “Và đừng có tốn nhiều thời gian cho việc nhìn ngắm nhé.”
Điều đó thật không thể. Chừng sáu mét đầu tiên, các hình ảnh phép thuật phát ra ánh sáng vàng kim khắp lối đi. Một mặt trời rực rỡ ló lên phía trên mặt đại dương. Một ngọn núi trồi ra khỏi mặt nước, và tôi có cảm giác rằng mình đang nhìn thấy thuở khai sơ của thế giới. Những người khổng lồ sải bước băng qua thung lũng sông Nile: một người đàn ông với nước da đen và đầu của một con chó rừng, một con sư tử cái với hàm răng đầy máu, một người phụ nữ xinh đẹp với đôi cánh ánh sáng.
Sadie bước khỏi tấm thảm. Rơi vào tình trạng bị thôi miên, con bé vươn tay chạm vào các hình ảnh.
“Ở yên trong tấm thảm!” Zia tóm lấy tay Sadie và kéo con bé quay lại giữa tấm thảm. “Cô đang nhìn Kỷ Nguyên của Các Vị Thần. Không một người phàm nào có thể nhìn chăm chú vào các hình ảnh đó trong một thời gian dài.”
“Nhưng…” Sadie chớp chớp mắt. “Chúng chỉ là những bức ảnh, không phải sao?”
“Là các ký ức,” Zia trả lời, “mạnh đến nỗi có thể hủy diệt đầu óc cô đấy.”
“Ồ,” Sadie nhỏ giọng nói.
Chúng tôi đi tiếp. Các hình ảnh biến thành màu bạc. Tôi nhìn thấy các đội quân đang giáp chiến - những người Ai Cập trong những chiếc váy dài và xăng-đan cùng áo giáp da, đang chiến đấu bằng những ngọn giáo. Một người đàn ông cao to, da sậm màu trong bộ áo giáp màu đỏ trắng đội hai cái vương miện trên đầu: Narmer, vị vua đã thống nhất Thượng và Hạ Ai Cập. Sadie đã đúng: ông ta trông hơi giống Cha.
“Đó là Thời kỳ cổ Đại,” tôi đoán. “Thời kỳ vô cùng quan trọng đầu tiên trong lịch sử Ai Cập.”
Zia gật đầu. Khi chúng tôi đi về phía cuối hành lang, chúng tôi nhìn thấy các công nhân đang xây các bước đầu tiên của kim tự tháp từ các tảng đá. Đi thêm vài bước, và kim tự tháp lớn nhất trong tất cả các kim tự tháp mọc lên từ vùng đất sa mạc ở Giza. Bề mặt đá vô trắng mịn màng bên ngoài của nó sáng lóng lánh dưới ánh mặt trời. Mười ngàn công nhân tập trung lại bên dưới chân kim tự tháp và quỳ trước một pharaoh, người đang đưa hai tay mình về phía mặt trời, dâng hiến lăng mộ đầu tiên của chính ông ta.
“Khufu,” tôi nói.
“Con khỉ đầu chó ư?” Sadie hỏi, đột nhiên thấy hứng thú.
“Không, vị pharaoh đã xây nên Kim Tự Tháp Vĩ Đại,” tôi nói. “Đó là kiến trúc cao nhất trên thế giới trong gần bốn ngàn năm.”
Một vài bước nữa, các hình ảnh biến từ bạc sang đồng.
“Thời kỳ Trung cổ,” Zia thông báo. “Khoảng thời gian máu lửa, hỗn loạn. Ấy vậy mà đây là lúc Ngôi Nhà Sự sống trưởng thành chín muồi.”
Các cảnh chuyển đổi gấp gáp hơn. Chúng tôi nhìn các đội quân chiến đấu, các đền thờ được xây dựng, các con thuyền trôi trên sông Nile, và các pháp sư đang ném những ngọn lửa. Mỗi một bước sẽ là hàng trăm năm, thế nhưng hành lang vẫn cứ kéo dài mãi. Lần đầu tiên tôi hiểu được đất nước Ai Cập xưa cổ đến thế nào.
Chúng tôi băng qua một ngưỡng cửa khác, và ánh sáng biến thành màu đồng.
“Thời kỳ Tân cổ,” tôi đoán. “Lần cuối cùng Ai Cập được cai trị bởi những người Ai Cập.”
Zia không nói gì, nhưng tôi nhìn thấy các hình ảnh mà Cha đã kể cho tôi nghe đang vụt qua: Hatshepsut, vị nữ vương pharaoh vĩ đại, đã mang râu giả và thống trị Ai Cập như một người đàn ông; Ramesses Đệ Nhất, dẫn đoàn chiến xa vào trong trận chiến.
Tôi nhìn thấy các pháp sư đấu tay đôi trong một cung điện. Một người đàn ông trong chiếc áo choàng rách nát, một bộ râu đen bờm xờm và đôi mắt điên dại, ném cây gậy của mình xuống, và nó biến thành một con rắn rồi ăn ngấu nghiến mười hai con rắn khác.
Tôi cảm thấy cổ mình như nghẹn lại. “Đó là…”
“Musa,” Zia nói. “Hay Moshe, như người của ông ta đã gọi ông ta như thế. Các ngươi gọi ông là Moses. Người nước ngoài duy nhất đánh bại Ngôi Nhà trong một trận đấu phép thuật tay đôi.”
Tôi trố mắt nhìn cô ta. “Cô đang nói giỡn, đúng không?”
“Chúng tôi sẽ không nói đùa về những chuyện như thế.”
Các quang cảnh lại biến đổi một lần nữa. Tôi nhìn thấy một người đàn ông đang đứng chồm người lên trên một cái bàn đầy các bức tượng chiến đấu be bé: những chiếc thuyền đồ chơi, binh lính và chiến xa bằng gỗ. Người đàn ông đó ăn vận như một pharaoh, nhưng khuôn mặt ông ta trông quen thuộc một cách kỳ lạ. ông ta ngước nhìn lên và dường như mỉm cười với tôi. Rùng mình ớn lạnh, tôi nhận ra ông ta có khuôn mặt giống hệt ba, linh hồn có khuôn mặt chim, người đã thách đấu với tôi ở cây cầu.
“Đó là ai thế?” tôi hỏi.
“Nectanebo II,” Zia đáp. “Vị vua người gốc Ai Cập cuối cùng, và vị pharaoh phù thủy cuối cùng, ông ấy có thể dịch chuyển toàn bộ quân đội, sáng tạo hay phá hủy các chiến hạm bằng cách dịch chuyển các con cờ trên bàn cờ của ông ấy, nhưng cuối cùng, như thế vẫn chưa đủ.”
Chúng tôi bước qua một lằn ranh khác và các hình ảnh tỏa ra ánh sáng màu xanh mờ mờ. “Đây là thời gian thuộc Vương triều Ptolemies,” Zia kể. “Alexander Đại Đế đã chiếm đóng toàn bộ thế giới được biết đến lúc đó, bao gồm cả Ai Cập. Ông ta đã phong tướng Ptolemy của ông ta làm pharaoh mới, đặt nền móng cho một dòng dõi của các vua Hy Lạp cai trị Ai Cập.”
Phần hành lang thời kỳ Ptolemies ngắn hơn, và dường như buồn bã so với các phần còn lại. Các đền thờ cũng nhỏ hơn. Các vị vua và nữ hoàng trông thẫn thờ, hay lờ đờ, hay đơn giản là thê thảm, ở thời kỳ này chẳng có lấy một cuộc chiến lớn nào… ngoại trừ khúc gần cuối. Tôi nhìn thấy quân đội La Mã hành quân vào thành phố Alexandria. Tôi nhìn thấy một người phụ nữ với mái tóc đen vận chiếc váy trắng đã thả một con rắn vào áo choàng của cô ta.
“Cleopatra,” Zia nói, “nữ hoàng thứ bảy của dòng họ Ptolemy. Bà ta cố chống lại sức mạnh của Rome, và đã thua. Khi bà ta kết liễu đời mình, dòng họ cuối cùng của pharaoh cũng kết thúc. Ai Cập, quốc gia vĩ đại, bị lụi tàn. Ngôn ngữ của chúng tôi bị quên lãng. Các nghi lễ cổ xưa bị vùi lấp. Ngôi Nhà Sự sống sống sót, nhưng chúng tôi bị buộc phải ẩn nấp.”
Chúng tôi đi vào một khu vực ánh sáng đỏ, và lịch sử bắt đầu trông quen thuộc. Tôi nhìn thấy các đội quân người A-rập cưỡi ngựa tiến vào Ai Cập, rồi người Thổ Nhĩ Kỳ. Napoleon hành quân bên dưới bóng của các kim tự tháp. Người Anh đến và xây dựng kênh đào Suez. Dần dần Cairo trở thành một thành phố hiện đại. Và các tàn tích cổ xưa lùi dần lùi dần xuống sâu hơn sâu hơn nữa bên dưới lớp cát sa mạc.
“Mỗi năm,” Zia nói, “Hành Lang Thời Đại kéo dài hơn để chứa đựng lịch sử của chúng ta. Cho đến hiện tại.”
Tôi quá choáng váng nên thậm chí không nhận ra chúng tôi đã đến cuối hành lang cho đến khi Sadie tóm lấy cánh tay tôi.
Phía trước chúng tôi là một cái bệ và trên đó là một cái ngai trống, một cái ghế gỗ mạ vàng với một cái néo và một cái gậy của người chăn cừu được khắc ở phía sau lưng ghế - các biểu tượng cổ xưa của một pharaoh.
Ngồi trên trên bậc thềm bên dưới cái ngai là một người đàn ông già nhất mà tôi từng nhìn thấy. Da ông ấy giống như giấy của một cái túi đựng đồ ăn trưa - nâu, mỏng, và nhăn nheo. Một chiếc áo choàng bằng vải lanh trắng quàng lỏng lẻo trên thân hình nhỏ bé. Một tấm da báo đắp quanh vai, và đôi tay run rẩy đang giữ một cây gậy bằng gỗ lớn, mà tôi chắc là ông ấy sẽ đánh rơi bất cứ lúc nào. Nhưng điều kỳ lạ nhất là, các chữ tượng hình phát sáng trong không khí dường như xuất phát từ người ông ấy. Các biểu tượng đầy màu sắc xuất hiện quanh ông ấy và bay đi như thể ông ấy là một kiểu máy bán bong bóng phép thuật nào đó.
Thoạt tiên tôi không chắc rằng liệu ông ấy có còn đang sống không. Đôi mắt trắng đục nhìn trân trối vào khoảng không. Rồi ông ấy chú mục vào tôi, khiến một luồng điện chạy rần rật khắp người tôi.
Ông ấy không chỉ đang nhìn tôi thôi đâu. Ông ấy đang quét khắp người tôi - đang đọc lấy toàn bộ con người tôi.
Nấp đi, có thứ gì đó bên trong người tôi lên tiếng.
Tôi không biết giọng nói phát ra từ đâu, nhưng dạ dày tôi co thắt. Toàn bộ cơ thể tôi cứng lại như thể tôi đang gồng mình đón nhận một cú đánh, và cảm giác điện giật giảm bớt đi.
Ông lão nhướn mày như thể tôi khiến ông ấy ngạc nhiên, ông ấy liếc nhìn phía sau lưng mình và nói gì đó bằng thứ ngôn ngữ mà tôi không nhận ra.
Một người đàn ông thứ hai bước ra từ bóng tối. Tôi muốn hét lên. Ông ta là người đã ở cùng với Zia trong Bảo tàng Anh - người vận áo choàng màu kem và bộ râu chĩa.
Người đàn ông có râu liếc nhìn Sadie và tôi.
“Ta là Desjardins,” ông ta nói với âm giọng của người Pháp. “Thầy của ta, Pháp sư trưởng Iskandar, chào mừng các ngươi đến với Ngôi Nhà Sự Sống.”
Tôi không thể nghĩ ra được điều gì để nói, vì thế là tôi bèn hỏi một câu vô cùng ngớ ngẩn, “Ông ấy thật già. Sao ông ấy không ngồi lên cái ngai?”
Hai lỗ mũi của Desjardins phình ra, nhưng ông lão kia, Iskandar ấy, chỉ tặc lưỡi, và nói gì đó bằng thứ ngôn ngữ khác.
Desjardins miễn cưỡng dịch ra: “Thầy ta nói cám ơn vì lời nhận xét của cậu; sự thật thì ông ấy vô cùng lớn tuổi. Nhưng cái ngai là dành cho pharaoh. Nó được để trống kể từ khi Ai Cập bị rơi vào tay La Mã. Nó là… comment dit-on?[13] Mang tính biểu tượng. Nhiệm vụ của một Pháp sư trưởng là phục vụ và bảo vệ pharaoh. Vì thế ông ấy ngồi dưới chân cái ngai.”
Tôi hơi lo lắng nhìn Iskandar. Tôi tự hỏi ông ấy đã ngồi trên cái bậc đó đã bao năm rồi. “Nếu ông… nếu ông ấy có thể hiểu tiếng Anh… vậy ngôn ngữ ông ấy đang nói là gì thế ạ?”
Desjardins khịt khịt. “Pháp sư trưởng biết nhiều thứ lắm. Nhưng ông ấy thích được nói tiếng Hy Lạp của người Alexandria hơn. Đó là ngôn ngữ mà ông ấy được sinh ra.”
Sadie hắng giọng. “Xin lỗi, ngôn ngữ ông ấy được sinh ra à? Chẳng phải Alexander Đại Đế nằm ở phía khu vực màu xanh dương, cách đây hàng ngàn năm sao? Ông nói như thể Ngài Salamander là…”
“Ngài Iskandar,” Desjardins rít lên. “Phải biết tôn trọng chứ!”
Có điều gì đó vụt lóe lên trong đầu tôi: khi còn ở Brooklyn, chú Amos đã nói về điều luật của các pháp sư chống lại việc triệu hồi các vị thần - một luật được đặt ra vào thời La Mã bởi Pháp sư trưởng… Iskandar. Chắc chắn đó phải là một người khác chứ nhỉ. Có lẽ chúng tôi đang nói đến Iskandar thứ XXVII hay gì đó.
Ông lão nhìn vào mắt tôi. Ông ấy mỉm cười, như thể biết chính xác những gì tôi đang nghĩ, ông ấy nói điều gì đó bằng tiếng Hy Lạp, và Desjardins phiên dịch lại.
“Thầy ta nói rằng đừng sợ hãi. Cậu sẽ không phải chịu trách nhiệm về những tội lỗi của gia tộc cậu trong quá khứ. Chí ít thì không, cho đến khi chúng tôi điều tra cậu kỹ càng hơn nữa.”
“Chà… cảm ơn,” tôi nói.
“Đừng có chế giễu lòng tốt của bọn ta, cậu nhóc,” Desjardins cảnh cáo. “Cha cậu đã vi phạm điều luật quan trọng nhất những hai lần: một lần ở Cleopatra's Needle, khi hắn ta cố triệu hồi các vị thần và mẹ cậu đã chết để giúp đỡ hắn. Rồi một lần nữa ở Bảo tàng Anh, khi cha cậu ngốc đến nỗi sử dụng chính Phiến đá Rosetta. Giờ cả chú của cậu cũng đang mất tích…”
“Ông biết chuyện gì đã xảy ra với chú Amos sao?” Sadie buột miệng hỏi.
Desjardins cau có. “Chưa,” ông ta thừa nhận.
“Ông phải tìm chú ấy chứ!”
Sadie hét lên. “Chẳng phải ông có một vài kiểu phép thuật GPS nào đó hay…”
“Bọn ta đang tìm kiếm,” Desjardins nói. “Nhưng các ngươi không nên lo lắng về Amos. Các ngươi sẽ phải ở lại đây. Các ngươi phải được… huấn luyện.”
Tôi cứ có cảm giác là ông ta sẽ nói từ khác, từ nào đó sẽ chẳng dễ nghe như được huấn luyện đâu.
Iskandar trực tiếp nói với tôi. Giọng ông ấy nghe khá là thân thiện.
“Thầy ta cảnh báo rằng các Ngày Đen Tối sẽ bắt đầu lúc xế chiều của ngày mai,” Desjardins dịch lại cho chúng tôi. “Hai người các ngươi phải được giữ cho an toàn.”
“Nhưng chúng tôi phải tìm kiếm cha mình!” tôi nói. “Các vị thần nguy hiểm đã được thả ra. Chúng tôi đã nhìn thấy Serqet. Và Set!”
Khi nghe những cái tên đó, nét mặt Iskandar đanh lại. ông ấy quay đầu và nói với Desjardins điều gì đó như mệnh lệnh. Desjardins phản đối. Iskandar lặp lại lời tuyên bố của mình.
Desjardins rõ ràng không thích điều đó, nhưng ông ta cúi đầu trước người thầy của mình. Rồi ông ta quay về phía tôi. “Pháp sư trưởng muốn được nghe câu chuyện của cậu.”
Thế là tôi đã kể cho ông ấy nghe, Sadie lại nhảy vào nói tiếp mỗi khi tôi ngừng lại để thở. Chuyện buồn cười là, cả hai chúng tôi đều nói bỏ qua một số điều mà không định trước. Chúng tôi đã không nhắc đến các khả năng phép thuật của Sadie, hay cuộc gặp mặt với ba, người đã gọi tôi là một vị vua. Cứ như là tôi cơ bản không thể nhắc đến những điều đó. Mỗi một khi tôi cố thử làm điều đó, thì giọng nói bên trong đầu tôi thì thầm, Không phải phần đó. Không được nói ra.
Khi tôi kể xong, tôi liếc nhìn về phía Zia. Cô ta không nói gì, nhưng cô ta đang chăm chú nhìn tôi với vẻ mặt băn khoăn.
Iskandar vạch một vòng tròn trên bậc thềm bằng đầu cây gậy của mình. Thêm nhiều chữ tượng hình nữa xuất hiện trong không khí và trôi đi.
Sau vài giây, Desjardins dường như trở nên hết kiên nhẫn, ông ta bước lên trước trừng mắt nhìn chúng tôi. “Các ngươi đang nói dối. Không thể là Set được. Hắn sẽ cần có một vật chủ thật mạnh mới tồn tại trong thế giới này được. Phải rất mạnh đấy.”
“Ông kia, nghe này,” Sadie nói. “Tôi không biết tất cả những chuyện nhảm nhí về các vật chủ này là gì, nhưng tôi đã tận mắt nhìn thấy Set. ông cũng đã có mặt ở Bảo tàng Anh - ông ắt cũng đã nhìn thấy hắn chứ. Và nếu Carter nhìn thấy hắn ở Phoenix, Arizona, thế thì…” Con bé nghi ngờ nhìn tôi. “Thế thì chắc chắn anh ấy không bị điên.”
“Cảm ơn nhiều, em gái,” tôi lẩm bẩm, nhưng Sadie chỉ mới đang bắt đầu.
“Và chuyện về Serqet, ả ta cũng có thật đấy! Một người bạn của chúng tôi, con mèo của tôi, Bast, đã chết khi bảo vệ cho chúng tôi!”
“Vậy,” Desjardins lạnh lùng nói, “các ngươi thừa nhận đã giao thiệp với các thần sao. Điều đó khiến cho việc điều tra của bọn ta dễ dàng hơn nhiều. Bast không phải bạn của các ngươi. Các thần đã gây ra sự sụp đổ của Ai Cập. Việc triệu hồi sức mạnh của họ bị cấm. Các pháp sư đã thề sẽ ngănkhông cho các thần can thiệp vào thế giới của con người. Chúng ta phải sử dụng tất cả sức mạnh của mình để chống lại họ.”
“Bast nói rằng ông bị hoang tưởng,” Sadie nói thêm.
Tay pháp sư siết chặt nắm đấm, và không khí bị xáo động với mùi khí ô-zôn kỳ lạ, như đương trong một cơn giông bão. Tóc tai trên cổ tôi cứ dựng đứng cả lên. Trước khi bất cứ chuyện không hay nào xảy ra, Zia đã bước lên phía trước chúng tôi.
“Thưa Ngài Desjardins,” cô ta cầu xin, “có điều gì đó kỳ lạ đang diễn ra. Khi tôi bẫy nữ thần bọ cạp, ả ta đã gần như tái tạo lại ngay lập tức. Tôi không thể gởi ả ta về Cõi Âm, ngay cả khi đã sử dụng Bảy Sợi Ruy-băng. Tôi chỉ có thể phá vỡ việc chiếm giữ vật chủ của ả ta trong một lúc. Có thể các tin đồn về những vụ trốn thoát khác…”
“Các vụ trốn thoát khác là gì?” tôi hỏi.
Cô ta miễn cưỡng liếc nhìn tôi. “Các thần khác, nhiều người trong số họ, đã được giải thoát vào đêm qua từ các đồ tạo tác trên toàn thế giới. Giống như một chuỗi phản ứng…”
“Zia!” Desjardins gắt. “Thông tin đó không nên được chia sẻ.”
“Nghe này,” tôi nói, “thưa ngài, thưa ông, gì cũng được - nữ thần Bast đã cảnh báo với chúng tôi rằng chuyện này sẽ xảy ra. Cô ấy đã nói rằng Set sẽ thả ra thêm nhiều vị thần nữa.”
“Thưa thầy,” Zia khẩn khoản, “nếu Ma’at đang yếu dần đi, nếu Set đang gia tăng sự hỗn loạn, có lẽ đó là lý do tại sao tôi không thể trục xuất Serqet.”
“Lố bịch,” Desjardins nói. “Cô có kỹ năng đấy, Zia, nhưng có thể kỹ năng của cô chưa đủ cho vụ chạm trán đó. Và còn về hai đứa trẻ này, việc bịa chuyện phải được ngăn lại.”
Khuôn mặt Zia đỏ bừng, cô ta chuyển sang Iskandar, “Thưa Ngài, xin hãy làm ơn. Xin cho tôi một cơ hội với họ.”
“Ngươi đã quên vị trí của mình,” Desjardins khó chịu nói. “Hai đứa này đã phạm tội và phải bị tiêu diệt.”
Cổ họng tôi bắt đầu thít lại. Tôi nhìn Sadie. Nếu chúng tôi buộc phải chạy trốn khỏi cái hành lang dài ngoằng đó, tôi không thích cơ hội mình có cho lắm…
Ông lão cuối cùng cũng ngước nhìn lên. Ông ấy mỉm cười với Zia trìu mến thật lòng. Trong một giây tôi tự hỏi liệu cô ta có phải là chắt chút chít gì đấy của ông ấy hay không, ông ấy nói bằng tiếng Hy Lạp, và Zia cúi đầu thật sâu.
Desjardins trông gần như bùng nổ. Ông ta hất áo choàng ra khỏi chân và đi sầm sập ra phía sau cái ngai.
“Pháp sư trưởng sẽ cho phép Zia kiểm tra các ngươi,” ông ta gầm lên. “Trong khi đó, ta sẽ tìm kiếm sự thật - hay sự dối trá - trong câu chuyện của các ngươi. Các ngươi sẽ bị trừng phạt nếu nói dối.”
Tôi quay sang nhìn Iskandar và bắt chước cúi người như Zia.
Sadie cũng làm y như tôi.
“Cám ơn, thưa ngài,” tôi nói.
Ông lão chăm chú nhìn tôi trong một lúc lâu. Một lần nữa tôi lại có cảm giác như thể ông ấy đang cố thiêu đốt thâm sâu vào linh hồn tôi - không phải theo một cách giận dữ. Giống quan tâm thì hơn. Đoạn ông ấy lẩm bẩm điều gì đó, và tôi hiểu được hai từ: Nectanebo và ba.
Ông ấy mở tay ra và một dòng các chữ tượng hình phát sáng túa ra, ùa đến bao quanh đài. Rồi một tia ánh sáng chói mắt xuất hiện, khi tôi có thể nhìn lại được, cái đài đã trống rỗng. Hai người đàn ông biến mất.
Zia quay về phía chúng tôi, nét mặt ảm đạm. “Ta sẽ chỉ cho hai người nơi của mình. Trong buổi sáng, việc kiểm tra sẽ được bắt đầu. Bọn ta sẽ xem hai người biết kiểu phép thuật nào, và biết rõ đến mức nào.”
Tôi không chắc ý cô ta là gì khi nói điều đó, nhưng tôi liếc nhìn Sadie với vẻ lo lắng.
“Nghe thú vị đấy chứ,” Sadie cả gan lên tiếng. “Và nếu chúng tôi thất bại trong bài kiểm tra đó thì sao?”
Zia lạnh lùng nhìn Sadie. “Đây không phải là kiểu bài kiểm tra thất bại hay là không, Sadie Kane. Các ngươi hoặc là đậu hoặc là chết.”