Thay vào đoạn kết
NĂM Bính-Ngọ (1546) Nguyễn Uông tự nhiên bị bệnh mà mất. Sau này một vài nhà chép sử cho là Uông bị Kiểm mưu hại và nêu lên hai giả thuyết để bênh vực lập trường của mình:
1 - Kiểm coi Uông như cái gai trước mắt, nên giết đi để khỏi lo ngại về sau.
2 - Kiểm Thấy Uông âm mưu phản lại mình nên vì bản năng tự vệ mà mưu hại địch thủ.
Chúng tôi chưa có đủ tài liệu về cái chết ‘‘đột ngột’’ của Uông, nên không dám hạ bút kết tội ngay Kiểm một cách vu vơ như thế được. Chúng tôi chỉ đứng về phương diện khách quan giải phẫu cái nghi án trong lịch sử (theo lời của vài nhà viết sử) để rồi kết luận một cách vô tư ngõ hầu rọi một chút ánh sáng vào cái ‘‘nghi án’’ đó. Theo giả thuyết thứ nhất thì Kiểm vì muốn đề phòng khỏi bị ám hại, mà giết cậu em vợ. Có đúng không? Trước khi trả lời câu hỏi, tôi xin phân tích cá tính của hai đối thủ vì có biết rõ cá tính đó, thì mới dám buộc tội ai là thủ phạm.
Uông tính nóng, khí khái, nhưng thích nghe lời nói ngọt, lại sẵn có quan niệm phong kiến về dòng máu và địa vị cho nên, mới lần đầu gặp Kiểm, vì lời nói kiêu hãnh của Kiểm (xem chỗ Uông và Kiểm đấu khẩu với nhau ở Khương Lang) rồi đến khi Nguyễn Kim định gả Ngọc Bảo cho Kiểm thì Uông hết sức phản đối, vì Kiểm không phải là giòng giõi giai tầng quí tộc. Một người như Uông tài năng kém cỏi, chỉ ỷ lại vào thế lực của cha để làm con đường tiến thân, thì không thể làm cho ai sợ hãi e dè được. Trái lại, Kiểm giầu năng lực, giầu sáng kiến, biết mình và biết người, cương nhu phải lúc, xử sự không hề hấp tấp vội vàng. Đối với Uông, Kiểm chỉ cần sự nhũn một chút là lung lạc được. Vậy kẻ kình địch của Kiểm không phải là Uông mà chính là Hoàng. Cái tính thâm trầm, gan góc của Hoàng, cái tài dùng người, cảm hóa người của Hoàng, thật đáng cho Kiểm phải gờm, Kiểm đã không nỡ giết Hoàng, thì thèm vì giết Uông? Một người mềm dẻo như Kiểm, đã chịu hạ mình trước huyện quan để cầu xin khỏi tội, thì một khi đã từ cái chức lính chăn ngựa, nhảy lên địa vị giai tế An thành hầu, Kiểm có thể nhịn được cái thái độ ngang tàng của cậu em vợ. Vậy giả thuyết thứ nhất không thể xác nhận được, xét về giả thuyết thứ hai. Uông có thể vì muốn cướp lại binh quyền mà họp bè đảng mưu sự ám hại thù nhân. Vậy ta thử xét xem; lời kêu gọi của Uông cũng đủ cho mọi người chán ghét không chịu hợp tác rồi đừng nói đến cái tài năng nông cạn của chàng nữa. Dù chàng cố tha thiết kêu gọi mọi người giúp đỡ, thì cũng chỉ nhận được lời hứa hẹn xuông tình, vì không ai dại gì theo gót kẻ vô tài, để đưa nhau đến đất chết. Kiểm biết vậy nhưng thấy Uông không có ai hưởng ứng thì cũng không sợ; giá đem giết cũng vô ích chỉ gây thêm thù oán mà để thì cũng chẳng làm nên trò trống gì. Vậy giả thuyết thứ hai cũng không thể xác nhận được. Nhưng còn cái chết đột ngột kia? Ai giết Uông? Chúng tôi xin trả lời sau đây. Uông thấy lời hô hào của mình không có ai đáp lại, tự biết mình cô lập, yếu thế, đâm ra chán nản, trầm muộn, tỏ một thái độ hoàn toàn tiêu cực. Đối với một người như Uông chỉ quen sống một đời ký sinh, một khi đã thất vọng, thì chỉ còn biết ‘‘Sầu thành giục phá tửu vi binh’’, rồi lang thang nay đây, mai đó hòng ký thác tâm sự mình vào giọng hát câu thơ. Người ta còn chép được vài bài thơ của Uông làm lúc rượu say đang vơ vẩn trong rừng!
Suối rừng lặng gẩy tiếng đàn,
Trên non cao thẳm, uốn làn khói xanh.
Mơ màng lá rủ đầu cành,
Dưới khe thấp thoáng bóng anh phu tiều.
Một mình giữa cảnh tịch liêu,
Tâm hồn theo ngọn gió chiều bay đi.
hay là:
Rượu say, say tít, say mềm,
Say luôn cả tháng say liền cả năm.
Say cho sóng đổ cát lầm
Nghiêng vò tưới khắp quan san nghìn trùng.
Thật là vô cùng lãng mạn, thật đã biểu dương được cái tư tưởng muốn xa lánh cõi đời của chàng. Rồi thì ngày, đêm, chàng chỉ lấy rượu làm bạn, hết rượu lại thơ, hết thơ lại rượu... cho đến một ngày kia, trong một cơn say sưa quá độ, chàng đã bị ngộ cảm mà qua đời. Thực ra, cái chết bất thần của Uông cùng chẳng làm cho người đương thời ngạc nhiên chút nào, nhưng Hoàng đã lợi dụng cái chết của anh làm phương tiện thoát thân. Hoàng vốn có chí lớn, không chịu nép mãi dưới uy quyền của anh rể, cũng muốn bay nhảy nhưng chưa có dịp. Sử chép rằng: ‘‘Nguyễn Hoàng cho người đến hỏi. Nguyễn bỉnh Khiêm thì nhà ẩn sĩ bảo: ‘‘một giải Hoành Sơn có thể nương thân được muôn đời’’. Nhân xẩy ra việc Uông chết, Hoàng phao tin là Uông bị mưu hại, rồi vào khóc lóc với chị là Ngọc Bảo, nhờ xin với anh rể cho mình vào trấn đất Thuận hóa. Ngọc Bảo tin là thực, sợ Hoàng bị hại nốt nên lựa nhời thưa với chồng. Trịnh Kiểm tức mình vì bị ngờ oan sợ rằng nếu để Hoàng bên cạnh thì nguy hiểm cho bản thân, cũng muốn tống đi cho rảnh mắt, nên bằng lòng cho Hoàng vào Thuận hóa. Sau này xét, đến nguyên nhân việc chiến tranh Trịnh, Nguyễn, nhiều nhà chép sử chủ trì rằng:‘‘Sự oán cừu thâm căn cố đế của hai nhà là một lý do chính của cuộc nội chiến trên nửa thế kỷ’’ Lập luận như thế là sai, vì xét ra Hoàng không có tư thù gì với Kiểm cả. Sở dĩ có cuộc nội chiến tàn khốc kia là vì nền kinh tế nông nghiệp ở ngoài Bắc hồi bây giờ đã đến lúc suy đồi, sự sinh hoạt của dân chúng mỗi ngày một khó khăn, nhà chúa muốn lấy lại thế quân bình cho luật cung cầu bắt buộc phải bành trướng về phương Nam, hòng chiếm lấy miền đồng bằng rộng lớn phì nhiêu. Nguyên từ khi Bình an vương Trịnh Tùng đuổi được nhà Mạc, khôi phục thành Thăng Long, thì tuy có thắng về chính trị quân sự, nhưng lại thua về kinh tế, vì kho tàng đã khánh kiệt, nhà cửa bị tàn phá, ruộng nương hoang phế, tiêu điều. Từ năm Canh Tí (1600) đến năm Ất sửu (1625) Trịnh Tùng còn phải đánh dẹp họ Mạc ở Hải dương, Cao bằng không mấy lúc được rảnh tay để kiến thiết lại nền kinh tế, nên trạng thái sinh hoạt của quần chúng càng ngày càng hỗn độn. Trong khoảng 25 năm ấy, Nguyễn Hoàng ở miền Nam mở rộng đất đai đến Phú Yên, rồi đến đời chúa Nguyễn phúc Nguyên (tức chúa Sãi) thì miền Nam đã trở nên phồn thịnh. Chúa Sãi thấy mình có thể sống độc lập được nên tuyệt giao với họ Trịnh. Cử chỉ này khiến cho dân Bắc hà lo sợ, vì nếu sự thông thương miền Nam bế tắc lại, thì 10 triệu dân Bắc hà sẽ lâm vào một tình trạng nguy ngập.
Trịnh Tráng cũng biết thế, nên bắt buộc phải gây chiến tranh với chúa Nguyễn, không ngoài cái mục đích là muốn giải quyết nạn nhân mãn và sự sống còn của dân miền Bắc. Tóm lại, cái động lực chính đã thúc đẩy họ Trịnh phải liều chết tiến về phương Nam, là sự muốn phục hưng nền kinh tế đã kiệt quệ vì chiến tranh, của giai cấp quân phiệt đương thời.
Từ khi Trịnh Kiểm thiết lập được một góc trời ở phương Nam để làm cơ sở cho sự trung hưng của nhà Lê, thì khắp nơi các hào kiệt kéo nhau về mỗi ngày một đông. Những bậc danh sĩ như Phùng khắc Khoan, Dương hữu Khánh, đều bỏ nhà Mạc vào giúp nhà Lê. Giang sơn bây giờ chia ra làm Nam, Bắc triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc về nhà Mạc, từ Thanh Hóa trở vào thuộc về nhà Lê. Hai bên đều lo chỉnh đốn binh mã, xây đắp đồn lũy, sửa soạn một cuộc chiến tranh lâu dài.
* * *
Một hôm, Vũ công Khanh nhân lúc nhân rỗi bàn với vợ, muốn về cửa Thần Phù chơi. Bích Lan ngạc nhiên hỏi:
- Cửa Thần phù thuộc về Ninh Bình, vẫn nằm trong phạm vi thế lực của nhà Mạc. Chàng về đấy làm gì?
- Cách đây 20 năm, cha tôi nhảy xuống cửa Thần phù tự trầm. Tôi muốn về tế người một tuần rượu.
Bích Lan chợt nghĩ ra vội đáp:
- Nếu chàng muốn đi thiếp cũng xin theo.
Vũ công Khanh cả mừng, liền ngỏ lời với Trịnh Kiểm. Kiểm bằng lòng. Hai vợ chồng Khanh sắm sửa vàng hương và rượu, rồi lên ngựa đi. Dòng dã 3 hôm lặn lội trong rừng, hai người đã đến cửa Thần phù, thấy trên bờ sông có một ngôi chùa, liền vào nghỉ chân. Sư già đón lên nhà tổ pha trà mời, Khanh hỏi:
- Sư già ở chùa này đã bao lâu?
Sư già chắp tay đáp:
- Mô phật, bần tăng trụ trì ở đây được ngoài 20 năm.
Khanh mở bọc lấy 10 lạng bạc để trên bàn nói:
- Cách đây 20 năm, thân phụ tôi đi qua cửa Thần phù, không may bị đắm thuyền mất tích. Nay tôi muốn nhờ sư già tụng cho vài quyển kinh để linh hồn người được siêu sinh tịnh độ.
Sư già cúi đầu cảm tạ, rồi hỏi:
- Mô phật, xin tín chủ cho biết tên tuổi của lệnh nghiêm đường.
- Thưa, tuổi lúc chết hay tính đến bây giờ?
- Tuổi lúc chết.
- Vũ công Duệ 53 tuổi.
Sư già ngạc nhiên, nói:
- Vậy công tử là con giai của quan cố Ngự sử Vũ công Duệ.
Khanh sụt sùi.
- Vâng chính tôi.
- Mô phạt! cái chết của quan Ngự sử thật là thảm thương vô cùng. Chính ngài nhảy xuống sông tự trầm chứ có phải đắm thuyền đâu. Hồi ấy phu nhân cũng có rẽ vào chùa nhờ bần tăng tụng kinh siêu độ rồi. Phu nhân có đề một bài thơ ở tường, công tử lại mà xem.
Đoạn, sư già đứng dậy giắt hai người lên Tam Bảo chỉ chỗ đề bài thơ. Nhìn thấy nét mực còn tươi, Khanh ngạc nhiên hỏi:
- Đã 20 năm rồi, sao nét mực không phai là tại làm sao?
- Bần tăng vì cảm tấm lòng trung nghĩa của quan Trạng Nguyên, lại thấy bài thơ rất hay, nên thỉnh thoảng lại đem bút mực ra tô lại cho mới mẻ,
Khanh vái sư già thưa:
- Xin cảm tạ sư phụ.
Đoạn chàng lẩm nhẩm đọc:
Một tấm lòng son, một tấm tình,
Ơn vua coi trọng, nhẹ gia đình,
Vui làn sóng cả, chàng không nhục,
Nép chốn phòng không, thiếp cũng vinh.
Một chút trẻ thơ sao nỡ rẻ?
Còn thân già lão nghĩ mà khinh.
Đầm đầm lệ nhỏ thương người khuất,
Ngán nỗi gia vong, ngán nỗi mình.
Chính thất Đặng thúy Nga cẩn đề
Đọc xong Khanh òa lên khóc. Bích Lan cũng sụt sùi.
Sư già khuyên giải:
- Công tử khóc mãi cũng vô ích. Sắp sửa vàng hương ra bờ sông với bần tăng.
Hai người gạt nước mắt theo sư già ra ngoài. Nhìn thấy con sông rộng lớn, sóng cồn lô xô đuổi nhau trên mặt nước trắng xóa, Vũ công Khanh trạnh lòng nghĩ đến cái chết thảm thương của cha, lại thổn thức. Sư già chỉ tay nói:
- Công tử cứ chiếu thẳng cây đa ra đến giữa giòng sông, là chổ quan Trạng nguyên tự trầm.
Hai vợ chồng quỳ xuống. Khanh đốt hương bày ba chén rượu xuống đất, đoạn hướng về phía sư già chỉ, lẩm nhẩm khấn. Sư già ngồi xếp vành tròn trên bãi có, hai mắt nhắm lại, tay lần tràng hạt.
Khanh rót rượu vào chén, rồi đọc:
Giải tỏ lòng trung với nước non,
Phù Lê diệt Mạc trí không mòn.
Bao phen lận đận bên trời cũ,
Phút chốc bôn ba giải đất còn.
Bích Lan đọc theo:
Cũng muốn noi theo gương của mẹ,
Chỉn e thiếu sót phận làm con.
Sư già cũng đọc luôn:
Người xa cõi tục, người xa Phật,
Ba nén hương thơm, một tấc son.
Trời đã ngả về chiều. Trên nền trời hồng hồng, một con chim mải miết bay. Gió lạnh lướt qua, xô những làn sóng vào bờ, réo ầm ầm như muốn cuốn tất cả về nơi xa thẳm.
Ba người nhìn nhau yên lặng.
Hải dương, mùa xuân Quý-Tỵ