← Quay lại trang sách

4.Tôi Hỏi Ý Kiến Chim Bồ Câu Chiến Tranh.

TÔI PHẢI LÒNG BỂ NƯỚC CHO CHIM TẮM.

Đa số các bạn thường kiểm tra điện thoại hay xem tin nhắn, hay là cứ bị ám ảnh với những gì đám con gái nói về mình trên mạng. Còn tôi, tôi thì không thể rời xa chậu nước bói.

Chỉ là một chiếc đĩa cạn bằng đồng đặt trên bệ đá, trên ban công bên ngoài phòng ngủ của tôi. Nhưng hễ khi nào có ở trong phòng là tôi cứ thấy mình trộm liếc ra chậu nước ấy, lòng tranh đấu cưỡng lại niềm thôi thúc được phóng ra ngoài kia mà kiểm tra xem có thoáng nhìn thấy được Zia hay không.

Điều kỳ cục là – tôi thậm chí còn không thể gọi Zia là bạn gái của mình. Ta gọi một người là gì ấy nhỉ khi ta phải lòng với pho tượng shabti bản sao của người ấy, rồi khi giải cứu được người thật để rồi phát hiện ra cô ấy không có cùng cảm xúc như mình? Thế mà Sadie lại nghĩ mấy mối quan hệ của nó mới phức tạp cơ đấy.

Sáu tháng qua, từ khi Zia chuyển đi đến giúp cho chú tôi tại Vùng Một, chậu nước kia là kênh liên lạc duy nhất giữa chúng tôi. Tôi đã trải qua lắm giờ đồng hồ nhìn chằm chằm vào chậu nước ấy, trò chuyện với Zia. Tôi chịu không thể nhớ ra cô ấy trông như thế nào mà không có vũng dầu nước được phù phép gợn sóng lăn tăn quanh gương mặt cô ấy.

Chạy lên đến được ban công thì tôi đã hụt cả hơi. Từ bề mặt vũng dầu, Zia nhìn thẳng lên tôi. Hai tay cô đang khoanh lại; hai mắt giận dữ, trông như thể sắp tóe lửa ra. (Chậu nước bói đầu tiên mà Walt tạo ra quả thật đã có tóe lửa, nhưng đấy lại là một chuyện khác.)

“Này Carter,” Zia bảo, “tôi sẽ phải bóp cổ cậu mất.”

Cô nàng trông thật xinh khi đe dọa giết chết tôi. Qua một mùa hè Zia đã để cho tóc mình mọc dài ra chấm đến vai tạo thành sóng tóc đen nhánh óng ả. Cô không phải là pho tượng shabti mà tô đã lần đầu đem lòng yêu mến, nhưng gương mặt cô vẫn mang nét đẹp như tượng tạc – sống mũi thanh tú, đôi môi mọng đỏ, cặp mắt màu hổ phách lấp lánh. Làn da cô sáng bóng như màu đất nung còn ấm mới lấy từ lò nung ra.

“Cô đã nghe chuyện về Dallas chứ gì,” tôi đoán đại. “Zia này, tôi xin lỗi-”

“Carter, mọi người đều đã nghe chuyện về Dallas rồi. Những Vùng khác một giờ qua cứ gửi cho ba của Amos biết bao là tin nhắn, yêu cầu có câu trả lời. Những pháp sư ở mãi xa tít tận Cuba cũng cảm nhận thấy được các rúng động từ Cõi Âm. Vài kẻ còn cho là cậu đã làm nổ tung một nửa bang Texas. Một số người khác thì bảo là toàn Vùng Năm Mươi Mốt đã bị tiêu hủy. Có người nói – có người nói là cậu đã chết nữa cơ đấy.”

Vẻ lo lắng trong giọng nói Zia làm tinh thần tôi phấn chấn lên một tẹo, nhưng cũng làm tôi thấy mình tội lỗi hơn.

“Tôi cũng muốn báo trước cho cô biết lắm. Nhưng đến khi bọn tôi nhận ra mục tiêu của Apophis là Dallas thì bọn tôi phải di chuyển ngay lập tức rồi.”

Tôi kể cho Zia nghe những gì đã xảy ra trong cuộc triển lãm về vua Tut, kể luôn cả những sai lầm và thương vong của bọn tôi.

Tôi cố đọc lấy vẻ mặt của Zia. Dù có đã qua bao nhiêu tháng trời rồi, nhưng việc đoán ra được cô đang nghĩ gì thật khó vô cùng. Chỉ được nhìn thấy cô thôi dường như luôn khiến cho não bộ tôi bị chập mạch. Nửa số thời gian đấy tôi không thể nào nhớ được phải nói năng câu cú cho đàng hoàng là như thế nào nữa.

Rốt cuộc Zia cũng lẩm bẩm điều gì đó bằng tiếng Ả Rập – chắc là chửi rủa gì đó.

“Tôi mừng là cậu sống sót – nhưng Vùng Năm Mươi Mốt bị tiêu diệt ư…?” Cô lắc lắc đầu không tin nổi. “Tôi có biết Anne Grissom. Bà ấy đã dạy cho tôi phép chữa lành khi tôi còn bé.”

Tôi nhớ lại người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp chơi cùng ban nhạc, rồi đến chiếc đàn vi ô lông tan tành bên mép hố bom nổ.

“Họ là những người tốt,” tôi nói.

“Là một số đồng minh cuối cùng của chúng ta đấy,” Zia bảo. “Đám phiến loạn đã đang đổ tội cho cậu về mấy ca thương vong đấy rồi. Nếu còn có thêm vài khu vực rời bỏ Amos thì…”

Cô không cần phải nói hết ra suy nghĩ ấy. Mùa xuân rồi, đám côn đồ xấu xa nhất trong Ngôi Nhà Sự Sống đã lập thành đội tấn công để phá hủy Nhà Brooklyn. Chúng tôi đã đánh thắng bọn chúng.

Amos thậm chí đã ân xá cho bọn chúng khi chú trở thành Đại Pháp Sư tân nhậm. Nhưng một số kẻ từ chối không về phe chú. Đám phiến loạn vẫn còn đang ở ngoài kia – đang thu gom sức mạnh, đang xúi giục những pháp sư khác chống lại chúng tôi. Làm như là chúng tôi cần có thêm nhiều kẻ thù nữa không bằng.

“Chúng đang đổ lỗi cho tôi à?” tôi hỏi. “Chúng đã liên lạc với cô sao?”

“Còn tệ hơn nữa ấy chứ. Chúng đã cho loan truyền tin nhắn đến cậu.”

Mặt vũng dầu lăn tăn gợn sóng. Tôi trông thấy một gương mặt khác – Sarah Jacobi, kẻ cầm đầu đám phiến loạn. Ả có làn da trắng màu sữa, tóc đen tuyền cùng đôi mắt đen muôn đời long lên óng ánh được tô vẽ chì đen quá đậm. Trong chiếc váy trắng bóc, ả ta trông như một con ma cà rồng đêm hội Halloween.

Ả đang đứng trong căn phòng xếp hàng dãy những cây cột bằng đá cẩm thạch. Sau lưng ả ta là chừng nửa tá pháp sư đang quắc mắt trừng trừng – những sát thủ sáng giá của Jacobi. Tôi nhận ra chiếc áo chùng màu xanh biển cùng quả đầu cạo trọc của Kwai, kẻ bị đày ra khỏi Vùng Bắc Hàn vì đã sát hại một pháp sư đồng nghiệp. Đứng cạnh hắn là Petrovich, một tên mặt thẹo người Ukraina từng có thời làm việc như một sát thủ cho Vlad Menshikov, cựu thù của chúng tôi.

Những kẻ khác thì tôi không nhận diện được, nhưng tôi không nghĩ trong đám này có kẻ nào lại xấu xa bằng chính Sarah Jacobi đâu. Cho đến khi được Menshikov thả ra, Sarah từng bị đày đến Nam Cực vì tội đã gây nên cơn sóng thần ngoài Ấn Độ Dương làm chết hơn 250 nghìn người.

“Carter Kane!” Sarah gào lên.

Vì đây là một màn phát hình, tôi biết chỉ là trò thu phát âm bằng pháp thuật, nhưng giọng ả ta vẫn làm tôi nhảy dựng.

“Ngôi Nhà Sự Sống yêu cầu mi phải đầu hàng,” ả nói. “Những tội ác mi gây ra không thể tha thứ được. Mi phải trả giá bằng mạng sống của mi.”

Bụng dạ tôi chưa kịp có thời gian dịu xuống thì một loạt những hình ảnh bạo lực đã nổi thoáng qua trên mặt vũng dầu. Tôi trông thấy Hòn đá Rosetta làm viện Bảo tàng Anh nổ tung – vụ này đã phóng thích Set và khiến Cha tôi mất mạng kỳ Giáng Sinh vừa rồi. Làm sao Jacobi lại có thể nhìn thấu chuyện này nhỉ? Tôi trông thấy cuộc chiến tại Nhà Brooklyn mùa xuân vừa qua, khi tôi và Sadie vừa đến nơi từ chiếc thuyền mặt trời của thần Ra để đánh đuổi đội quân tấn công của Jacobi. Những hình ảnh ả đưa ra khiến chúng tôi trông như những kẻ hiếu chiến – một lũ du côn có quyền năng pháp thuật đang đánh đập dã man Jacobi đáng thương cùng đám bạn hữu.

“Mi đã phóng thích cho Set cùng bè lũ môn đệ,” Jacobi rêu rao. “Mi đã phá vỡ quy luật thiêng liêng nhất của pháp thuật và đã hợp tác với các thần. Vì làm thế, mi đã làm mất cân bằng thế giới Ma’at tôn ti trật tự, gây ra sự khởi dậy của Apophis.”

“Láo toét!” tôi thốt lên. “Apophis ngả nào cũng khởi dậy thôi!”

Thế rồi tôi sực nhớ là mình đang quát vào một cuốn băng video.

Những khung hình nối tiếp nhau. Tôi trông thấy tòa nhà chọc trời đang bừng bừng ngọn lửa trong quận Shibuya ở Tokyo, cơ quan đầu não của Vùng Hai Trăm Ba Mươi Tư. Một con quỷ có cái đầu hình thanh kiếm võ sĩ đạo đang bay đâm sầm qua cửa sổ mang theo một pháp sư đang gào thét.

Tôi trông thấy nhà của Michel Desjardins, vị Đại Pháp Sư cựu nhiệm – một ngôi nhà phố thành Paris trên con đường Rue de Pyramides – giờ đổ nát hoang tàn. Mái nhà sụp xệ. Cửa sổ gãy vỡ. Những cuộn văn tự tả tơi cùng bao cuốn sách ướt sũng nằm la liệt ngoài khu vườn không sức sống, và một chữ tượng hình biểu trưng cho Hỗn Mang được đốt đóng dấu in vào cửa trước như đánh dấu gia súc.

“Mi đã gây ra mọi chuyện này.” Jacobi nói. “Mi đã trao nơi chốn của Đại Pháp Sư cho tên đầy tớ của ác quỷ. Mi đã làm băng hoại các pháp sư trẻ tuổi bằng việc dạy cho chúng con đường của các thần. Mi đã làm suy yếu Ngôi Nhà Sự Sống để mặc bọn ta trong tay Apophis. Bọn ta sẽ không dung thứ cho chuyện này. Bất cứ kẻ nào theo chân mi đều sẽ bị trừng phạt.”

Hình ảnh chuyển sang ngôi nhà Sphinx ở Luân Đôn, đại bản doanh của Vùng Anh. Mùa hè qua tôi cùng Sadie có ghé đến nơi này và đã cố đạt được hòa bình với họ sau hàng giờ đồng hồ thương lượng. Tôi trông thấy Kwai xăm xăm bước qua thư viện, đập phá bao bức tượng các thần và cào xé sách vở khỏi kệ. Một tá các pháp sư người Anh đang bị xích đứng trước Sarah Jacobi, kẻ đã đánh thắng họ, ả đang cầm một con dao màu đen ánh sắc lạnh. Người đứng đầu khu vực, một ông lão vô hại tên là ngài Leicester, bị buộc phải quỳ xuống đất. Sarah Jacobi vung dao lên. Lưỡi dao chém xuống, và khung hình chuyển đi.

Bản mặt ác ma của Jacobi từ mặt vũng dầu nhìn trừng trừng lên tôi. Hai mắt ả tối đen như hai hốc mắt trong sọ người.

“Dòng họ nhà Kane là một cơn đại dịch. Bọn mi phải bị tiêu diệt. Hãy đầu hàng bản thân cùng gia đình mi để đem ra hành quyết đi. Bọn ta sẽ tha mạng cho những kẻ đi theo mi miễn là chúng chịu từ bỏ con đường của các thần. Ta không theo đuổi chức danh Pháp sư trưởng làm gì, nhưng ta phải đảm nhận lấy nó vì lợi ích của Ai Cập. Khi dòng họ nhà Kane chết hết đi, chúng ta sẽ được hùng cường và đoàn kết trở lại. Chúng ta sẽ tháo gỡ bao tổn hại mà bọn mi đã gây ra và tống khứ các thần vùng Apophis về lại Cõi Âm. Công lý rồi sẽ nhanh chóng trở lại thôi, Carter Kane à. Đây là lời cảnh báo duy nhất dành cho mi đấy.”

Hình ảnh Sarah Jacobi tan vào vũng dầu, còn lại tôi một mình với hình ảnh phản chiếu của Zia.

“Phải rồi,” tôi run rẩy nói. “Đối với một tay giết người hàng loạt, mụ ta nghe khá là thuyết phục nhỉ.”

Zia gật gù. “Jacobi đã xúi giục hay đánh bại phần lớn các đồng mình của ta ở châu Âu và châu Á rồi. Khá nhiều các cuộc tấn công gần đây – chống lại Paris, Tokyo hay Madrid – đều là tác phẩm của Jacobi đấy, nhưng mụ ta lại đổ cho Apophis – hay là cho Nhà Brooklyn.”

“Thật nực cười.”

“Cậu và tôi thì biết vậy,” Zia đồng tình. “Nhưng các pháp sư đang lo sợ. Jacobi đang bảo với họ rằng nếu dòng họ nhà Kane bị tiêu diệt thì Apophis sẽ quay về Cõi Âm và mọi chuyện sẽ quay về bình thường. Pháp sư muốn tin vào điều này lắm. Mụ ta đang nói với họ rằng đi theo cậu chỉ là án tử mà thôi. Sau vụ hủy diệt Dallas-”

“Tôi hiểu rồi,” tôi gắt lên.

Tội bực mình với Zia thì thật không công bằng, nhưng tôi cảm thấy thật bất lực. Mọi chuyện chúng tôi làm dường như đều trở nên hỏng bét. Tôi hình dung ra Apophis đang cười ha hả dưới Địa Ngục. Có lẽ đấy là lý do vì sao hắn chưa tập trung toàn lực tấn công vào Ngôi Nhà Sự Sống. Hắn đang vui thú quá đỗi ngồi xem chúng tôi tàn sát lẫn nhau.

“Tại sao Jacobi đã không gửi thẳng lời nhắn đến Amos?” tôi hỏi. “Chú ấy là Đại Pháp Sư cơ mà.

Zia liếc sang chỗ khác như thể kiểm tra điều gì đấy. Tôi không nhìn được rõ lắm cảnh vật chung quanh cô, nhưng hình như Zia không phải là đang ở trong phòng ký túc của mình tại Vùng Một hay là trong Hành Lang Thời Đại. “Như Jacobi có nói, chúng xem Amos như là đầy tớ của quỷ dữ. Bọn chúng sẽ không nói chuyện với ông ấy.”

“Bởi vì chú ấy bị Set ám,” tôi đoán. “Đấy không phải là lỗi của chú ấy. Chú đã được chữa lành. Chú ấy ổn mà.”

Zia cau mày.

“Gì chứ?” tôi hỏi. “Chú Amos khỏe mà, phải không?”

“Carter này, chuyện – chuyện hơi phức tạp. Nghe này, vấn đề chủ yếu là Jacobi cơ. Mụ ta đã tiếp quản căn cứ lúc trước của Menshikov ở St Petersburg. Nơi này giống như một pháo đài kiên cố cỡ như Vùng Một vậy. Chúng ta không biết mụ ấy đang toan tính gì hay là đang có bao nhiêu pháp sư trong tay. Chúng ta không biết mụ ta sẽ tấn công ở đâu vào lúc nào. Nhưng mụ ta sẽ sớm tấn công thôi.”

Công lý rồi sẽ nhanh chóng trở lại. Đây sẽ là lời cảnh báo duy nhất dành cho mi đấy.

Điều gì đấy mách bảo tôi rằng Jacobi sẽ không chóng tấn công lạ Nhà Brooklyn đâu, sau lần trước mụ ta đã bị nhục nhã ê chề như thế. Nhưng nếu mụ ấy muốn chiếm lĩnh lấy Ngôi Nhà Sự Sống và tiêu diệt dòng dõi Kane thì mục tiêu của mụ có thể là gì khác đây chứ?

Tôi dán mắt vào Zia, nhận ra cô đang suy nghĩ những gì.

“Không,” tôi nói. “Chúng sẽ không bao giờ tấn công Vùng Một đâu. Làm vậy chỉ có mà tự sát. Nơi này đã tồn tại cả năm nghìn năm rồi.”

“Carter à… bọn tôi yếu hơn là cậu nghĩ đấy. Bọn tôi chẳng bao giờ có đủ nhân lực. Giờ thì rất nhiều pháp sư giỏi nhất của chúng tôi đã biến mất, có khả năng là đi sang phe kia rồi. Chúng tôi chỉ có lại vài người đàn ông lớn tuổi cùng mấy đứa bé hoảng sợ, cộng thêm Amos và tôi.” Cô dang tay ra bực bội. “Và hết nửa thời gian tôi cứ bị mắc kẹt lại đây-”

“Hượm đã,” tôi kêu lên. “Cô đang ở đâu thế?”

Đâu đó về phía tay trái của Zia, một giọng nam thỏ thẻ, “Xin chàoooo!”

Zia thở dài. “Hay thật. Ông ta vừa thức giấc.”

Một ông lão thò mặt vào chậu nước bói. Ông ta nhe răng cười, phô ra đúng hai cái răng. Mái đầu hói lọi nhăn nheo của ông khiến ông trông như một đứa bé bị lão hóa. “Ngựa vằn đây này!”

Ông ta há mồm muốn hút hết dầu ra khỏi chậu, làm cho toàn cảnh bị lung lay chao đảo.

“Trời ơi, đừng!” Zia kéo ngược ông lão lại. “Ông không được uống dầu phép chứ. Chúng ta sẽ nói chuyện về điều này. Đây, ăn chiếc bánh quy này đi.”

“Bánh quy!” ông lão réo lên. “Wheee!” Ông nhảy nhót bỏ đi mang theo món đồ ăn ngon lành trong tay.

Ông ngoại nghễnh ngãng của Zia đấy ư? Không phải. Đấy là thần Ra, thần mặt trời, là vị pharaoh thiêng liêng đầu tiên của Ai Cập và là kẻ thù không đội trời chung của Apophis. Mùa xuân rồi chúng tôi đã truy lùng vị thần này, đánh thức ông ta khỏi giấc ngủ mê, tin tưởng rằng ông ta sẽ khởi dậy mọi quyền uy khải hoàn của mình mà chiến đấu chống lại con rắn Hỗn Mang cho chúng tôi chứ.

Thay vì thế, thần Ra thức giấc thành một người mất trí nghễnh ngãng. Ông ấy chỉ giỏi việc gặm bánh quy, nhểu dãi và hát hò máy bài ngớ ngẩn mà thôi. Chiến đấu chống lại Apophis ư? Không ích gì cho lắm.

“Cô lại phải trông trẻ nữa à?” tôi hỏi.

Zia nhún vai. “Ở đây là mới qua bình minh. Horus và Isis trông chừng ông ấy hầu như là mọi đêm trên chiếc thuyền mặt trời. Nhưng còn ban ngày thì… à, Ra cáu kỉnh hẳn lên nếu tôi không ghé thăm, còn mấy vị thần còn lại chẳng ai muốn trông chừng ông ta cả. Nói thật nhé, Carter…” Zia hạ giọng. “Tôi rất sợ những chuyện mà các thần có thể gây ra lắm nếu thần Ra bị bỏ mặc một mình với bọn họ. Họ đang càng ngày càng ngấy ông ấy rồi.”

“Wheee!” Ra ngân nga ở đâu đó phía sau.

Tim tôi lại chùng xuống. Lại thêm một điều nữa phải thấy tội lỗi: tôi đã tròng vào cổ Zia cái nghĩa vụ làm vú em cho thần mặt trời. Ban ngày thì kẹt trong điện ngai vàng của các thần, hàng đêm lại phải giúp cho Amos cai quản Vùng Một, Zia dường như chẳng còn thời gian ngủ nghê, thời gian đi hẹn hò lại càng ít ỏi hơn nữa – ngay cả khi tôi có thể có đủ can đảm mà mời cô ấy.

Tất nhiên, việc này cũng không quan trọng gì nữa nếu Apophis hủy diệt thế giới, hay nếu Sarah Jacobi cùng các sát thủ pháp thuật của mụ ta tìm đến tôi. Tôi băn khoăn một chặp liệu Jacobi nói có đúng – liệu thế giới này đã đi trật chìa bởi vì dòng dõi nhà Kane, và liệu không có chúng tôi thì thế giới có tốt đẹp hơn chăng.

Tôi thấy lực bất tòng tâm đến mức trong một thoáng tôi từng nghĩ đến việc triệu gọi quyền năng của Horus. Hẳn tôi có thể sử dụng được tinh thần can đảm lẫn lòng tự tin của vị thần chiến tranh này lắm chứ. Nhưng tôi lại không nghĩ rằng việc hội nhập những suy nghĩ của mình với Horus lại sẽ là ý kiến hay. Các tình cảm trong tôi đã quá đủ lộn xộn rồi không cần đến một giọng nói khác trong đầu tôi, thúc giục tôi tiến thêm trên bờ vực thẳm nữa.

“Tôi biết cái vẻ mặt đấy rồi nhé,” Zia quở. “Cậu không thể tự trách bản thân được, Carter à. Nếu không nhờ có cậu và Sadie, thì Apophis hẳn đã hủy diệt cả thế giới này rồi. Vẫn còn hy vọng mà.”

Kế hoạch B, tôi thầm nghĩ. Trừ phi chúng tôi có thể nghĩ thông điều bí ẩn về các hình bóng và làm cách nào để dùng chúng chống lại Apophis, bằng không thì chúng tôi sẽ kẹt với kế hoạch B, nghĩa là chắc chắn cái chết sẽ đến với tôi và Sadie cho dù là kế hoạch có thành công đi nữa. Nhưng tôi sẽ không nói cho Zia biết chuyện này đâu. Cô ấy không cần biết thêm bất kỳ thông tin đáng lo nào nữa.

“Cô nói phải,” tôi đáp. “Chúng ta sẽ nghĩ ra gì đấy.”

“Tối nay tôi sẽ quay về Vùng Một. Lúc ấy hãy gọi cho tôi nhé? Chúng ta phải nói chuyện về-”

Có gì đấy rùng rùng ầm ầm sau lưng Zia, như là một viên ngói đá đang nghiến qua sàn.

“Sobek đang ở đây,” Zia thì thào. “Tôi ghét gã này. Nói chuyện sau vậy.”

“Chờ đã Zia,” tôi gọi. “Nói chuyện về gì cơ?”

Nhưng mặt vũng dầu đã hóa đen ngòm, Zia đã biến mất.

Tôi cần phải ngủ. Thay vì thế, tôi lại đi đi lại lại quanh phòng.

Những căn phòng ký túc tại Nhà Brooklyn thật hết sẩy – giường êm nệm ấm, TV màn hình chất lượng cao, internet không dây tốc độ cao và các tủ lạnh mini tự trữ thêm đồ ăn một cách kỳ diệu. Cả một quân đoàn những chổi, những giẻ lau cùng cây phủi bụi được phù phép giữ cho mọi thứ được ngăn nắp. Các tủ chìm luôn đầy quần áo sạch, vừa vặn như in.

Tuy vậy, phòng của tôi có cảm giác như cái chuồng. Có lẽ vì bạn cùng phòng của tôi là một con khỉ đột. Khufu không thường ở trong này (thường thì nó hay ở dưới lầu với Cleo hay là để cho đám cạp-mắt-cá chải lông cho mình), nhưng trên giường nó vẫn in dấu thân mình khỉ đột, trên bàn ngủ là hộp Cheerios và một chiếc đu bằng lốp xe được gắn nơi góc phòng. Thứ này được Sadie thiết đặt như một trò đùa, nhưng Khufu lại thích cái đu đến mức tôi không thể tháo nó đi được. Vấn đề là tôi quen với việc có Khufu ở quanh mình rồi. Giờ khi nó bỏ ra nhiều thời gian với bọn nhóc con, tôi lại thấy nhớ nó. Nó dần dà đã trở thành thứ tôi yêu quý thân thuộc một cách dễ mến đến khó chịu, kiểu như là con em gái của tôi vậy.

"Phải rồi Sadie. Em lường trước được chuyện này mà."

Những hình ảnh màn hình chờ trôi dập dìu qua màn hình laptop của tôi. Ảnh Cha tôi tại một khu khai quật ở Ai Cập, trông thư thái và nắm quyền chỉ huy trong bộ quần áo kaki dã chiến, tay áo xắn cao lên hai cánh tay cuồn cuộn rám nắng khi ông giơ lên khoe cái đầu bằng đá bị vỡ của một pho tượng pharaoh nào đó. Mái đầu hói cùng chòm râu của Cha khiến ông trông hơi chút ang ác khi ông cười.

Một bức ảnh khác hình chú Amos đang trình diễn trên sân khấu câu lạc bộ nhạc jazz, đang chơi kèn saxophone. Chú đeo kính tối màu tròn xoe, nón có vành màu xanh cùng bộ vest bằng lụa đồng màu, được cắt may vừa khéo không chê vào đâu được như mọi khi. Mái tóc tết sát đầu của chú được bện với mấy viên ngọc bích. Thật ra tôi chưa khi nào chứng kiến chú Amos trình diễn trên sân khấu, nhưng tôi lại thích bức ảnh này vì chú trông thật tràn đầy sức sống và hạnh phúc – không giống như chú những ngày này, khi gánh nặng lãnh đạo đè nặng trên hai vai. Thật không may làm sao bức ảnh này cũng gợi cho tôi nhớ đến Anne Grissom, nữ pháp sư vùng Texas cùng cây dàn vi ô lông, hồi đầu tối này còn đang vui vẻ là thế trước khi mất mạng.

Màn hình chờ thay đổi. Tôi trông thấy mẹ mình tâng mình trên gối khi tôi còn là đứa bé. Khi đấy tôi có mái tóc xù bông kỳ cục, Sadie thường hay chọc tôi vì mái tóc này. Trong ảnh, tôi đang mặc bộ đồ ngủ dính đầy những vết khoai nghiền. Tôi đang nắm hai ngón tay cái của mẹ, trông vẻ mặt hớt hải khi bà tâng tôi lên xuống, như thể tôi đang nghĩ, Cho con xuống đi! Mẹ tôi xinh đẹp như mọi khi, dù là đang mặc áo phông quần jean đã cũ, tóc được buộc ra sau bằng chiếc khăn rằn. Bà mỉm cười nhìn xuống tôi như thể tôi là điều kỳ diệu nhất của cuộc đời bà.

Nhìn vào bức hình này đau lòng lắm, nhưng tôi vẫn cứ nhìn.

Tôi nhớ đến điều Sadie từng bảo tôi – rằng có thứ gì đấy đang ảnh hưởng đến những linh hồn của người chết, và chúng tôi có thể sẽ không được trông thấy lại mẹ mình trừ khi chúng tôi nghĩ ra được điều gì đó.

Tôi hít một hơi sâu. Cha tôi, chú tôi, mẹ tôi – tất cả đều là những pháp sư đầy quyền năng. Tất cả đều đã hy sinh quá nhiều để khôi phục lại Ngôi Nhà Sự Sống.

Họ đều lớn tuổi hơn, thông thái hơn và mạnh mẽ hơn tôi. Họ đã có được hàng bao thập kỷ để rèn luyện pháp thuật. Sadie và tôi chỉ có chín tháng. Ấy vậy mà chúng tôi cần phải làm được một chuyện mà trước nay chưa một pháp sư nào từng làm được – đánh bại Apophis.

Tôi đi đến tủ quần áo, lôi chiếc vali du hành cũ kỹ của mình xuống. Chỉ là một chiếc hành lý xách tay bằng da màu đen, như hàng triệu những chiếc khác mà bạn hay thấy ngoài sân bay ấy. Hàng bao năm trời tôi đã kéo lê cái vali này quanh thế giới khi tôi du hành cùng Cha tôi. Ông đã huấn luyện cho tôi phải sống với chỉ những món vật dụng mình có thể mang theo.

Tôi mở vali ra. Giờ thì vali rỗng không chỉ có một món: chiếc tượng be bé hình con rắn cuộn được chạm vào đá granite đỏ, khắc đầy những chữ tượng hình. Tên trên tượng – Apophis – đã bị gạch đi và được những lời nguyền ràng buộc đầy quyền thuật viết đè lên, nhưng dầu vậy bức tiểu tượng này vẫn là món đồ nguy hiểm nhất trong cả ngôi nhà này – một sự đại diện cho kẻ thù.

Sadie, Walt và tôi đã bí mật tạo ra vật này (bất chấp sự phản đối kịch liệt của Bast). Chúng tôi chỉ tin tưởng Walt vì chúng tôi cần kỹ năng tạo bùa của cậu ta. Thậm chí cả chú Amos chắc cũng sẽ không tán thành cho một cuộc thử nghiệm nguy hiểm đến vậy. Chỉ một sai lầm, một lời chú không phù hợp, thì bức tượng này có thể biến từ món vũ khí chống lại Apophis thành một cổng vào cho phép hắn tự do tiến vào Nhà Brooklyn. Nhưng chúng tôi phải chấp nhận rủi ro. Trừ phi chúng tôi tìm được cách khác để đánh bại con rắn, bằng không tôi và Sadie sẽ phải dùng đến pho tượng này cho kế hoạch B.

“Ý tưởng ngu xuẩn,” ngoài ban công một giọng nói vọng vào.

Một chú chim bồ câu đang đậu trên thành lan can. Trong cái nhìn chằm chằm của con chim có gì đấy rất là không mang vẻ giống chim bồ câu chút nào. Cái nhìn ấy trông không chút sợ sệt, gần như là nguy hiểm; còn tôi thì nhận ra giọng nói ấy, giọng mang hơi hướm như đàn ông đầy tính hiếu chiến hơn là thứ giọng bạn thường nghĩ một thành viên trong họ bồ câu hay có.

“Horus ư?” tôi hỏi.

Chim bồ câu gật đầu. “Ta vào được chứ?”

Tôi biết ông ta hỏi không phải chỉ vì lịch sự. Ngôi nhà được phù phép nghiêm ngặt để ngăn không cho những loài gây hại vào, như là chuột, mối hay các vị thần Ai Cập.

“Tôi cho phép ông bước vào,” tôi trịnh trọng nói. “Horus, trong hình dáng của… ừm… chim bồ câu.”

“Cảm ơn.” Chim bồ câu nhảy xuống khỏi lan can mà quày quả bước vào.

“Tại sao chứ?” tôi hỏi.

Horus giũ giũ lông. “À, ta muốn tìm một con chim ưng kia, nhưng ở New York này thì chúng hơi hiếm. Ta muốn một thứ gì đó có cánh, cho nên bồ câu có vẻ là lựa chọn thích hợp nhất. Chúng thích ứng tốt với thành thị, lại không sợ con người. Chúng là thứ chim cao quý, cậu không nghĩ thế sao?”

“Cao quý thật,” tôi đồng tình. “Đấy là từ ngữ đầu tiên nảy ra trong trí tôi khi tôi nghĩ về chim bồ câu đấy.”

“Quả thật vậy,” Horus họa theo.

Rõ là nghệ thuật nói mỉa không tồn tại trong thế giới Ai Cập Cổ Đại, vì hình như Horus chẳng bao giờ hiểu được. Ông ta tót lên giường tôi mà mổ lấy vài miếng Cheerios còn sót lại từ bữa trưa của Khufu.

“Ê,” tôi cảnh cáo, “nếu ông mà ị lên chăn của tôi thì-”

“Làm ơn đi. Các vị thần chiến tranh không ị lên chăn màn gì đâu. À, ngoại trừ cái lần nọ-”

“Quên là tôi đã nói gì đi.”

Horus nhảy phóc lên mép vali của tôi. Ông ta nhìn xuống bức tiểu tượng của Apophis. “Nguy hiểm,” ông bảo. “Nguy hiểm quá, Carter à.”

Tôi đâu có nói cho Horus biết về kế hoạch B, nhưng cũng không ngạc nhiên là ông ta lại biết. Horus và tôi đã sẻ chia suy nghĩ quá nhiều lần rồi. Tôi càng giỏi điều chuyển nguồn pháp thuật của ông ta, thì chúng tôi càng thấu hiểu nhau nhiều hơn. Khuyết điểm của pháp thuật thánh thần này là không phải lúc nào tôi cũng có thể đóng mối liên hệ đó lại được.

“Đấy là kế hoạch dự phòng trong trường hợp khẩn cấp của chúng tôi,” tôi bảo. “Chúng tôi đang cố tìm cách khác đây.”

“Bằng cách tìm kiếm cuốn văn tự kia chứ gì,” Horus nhớ lại. “Bản sao cuối cùng của bản bị đốt cháy tại Dallas tối nay.”

Tôi kìm nén niềm thôi thúc được đâm cho con chim bồ câu một cú. “Phải. Nhưng Sadie đã tìm thấy hộp chứa bóng. Nó nghĩ đấy là một thứ manh mối gì đó. Ông chắc là không biết điều gì về việc sử dụng bóng chống lại Apophis đâu, phải không nhỉ?”

Chim bồ câu xoay đầu đi nghiêng nghiêng. “Không hẳn. Những hiểu biết của ta về pháp thuật khá là đơn giản dễ hiểu. Dùng kiếm tấn công kẻ thù cho đến chúng chết. Nếu chúng đứng lên, tiếp tục tấn công chúng. Lặp lại nếu cần thiết. Chiêu này có tác dụng khi chống lại Set đấy.”

“Sau bao nhiêu năm chinh chiến ấy nhỉ?”

Chim bồ câu trừng mắt nhìn tôi. “Ý cậu là sao?”

Tôi quyết định là nên tránh cãi cọ. Horus là thần chiến tranh. Ông ta thích đánh đấm, nhưng đã phải mất bao nhiêu năm mới đánh bại được Set, vị ác thần. Mà Set so với Apophis thì chỉ là trò nhãi nhép – là nguồn lực nguyên thủy của Hỗn Mang. Dùng kiếm mà quật Apophis thì sẽ chẳng có tác dụng gì.

Tôi nghĩ đến điều lúc nãy Bast từng nói, khi ở trong thư viện.

“Liệu thần Thoth có biết nhiều hơn về hình bóng không?” tôi hỏi.

“Chắc là có,” Horus lầm bầm. “Thoth thì có giỏi giang gì đâu ngoài việc nghiên cứu mấy cuộn văn tự mốc meo của hắn chứ.” Horus ngắm nghía bức tượng rắn. “Buồn cười thật… ta vừa chợt nhớ ra một chuyện. Thời xưa, người Ai Cập dùng cùng một từ chỉ tượng và bóng, bởi vì cả hai đều là phiên bản sao chép nhỏ hơn của một vật thể. Cả hai đều được gọi là sheut.”

“Ông đang cố nói cho tôi điều gì đấy à?”

Chim bồ câu lại giũ giũ lông. “Không có gì. Chỉ là ta chợt ngộ ra, khi nhìn vào pho tượng lúc cậu đang nói chuyện về bóng ấy mà.”

Một cảm giác lạnh cóng lan tỏa ra giữa hai xương bả vai của tôi.

Bóng… tượng.

Mùa xuân rồi Sadie và tôi đã quan sát khi vị cựu Đại Pháp Sư Desjardins tung lời chú nguyền rủa vào Apophis. Ngay cả khi chống lại những con quỷ thứ yếu, thì lời chú nguyền rủa cũng rất nguy hiểm. Việc bạn cần làm là tiêu hủy một bức tượng nhỏ của mục tiêu, và khi làm thế, sẽ cay đắng hủy diệt luôn chính mục tiêu đó, xóa bỏ nó khỏi thế giới. Chỉ phạm một sai lầm thôi, là mọi thứ sẽ bắt đầu nổ tung – bao gồm cả pháp sư đã đưa ra lời nguyền ấy.

Ở dưới Âm Phủ kia, Desjardins đã dùng một bức tượng tự tạo nho nhỏ để chống lại Apophis. Vị Đại Pháp Sư đã mất mạng khi đưa ra lời nguyền ấy và chỉ có thể đẩy được Apophis lùi sâu hơn một chút vào Cõi Âm mà thôi.

Sadie và tôi hy vọng rằng với một pho tượng pháp thuật hùng mạnh hơn thì khi cả hai chúng tôi kết hợp với nhau có thể hoàn toàn nguyền rủa Apophis, hay ít nhất là quẳng hắn thật sâu vào Cõi Âm để hắn sẽ không bao giờ quay trở lại được.

Đấy là kế hoạch B. Nhưng chúng tôi biết rằng một lời nguyền mạnh mẽ đến vậy sẽ hút đi rất nhiều năng lượng có khả năng lấy đi mạng sống của chúng tôi. Trừ khi chúng tôi tìm ra phương cách khác.

Tượng làm bóng, bóng làm tượng.

Kế hoạch C bắt đầu hình thành trong trí tôi – một ý tưởng điên rồ đến mức tôi chẳng muốn nói ra thành lời.

“Horus này,” tôi thận trọng hỏi, “Apophis có bóng không nhỉ?”

Con chim bồ câu chớp chớp đôi mắt đỏ. “Thật là một câu hỏi kỳ lạ! Sao cậu lại…?” Ông ta liếc xuống bức tiểu tượng màu đỏ. “Ô… Ồ. Quả là thông minh đấy. Điên rồ có thừa, nhưng thông minh. Cậu nghĩ phiên bản Cuốn Sách để đánh bại Apophis, cái cuốn mà Apophis nôn nóng muốn tiêu hủy đi ấy… cậu nghĩ cuốn sách ấy có chứa một câu thần chú bí mật để-”

“Tôi không biết,” tôi đáp. “Cũng đáng để hỏi thần Thoth mà. Có lẽ ông ấy biết điều gì đấy.”

“Có lẽ,” Horus càu nhàu. “Nhưng ta thì vẫn cho một cuộc tấn công trực diện là phải cách.”

“Đương nhiên là ông nghĩ thế rồi.”

Chim bồ câu gật gù. “Chúng ta đủ mạnh mà, cậu và ta ấy. Chúng ta nên kết hợp lực lượng, Carter à. Hãy để cho ta cùng sử dụng hình dáng của cậu như có lần ta đã làm. Chúng ta có thể thống lãnh đạo quân gồm thần và con người để đánh bại con rắn kia. Nếu cùng nhau, chúng ta sẽ thống trị cả thế giới.”

Có lẽ ý tưởng này hẳn đã có sức hấp dẫn hơn nhiều nếu như tôi không đang nhìn và một con chim múp míp trên lông còn vương vãi vụn Cheerios. Để cho một con chim bồ câu thống trị thế giới nghe như là một ý tưởng tồi.

“Tôi sẽ bàn lại chuyện này với ông sau,” tôi đáp. “Trước tiên tôi phải nói chuyện với thần Thoth đã.”

“Trời,” Horus vỗ vỗ cánh. “Hắn ta vẫn còn đang ở Memphis, tại cái sân vận động thể thao nực cười của hắn. Nhưng nếu cậu có dự định muốn gặp hắn thì ta sẽ không chờ lâu đâu.”

“Tại sao không?”

“Đấy là chuyện ta đến đây để bảo với cậu,” Horus đáp. “Chuyện giữa các thần với nhau đang trở nên phức tạp. Apophis đang chia rẽ bọn ta, tấn công bọn ta từng người một, giống như hắn đang làm với các pháp sư của cậu đấy. Thoth là người đầu tiên lãnh hậu quả.”

“Lãnh hậu quả… như thế nào?”

Con chim bồ câu thở phì phò. Một làn khói từ mỏ nó cuộn lên. “Trời đất ơi. Con vật chủ của ta đang tự hủy hoại. Nó không thể giữ linh hồn ta thêm được bao lâu nữa rồi. Nhanh nhanh lên nhé Carter. Ta đang gặp rắc rối với việc đoàn kết các thần lại với nhau, còn lão Ra già kia thì chẳng đang giúp gì được cho tinh thần của bọn ta cả. Nếu cậu và ta không sớm thống lĩnh các quân đoàn của mình, có thể rồi chúng ta sẽ chẳng còn lại được quân đoàn nào để mà thống lĩnh đâu.”

“Nhưng mà-”

Chim bồ câu lại nấc cụt ra thêm một ngụm khói nữa. “Ta phải đi đây. Chúc may mắn nhé.”

Horus bay ra khỏi cửa sổ, bỏ lại tôi một mình cùng bức tiểu tượng của Apophis và vài cọng lông xám.

Tôi ngủ say như xác ướp. Đấy là phần hay ho. Phần không hay là Bast đã để cho tôi ngủ đến tận chiều.

“Sao cô không thức cháu dậy chứ?” tôi trách. “Cháu có việc phải làm cơ mà!”

Bast dang hai tay ra. “Sadie muốn thế. Tối qua cháu đã có một đêm khó nhọc rồi. Sadie bảo cháu cần phải nghỉ ngơi. Với lại, ta là mèo cơ mà. Ta tôn trọng tính thiêng liêng của giấc ngủ.”

Tôi vẫn còn bực lắm, nhưng một phần trong tôi biết rằng Sadie nói phải. Đêm hôm trước tôi đã vận dụng rất nhiều quyền năng pháp thuật rồi, lại còn đi ngủ rất muộn nữa chứ. Có lẽ - chỉ là có lẽ thôi – Sadie thật lòng quan tâm đến lợi ích của tôi.

"Tôi vừa nhác thấy con bé bĩu môi chế nhạo tôi, nên có lẽ là không đâu."

Tôi tắm gội thay quần áo. Khi đám nhóc kia tan học về, tôi lại đang cảm thấy mình như là con người.

Phải, tôi nói là tan học, như là từ một trường học xưa cũ bình thường. Chúng tôi đã trải qua mùa xuân rồi phụ đạo cho đám vỡ lòng tại Nhà Brooklyn, nhưng khi học kỳ mùa thu bắt đầu thì Bast đã quyết định rằng đám nhóc có thể kinh qua chút đời sống người phàm thông thường. Giờ thì ban ngày đám nhóc đi học tại học viện gần đây trong khu Brooklyn còn buổi chiều và các ngày cuối tuần chúng sẽ học về pháp thuật.

Tôi là người duy nhất ở lại nhà. Trước nay tôi vẫn luôn học tại gia đấy thôi. Ý tưởng phải đối phó với tủ khóa đựng đồ, với thời khóa biểu, sách giáo khoa cùng thức ăn trong căn tin ngoài việc phải cai quản Vùng Hai Mươi Mốt thật quá sức tôi.

Các bạn hẳn cho là đám nhóc kia sẽ than phiền chứ gì, nhất là Sadie ấy. Nhưng, thực tế là, việc đi học với bọn nhóc là thường thôi. Bọn con gái thì vui vẻ vì có được thêm nhiều bạn (đồng thời ít thứ con trai mất nết để ve vãn hơn, chúng bảo thế). Bọn con trai thì có thể chơi thể thao cùng các đội thực thụ thay vì phải một chọi một với Khufu sử dụng mấy bức tượng Ai Cập để chơi bóng rổ. Còn với Bast thì, cô ấy thấy vui khi có được một ngôi nhà im ắng để có thể duỗi mình trên sàn nhà hay ngủ thiếp đi dưới ánh mặt trời.

Dù là gì đi nữa, lúc mọi người còn lại về đến nhà, tôi đã suy nghĩ rất lung về hai cuộc trò chuyện giữa tôi với Zia và Horus. Kế hoạch mà tối qua tôi hình thành nên vẫn nghe ra điên khùng lắm, nhưng tôi quyết định đấy có thể là nỗ lực hiệu quả nhất của chúng tôi. Sau khi tóm tắt cho Sadie và Bast nghe, cô ta (ngạc nhiên đến phát ngại) lại đồng ý với tôi, chúng tôi quyết định đã đến lúc phải nói cho những người bạn còn lại của chúng tôi biết.

Chúng tôi quây quần dùng bữa tối ngoài hàng hiên chính. Đây là một chỗ dùng bữa dễ thương, có những rào chắn vô hình để ngăn gió, cùng tầm nhìn đẹp mắt xuống sông Đồng cùng Manhattan. Thức ăn xuất hiện một cách kỳ diệu, và vẫn luôn ngon lành. Dầu vậy, tôi lại sợ ngồi ăn ngoài hiên lắm. Trong chín tháng chúng tôi đã tổ chức mọi buổi họp quan trọng ở ngoài này. Tôi đã đến mức liên tưởng mọi bữa tối ngồi ăn cùng nhau với các thảm họa cơ đấy.

Chúng tôi chất đầy thức ăn buffet lên đĩa trong khi chú cá sấu bạch tạng làm người canh gác cho chúng tôi, Philip xứ Macedonia, đang vui vẻ tóe nước trong hồ bơi. Việc dùng bữa ngay cạnh một con cá sấu dài 6 mét cũng phải mất chút thời gian mới làm quen được, nhưng Philip được huấn luyện kỹ lưỡng lắm. Nó chỉ ăn thịt heo muối, mấy con chim nước lang thang đi lạc vào đấy hoặc thi thoảng là bọn quái vật xâm nhập vào đây thôi.

Bast ngồi ngay đầu bàn với một hộp Purina Fancy Feast. Sadie cùng tôi ngồi ở đầu bàn đối diện. Khufu đã bỏ đi chăn dắt đám cạp-mắt-cá, còn vài em chúng tôi mới tuyển vào đang ở trong nhà làm bài tập về nhà hoặc học để bắt kịp chiêu thức ra lời chút, nhưng hầu hết những người chủ đạo đều đang hiện diện – một tá hững học viên vỡ lòng bận đàn anh.

Nếu sao với việc đêm qua đã diễn biến xấu đến thế nào, thì mọi người dường như đang trong tình trạng tinh thần phấn chấn đến lạ kỳ. Tôi thấy có vẻ mừng vì các bạn chưa biết đến lời đe dọa giết chóc qua băng video của Sarah Jacobi. Julian liên tục nhảy tâng lên tâng xuống trên ghế và cười toe toét chẳng vì lý do gì. Cleo cùng Jaz thì thầm thì thụt với nhau rồi khúc khích cười. Thậm chí cả Felix dường như cũng có vẻ đã hồi tâm từ sau cú sốc ở Dallas. Cậu chàng đang ngồi khắc những tượng shabti chin cánh cụt bé xíu từ món khoai tây nghiền rồi hóa phép cho chúng sống dậy.

Chỉ có Walt là trông ủ rũ. Anh chàng to con này chẳng lấy món nào vào đĩa trừ ba củ cà rốt cùng một khoanh Jell-O. (Khufu cứ nằng nặc bảo là Jell-O có thành phần chữa lành chủ đạo). Căn cứ vào vẻ căng thẳng quanh hai mắt Walt cộng với cử động cứng nhắc của cậu ấy, tôi đoán là cơn đau của cậu giờ thậm chí còn tệ hơn cả tối qua.

Tôi quay sang Sadie. “Đang xảy ra chuyện gì à? Mọi người có vẻ… thiếu tập trung.”

Sadie trợn mắt nhìn tôi. “Em cứ mãi quên là anh không đến trường. Carter này, tối nay là đêm khiêu vũ lần đầu! Ba trường học khác cũng sẽ có mặt. Bọn mình có thể họp nhanh nhanh vào, được không vậy?”

“Em đùa sao,” tôi nói. “Anh đang tính đến các kế hoạch cho Ngày Đen Tối, còn em thì lại lo đến buổi khiêu vũ muộn à?”

“Em đã nhắc anh vụ này cất lần rồi,” Sadie nài nỉ. “Với lại, bọn em cần thứ gì đó để xốc lại tinh thần. Nào, giờ thì hãy nói cho mọi người nghe kế hoạch của anh đi. Vài đứa bọn em còn phải quyết định xem nên mặc đồ gì đấy.”

Tôi muốn cãi lại lắm, nhưng những người khác đang trông ngóng nhìn vào tôi.

Tôi hắng giọng. “Thôi được. Tôi biết là có cuộc khiêu vũ, nhưng mà-”

“Vào lúc bảy giờ,” Jaz bảo. “Cậu cũng đến chứ, phải không?”

Cô mỉm cười với tôi. Cô này đang… tán tôi đấy à?

"Sadie cứ bảo tôi là chậm lụt. Này, tôi còn có bao chuyện khác trong đầu cơ mà."

“Ừm… th – thế cho nên mà thôi,” tôi lắp bắp. “Chúng ta cần nói về chuyện đã xảy ra ở Dallas, và chuyện sẽ xảy ra sau này.”

Câu này làm tinh thần mọi người tắt ngủm. Bao nụ cười lịm đi. Các bạn tôi lắng nghe tôi nhắc lại nhiệm vụ của chúng tôi tại Vùng Năm Mươi Mốt, về việc tiêu hủy Cuốn Sách để đánh bại Apophis và về việc thu được chiếc hộp chứa bóng. Tôi kể cho mọ người nghe về yêu cầu của Sarah Jacobi buộc tôi đầu hàng cùng tình hình hỗn loạn giữa các thần mà Horus đã đề cập đến.

Sadie xen vào. Con bé giải thích cuộc chạm trán kỳ quái giữa nó và gương mặt trên tường, cùng hai vị thần và hồn ma mẹ chúng tôi. Sadie chia xẻ linh tính của nó rằng cơ hội cao nhất cho chúng tôi đánh bại Apophis là có liên quan gì đấy đến các hình bóng.

Cleo giơ tay lên. “Thế nghĩa là… đám pháp sư phản loạn đưa ra án tử cho cậu. Các thần không thể giúp cho chúng ta. Apophis có thể khởi dậy bất cứ lúc nào, và cuộn văn tự cuối cùng có khả năng giúp chúng ta đánh bại hắn đã bị tiêu hủy. Nhưng chúng ta không phải lo, vì chúng ta đang có một chiếc hộp rỗng không cùng dự cảm mơ hồ về mấy cái bóng.”

“Chà chà Cleo,” Bast lên tiếng vẻ ngưỡng mộ, “cô quả là có mặt nanh nọc như mèo ấy!”

Tôi ấn hai tay xuống mặt bàn. Hẳn sẽ chỉ cần ra sức một tẹo thôi là tôi có thể triệu gọi sức mạnh thần Horus mà đập cho cái bàn tan tành thành mảnh vụn rồi. Nhưng tôi không nghĩ làm thế sẽ giúp ích gì cho danh tiếng là một người lãnh đạo bình tĩnh, biết kiềm chế của mình.

“Đây còn hơn là một dự cảm mơ hồ đấy,” tôi nói. “Nghe này, mọi người đều đã học về các lời chú nguyền rủa rồi chứ gì?”

Philip, con cá sấu của chúng tôi, gầm gầm gừ gừ lên. Nó quẫy đuôi vỗ lên mặt nước khiến nước bắn rào rào vào thức ăn tối của chúng tôi. Những sinh vật pháp thuật có hơi chút nhạy cảm với hai chữ nguyền rủa.

Julian thấm thấm lau nước khỏi món bánh sandwich phô mai của mình.

“Này cậu, cậu không thể nguyền rủa Apophis được đâu. Hắn kinh khủng lắm. Desjardins từng thử làm chuyện này và bị toi mạng mất rồi còn đâu.”

“Tôi biết. Trong thuật nguyền rủa theo đúng chuẩn, thì ta tiêu hủy một bức tượng là đại diện cho kẻ thù. Nhưng nếu ta có thể làm tăng công lực cho lời chú bằng việc tiêu hủy một sự đại diện nào đó hùng mạnh hơn thì sao – thứ gì đó có gắn kết chặt chẽ hơn với Apophis ấy?”

Walt rướn người tới trước, bỗng dưng quan tâm chăm chú hơn. “Như là bóng của hắn ấy à?”

Felix ngạc nhiên giật mình đánh rơi thìa, đè bẹp một trong những con chim cánh cụt bằng khoai tây nghiền của cậu ta. “Chờ đã, gì cơ?”

“Tôi nảy ra ý tưởng này nhờ Horus,” tôi nói. “Ông ta bảo tôi rằng thời xa xưa các bức tượng được gọi là các bóng đấy.”

“Nhưng đấy chỉ như là, như là biểu tượng thôi mà,” Alyssa nói. “Phải không nhỉ?”

Bast đặt hộp Fancy Feast hết sạch xuống. Cô vẫn còn trông rất lo lắng về toàn bộ chủ đề hình bóng này, nhưng khi tôi giải thích cho cô ấy biết rằng hoặc là làm thế hoặc là Sadie và tôi sẽ chết thì cô đã đồng ý ủng hộ chúng tôi.

“Có thể là không,” nữ miêu thần nói. “Ta không phải chuyên gia trong lĩnh vực chú nguyền rủa, nhắc cho các cô cậu nhớ nhé. Thật là lĩnh vực kinh tởm. Nhưng cũng có khả năng là một pho tượng dùng trong chú nguyền rủa thuở ban đầu được dùng để đại diện cho bóng của mục tiêu, là một phần quan trong của tâm hồn đấy.”

“Vậy là,” Sadie nói, “chúng ta có thể đưa ra lời chút nguyền rủa với Apophis, nhưng thay vì tiêu hủy pho tượng thì chúng ta có thể tiêu hủy cái bóng thực thụ của hắn. Hay quá, phải không nào?”

“Điên rồ thì có,” Julian đáp. “Làm sao mà anh tiêu hủy một cái bóng được?”

Walt xùy đuổi một con chim cánh cụt bằng khoai nghiền ra khỏi món Jell-O. “Không điên đâu. Pháp thuật giao cảm chủ yếu là về việc sử dụng một bản sao nhỏ để thao túng mục tiêu thực thụ. Có thể là toàn bộ truyền thống của việc tạo ra các tiểu tượng để đại diện cho con người và thánh thần – có lẽ tại một thời điểm nào đó những pho tượng này quả là có chứa đựng sheut của mục tiêu đấy. Nếu một cái bóng bị mắc kẹt trong pho tượng, thì ta có thể tiêu hủy nó được mà.”

“Anh có thể tạo ra một pho tượng như thế không?” Alyssa hỏi. “Thứ gì đó có thể trói buộc cái bóng của… của chính Apophis ấy?”

“Có lẽ.” Walt liếc sang tôi. Đa số các bạn ngồi trong bàn này không biết là chúng tôi đã tạo ra một pho tượng của Apophis có thể được dùng cho mục đích ấy rồi. “Ngay cả khi anh có thể làm được, thì chúng ta cũng phải tìm cho ra cái bóng. Sau đấy chúng ta sẽ cần đến vài món pháp thuật khá cao cấp để tóm lấy bóng mà tiêu hủy nó.”

“Tìm một cái bóng ư?” Felix bồn chồn mỉm cười, như thể hy vọng là chúng tôi đang nói đùa. “Chẳng phải bóng là ở ngay dưới chân hắn sao? Và làm cách nào anh lại tóm được bóng ấy chứ? Dẫm lên nó à? Hay rọi đèn vào nó?”

“Sẽ phải phức tạp hơn thế,” tôi đáp. “Vị pháp sư cổ đại Setne này, cái tay đã viết ra phiên bản của mình về Cuốn Sách để đánh bại Apophis ấy, tôi nghĩ hẳn ông ta đã tạo ra lời chú để tóm lấy và tiêu hủy cái bóng. Đấy là lý do vì sao Apophis lại nôn nóng muốn thiêu rụi chứng cứ đi. Đấy là điểm yếu bí mật của hắn.”

“Nhưng cuộn văn tự đã tiêu tùng rồi còn đâu,” Cleo bảo.

“Vẫn còn người khác chúng ta có thể hỏi,” Walt bảo. “Thần Thoth. Nếu có ai biết được lời đáp, thì đấy sẽ là ông ta.”

Sự căng thẳng quanh bàn ăn dường như dịu đi. Ít nhất chúng tôi đã cho các học viên vỡ lòng điều gì đấy mà hy vọng, dù cho đấy là hy vọng quá hão. Tôi thấy biết ơn làm sao khi có được Walt về phe mình. Khả năng tạo bìa của cậu ta có thể là niềm hy vọng duy nhất cho chúng tôi trong việc trói buộc bóng vào tượng, và lá phiếu tín nhiệm của cậu ta có trọng lượng lớn với những nhóc còn lại lắm.

“Chúng ta cần phải ghé thăm thần Thoth ngay,” tôi bảo. “Tối nay.”

“Phải rồi,” Sadie đồng tình. “Ngay sau buổi khiêu vũ.”

Tôi quắc mắt nhìn con bé. “Em không nghiêm túc rồi.”

“Ồ, có đấy anh trai yêu dấu.” Con bé tinh quái mỉm cười, và trong một giây tôi sợ là nó sẽ gọi đến bí danh của tôi mà buộc tôi phải nghe theo. “Bọn em sẽ dự buổi khiêu vũ tối nay. Và anh sẽ phải đi cùng tụi này.”