← Quay lại trang sách

- II -

Đến chiều đội mua dê về cùng hai thanh niên đảo, những người được hợp tác xã phái đến giúp tàu giết dê, nấu nướng. Tiếng dê be be và sự có mặt của hai thanh niên trên đảo với những bó rơm, những túi rau thơm làm nức lòng anh em trên tàu. Hội bài bạc của đại phó và máy trưởng vẫn như không nghe thấy gì, vẫn chăm chú vào ván bài trên tay. Trời tối rất nhanh. Thăng hạ lệnh cho thợ máy nổ máy, bật pha lên để anh em làm thịt dê. Tiếng máy chạy ầm ầm. Đèn pha sáng rực chiếu trên boong lái. Tiếng nói tiếng cười vang trong vụng. Những người đánh chắn cũng chẳng còn bụng dạ nào. Hết hội, ba người chạy ra boong. Còn một mình đại phó. Chiểu nằm trên giường quay mặt vào vách tàu nói vọng ra:

- Mổ xong, quăng xuống hầm đá, mai ăn.

Không ai nói gì. Mọi người trả lời Chiểu bằng hành động. Thủy thủ trưởng Bảo cùng anh em cả boong cả máy, người đốt rơm, người quạt, thui dê. Lửa bập bùng sáng vụng, sáng các tàu gần tàu xa. Chuyện trò râm ran, trêu nhau trong lúc pha thịt dê, nấu nướng. Mùi thịt dê lan tỏa gọi thuyền viên các tàu bạn ra đứng trên boong nhìn sang. Tất nhiên bữa rượu buổi tối vui nổ trời.

Chỉ với chuyện giết dê ra quân, Thăng đã thắng trong việc nắm lấy cương vị thuyền trưởng của mình. Và chuyến biển sau, chỉ nhìn đám thủy thủ VT 114 hò reo khiêng chiếc neo lên tàu, đầy khí thế, các tàu bạn đều biết Thăng đã xốc được con tàu vốn mất đoàn kết triền miên...

Ớ tuổi ba lăm, Cương xác định đời mình còn làm thuyền phó dự bị dài dài. Anh không đủ đạn bắn để được định biên ở một con tàu. Bộ khung tàu đã được cố định từ lâu. Mà ai cũng biết nằm trong một bộ khung quan trọng như thế nào. Trước tiên là đồng lương, là các khoản chia chác dưới tàu, là sự ổn định về nghề nghiệp, là sự tự thể hiện mình, sự vững chắc trong việc thăng tiến, đề bạt. Là cái bàn đạp tạo điều kiện để mình từ đấy đi lên. Và từ hai năm nay, được biên chế vào một ban chỉ huy tàu còn có nghĩa là con đường đi vận tải nước ngoài rộng mở. Đấy mới là điều căn bản. Xuống Hạ Long 01, Hạ Long 02 là đổi đời. Lại còn thằng Hạ Long 19 mới thật siêu hạng. Bọn Vosco mạnh thế nhưng đứng trước thằng 19 cũng chỉ là con tép. Một trăm thằng Vosco không bằng cái xô Hạ Long 19. Đã biến thành câu ca rồi. Ghê gớm thế. Mà cái xô của thằng Hạ Long 19 thì kinh thật. Một xô đồng hồ Seiko 5 chẳng hạn. Hay một xô thuốc con nhộng. Bao nhiêu tiền?!

Cương không bao giờ mơ tưởng tới số độc đắc ấy. Từ lâu anh đã học được cách xác định vị trí của mình như xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Anh cũng là một mục tiêu nằm ngoài hải đồ. Chẳng ai để ý đến anh. Lúc anh tự động viên rằng đời mình còn đang trong giai đoạn chuẩn bị. Lúc lại nghĩ cố kiếm cho được cái bằng thuyền trưởng rồi phới khỏi nơi này. Lúc chẳng nghĩ ngợi gì, thôi thì nước chảy bè trôi, được đến đâu hay đến đó. Lang bang tàu này tàu khác rồi lại trở về cái quan tài sắt. Là thuyền phó dự bị, ở đâu thiếu người đột xuất, người ta điều anh xuống. Một thuyền phó nghỉ để cưới vợ. Một thuyền phó sốt xuất huyết. Một thuyền phó vừa nhận điện: Bố chết. Về ngay. Tổ chức điều anh đến lấp lỗ hổng. Đi một chuyến. Đi hai chuyến. Khi vị thuyền phó vắng mặt kia hết phép hay đã từ bệnh viện trở về, trình diện phòng tổ chức, Cương biết mình lại sắp quay lại tàu 307, con tàu bẹp, nằm tít cuối cảng, gần đà nổi, tiếp giáp với xưởng đóng tàu, một chiếc quan tài sắt, chuột nhiều gấp mấy lần toàn bộ số cán bộ thuyền viên khối dưới nước, đói rách thiếu thốn trăm bề. Ớ đó anh là thủ trưởng.

Cùng trông nom con tàu bẹp với anh có ba người nữa. Thuyền, một thủy thủ to béo, nặng có dễ đến 80 ki lô, đi Hong Kong cả chục năm về trước, khi con tàu Hạ Long 02 mới nhận về, còn đang trong thời hạn rốt đa, được vài chuyến thì bị bắt, tòa xử tù ba năm vì tội buôn lậu bốn ki lô đá lửa. Thời ấy căng lắm. Chỉ bốn ki lô đá lửa thôi mà bị tù ba gậy, chứ không như bây giờ, chẳng ai đi Hong Kong lại chỉ buôn mấy ki lô đá lửa! Thuyền là người đầu tiên Cương gặp khi nhận nhiệm vụ thuyền trưởng cái quan tài sắt này, một con tàu mà người ta nói là chờ đi đại tu ở nước ngoài. Thuyền cũng đã mấy lần đánh thuê cùng anh ở các tàu khác. Thấy anh xuống tàu, Thuyền reo to:

- Chào thủ trưởng.

- Chào ông bạn.

- Thủ trưởng vẫn ăn chơi đấy chứ?

- Không. Nhận tàu rồi.

- Tàu nào?

- Chính cái 307 này.

Thuyền vỗ hai tay:

- Hoan hô! Thủ trưởng đây rồi! Nhưng như thế tôi bị mất chức à? Tôi đang là thủ trưởng ở đây.

Cả hai cùng cười. Thuyền kéo anh vào cabin. Con tàu thật thảm hại. Những bộ phận máy móc nào còn dùng được người ta đã tháo, lắp cho các tàu khác, thực hiện nghiêm chỉnh chủ nghĩa giết thịt như anh chàng Khoa kỹ sư máy phòng kỹ thuật đã nói. Nắp gang cửa sổ bong hết sơn. Mấy chiếc chiếu chất đống ngay dưới chân hộp lái. Một cái thùng gỗ có nắp cẩn thận đặt ngay cửa lối đi vào phòng thuyền trưởng.

- Thế này đấy thuyền trưởng ạ.

Thuyền nói như khoe cơ ngơi và lại đứng nhìn anh cười khơ khớ.

- Thủ trưởng đừng buồn. Sông có khúc, người có lúc.

Thuyền biến đi đâu mất rồi trở về với chai rượu cam đỏ sóng sánh đặt trên hộp lái. Rồi lại biến mất.

Việc đầu tiên là đi thám hiểm con tàu cái đã. Hoang vắng. Tối tăm. Gỉ sét. Bụi bặm. Ẩm mốc. Chuột chạy loạn xạ. Có con đâm cả vào chân anh. Một chiếc xe cuốc Liên Xô nhãn hiệu Sputnik (của Thuyền) bóng loáng đặt giữa hành lang - lối đi thẳng xuống bếp và ra boong lái - là dấu hiệu có sự sống của con người trên con tàu này. Anh đứng nhìn cái tơi han gỉ, cái ru lô quấn cáp với những vết siết lõm sâu vào trục thép, dấu vết còn lại của một thời cày cuốc bền bỉ, cần cù, vất vả, các bánh xe răng cưa đều một màu nâu của sắt gỉ và không thấy dấu vết một giọt mỡ. Anh trở vào câu lạc bộ. Bàn ăn, cơm rải rác khô cong. Chiếc gương treo trên bô rửa mặt bụi bám đầy. Chợt Thuyền hiện ra, tay xách một túi nặng.

- Gì đấy?

- Xin bên linh chín đây.

Thuyền dốc túi ra ngoài boong. Mấy khúc cá kẽm. Vài con mực. Thuyền đứng nhìn đống thức ăn và nhìn Cương. Lại cười thưởng thức chiến công của mình. Khơ khớ.

- Nào, món gì đây? Thủ trưởng cho thực đơn.

- Đế vương quá nhỉ. Ông trông tàu này béo trắng ra.

- Thủ trưởng nói oan quá. Hôm nay có thủ trưởng về gọi là chiêu đãi tí chút đấy thôi. Còn mọi hôm cứ là đi lang thang. Tàu chén vài bữa. Tàu chén vài ngày. Tôi với thằng Nhược mỗi thằng một phương, tùy nghi di tản. Cơm niêu nước lọ làm gì. Suất gạo còn nguyên, đèo về cho mẹ đĩ. Tốt. Khớ khớ.

Thuyền bóp vai Cương. Thuyền có bàn tay cứng như sắt làm Cương lệch một bên vai nhăn nhó.

Với cái nhanh nhẹn tháo vát vốn có của người thủy thủ, Thuyền thoăn thoắt lôi trong gầm ghế ra con dao và cái chậu men, vớ lấy cái cần máy bơm tay, kéo bên nọ, ấn bên kia. Hụp. Hụp. Nước từ vòi chảy vào chậu.

- Vẫn có nước kia à?

- Nước nhiều. Điện thì câu từ bờ xuống.

Thuyền rửa cá, làm mực và bê vào bếp đặt lên bàn ăn, ngả thớt thái.

- Bếp dầu trong buồng anh nuôi, chìa khóa trong túi đây. Tay tôi bẩn, anh lấy hộ. Đem lên cabin mà nấu anh ạ.

Vừa nói Thuyền vừa nghiêng người chìa miệng túi quần về phía Cương. Chỉ một lúc sau mùi xào nấu đã thơm lừng.

Cương ở lì dưới tàu mấy ngày không lên đến cầu cảng. Thuyền mỗi ngày vài lần lấy xe cuốc đạp đi rồi đem về nào chè nào thuốc lá, rượu bia, rau sống, chanh ớt tỏi... Tối tối hai anh em trải chiếu dưới cái trụ đèn hàng hải nằm tâm sự. Thuyền lúc nào cũng cười khơ khớ. Ngay cả khi nói về thời gian đi tù của mình, về những gian nan của Cương.

- Thủ trưởng cứ ở đây. Rồi sẽ lại có lúc tung hoành. Bây giờ có buồn cũng vậy, có sốt ruột cũng vậy. Thủ trưởng tính tôi không đau à. Chỉ bốn ki lô đá lửa. Đúng một hộp. Mà chơi ba niên. Bây giờ chúng nó buôn hàng vạn đô la. Ông Phiến một chuyến đánh hai trăm cái Seiko, năm thùng thuốc con nhộng. Công an, hải quan bảo lĩnh. Nghĩ thôi cái số mình nó thế. Cùng khóa với tôi, thằng Thiết thuyền phó một rồi. Lính của tôi đều là thủy thủ trưởng, mèng ra cũng bậc ba. Tôi vẫn bậc hai. Lên hỏi tổ chức các ông ấy trả lời: Lương của cậu đúng là bất hợp lý rồi. Nhưng dưới tàu phải có văn bản đề nghị. Lên bậc của thủy thủ do xí nghiệp quyết định, không phải đưa lên trên. Dễ thôi. Cứ có chữ ký của thuyền trưởng là chúng mình giải quyết. Nhưng anh tính mò đâu ra thuyền trưởng ở cái tàu bẹp này mà lấy chữ ký hở anh? Thế là cứ bậc hai tràn thôi. Kỳ này thuyền trưởng về đây, xin thuyền trưởng một chữ ký đấy khớ khớ...

Trước đây Cương chỉ biết Thuyền qua loa. Hai người cùng được điều xuống đánh thuê ở một tàu, anh với chức danh phó một, còn Thuyền với chức danh thủy thủ. Quan hệ giữa hai người không có gì đặc biệt. Mãi giờ đây anh mới hiểu Thuyền. Thuyền sống như thế này mà chịu được. Bao nhiêu lâu rồi. Cứ cười. Cứ tươi. Chả bao giờ rên rỉ. Anh nói vui:

- Trước đây tôi là thuyền phó không tàu. Bây giờ có tàu rồi. Một con tàu thật tuyệt vời!

- Thế. Thì thế mà lại. Khớ khớ. Tôi cũng có tàu. Khớ khớ. Nhưng anh tính con tàu này không lừng lẫy một thời à? Trước đây ai được xuống cái linh bảy này là phải thế nào chứ? Mấy năm liền lá cờ đầu. Rồi chụp ảnh. Đăng báo. Bây giờ thì thế đấy.

Ngừng một lát, không thấy Cương nói gì, Thuyền tiếp tục dòng hồi ức:

- Nó bị bắn ở Hạ Mai. Ngày ấy tôi đang là thủy thủ thực tập. Đêm, tàu tôi đi trước, linh bảy đi sau. Ông Bửu đang nói phôn với ông Long bên này: Nhiều máy bay lắm. Tôi đang ở Hạ thì im bặt, không nói tiếp được chữ Mai nữa.

Thuyền bật cười:

- Nhưng mà công nhận đi chuyến đầu tiên sợ thật. Tôi vừa cầm giấy giới thiệu của trường đến, các ông ấy điều xuống chính cái linh bảy này. Ông Phiến còn đang làm thuyền trưởng. Chập tối tách bến đi. Thủy lôi nổ đằng trước, thủy lôi nổ đằng sau. Ông Phiến rên lên: Khéo chết mất Thuyền ơi. Mà sợ thật anh ạ. Thủy lôi sáng lòa trước mặt. Tàu dựng lên. Có cái gì đánh rất mạnh vào ngực. Tôi đứng mà ngã ngửa ra. Sờ tay lên ngực thấy nhun nhũn ươn ướt tưởng mình trúng bom chết đến nơi, bèn hô to “Hồ Chủ tịch muôn năm!” nhưng chờ mãi không chết, cũng không thấy đau, hóa ra là một con mực bị hất từ dưới biển lên. Đi đến phao zéro rồi ông Phiến còn lắc đầu: Nguy hiểm quá mày ạ. Chết mất thôi. Lần sau xí nghiệp điều chở vũ khí cho quân khu Bốn ông ấy nhất định không đi nữa. Ông Liễn đi. Ông Liễn gan thật. Mà cũng tài. Mấy chục chuyến chẳng việc gì.

Khi những chuyện ấy xảy ra, Cương còn đang ở trong B. Còn chưa học hết phổ thông, còn là lính mới. Có đợt tuyển quân, Cương bàn với bố mẹ xung phong đi. Đó là lối thoát duy nhất của Cương để sau này còn có thể có tương lai. Là con địa chủ, không được đi học, lên mười Cương mới được vào trường. Ớ lớp nào, năm học nào, Cương cũng là cậu học sinh lớn nhất lớp, được các bạn gọi bằng biệt hiệu “phụ huynh”. Nó xuất xứ từ cái lần một giáo viên chủ nhiệm lớp dưới họp phụ huynh thấy Cương một mình đi lang thang ở hành lang, đã hỏi Cương:

- Anh họp phụ huynh lớp nào ạ?

Khó khăn nhất trong việc nhập ngũ của Cương là anh chưa phải đoàn viên thanh niên lao động. Rất may, người em họ mẹ Cương, cậu Kế bí thư đoàn xã, đã lo được cho Cương cái lễ kết nạp đoàn cấp tập và giấy giới thiệu chuyển sinh hoạt, căn cước chính trị chỉ những người như Cương mới thấy quan trọng như thế nào. Cậu Kế chắc cũng chẳng gặp khó khăn gì lắm vì Cương đi bộ đội nghĩa là đảm bảo cho việc thực hiện khẩu hiệu “gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người” của xã, và cũng có nghĩa con ông chủ tịch cùng lứa tuổi với Cương đàng hoàng lên đường đi học công nhân kỹ thuật bên Cộng hòa dân chủ Đức mà không ai có thể nói năng gì. Anh bỗng nhớ đến đồng chí chính ủy Trần Dương. Không có đồng chí Dương, anh sẽ ra sao? Chắc chắn không như thế này. Cuộc đời có rất nhiều yếu tố chi phối, cái tốt cái xấu, đan dệt nhau với bao ngẫu nhiên tạo nên số phận một con người. Chẳng hạn nếu buổi chiều hôm ấy, về đơn vị an dưỡng, anh không ngồi một mình ở bờ suối và không gặp chính ủy ở đấy để hai người trò chuyện rồi sáng hôm sau chính ủy cho gọi anh lên, bảo anh chép lại cái báo cáo, và sau đó kéo anh về làm công vụ...

- Ông Liễn là người tôi rất phục.

- Ông ấy vừa bị khai trừ về tội lấy vợ hai. Sau kỳ ấy được kết nạp lại ngay.

Phan Đình Liễn, người thuyền trưởng bình thường như trăm nghìn người khác, nói ít người nghe, đánh cá không giỏi, vừa bị án kỷ luật bỗng sáng ngời lên vì những chuyến đưa tàu vượt thủy lôi chở vũ khí vào khu Bốn, giờ đã nghỉ hưu, đi thuyền đánh cá thủ công, chẳng ai còn nhớ đến. Người ta chỉ nói đến Phiến. Ngô Đình Phiến. Thuyền trưởng tàu Hạ Long 10. Con tàu chở tôm cá đông lạnh đi Hong Kong, Singapore, Nhật Bản. Người ta nói đến số chuyến đi nước ngoài của Phiến, đến sự giàu có không thể tưởng tượng nổi của Phiến, đến chuyện nhất định không chở vũ khí vào khu Bốn của Phiến và rút ra kết luận: Trên đời này phải có ô dù. Không có cây Kơ nia là không sống được.

Mãi sau bữa cơm chiều tàu bố tôi mới tách bến. Suốt cả ngày hôm ấy mấy chú thợ trên bờ vẫn còn sửa tơi. Vặn ra. Lắp vào. Thử. Cái tơi chuyển động như sấm ầm ầm. Hai con lợn vẫn thản nhiên nằm ngay ở cửa lối vào nhà vệ sinh, chẳng buổn động đậy. Hình như chúng đã quen rồi. Tàu lấy thêm đá. Những thoi nước đá nặng trôi trên băng chuyền cao chạy từ nhà máy lạnh, trồi sụt nghiêng bên này lắc bên kia, lao vào mô tơ. ơ đấy nó bị đập vỡ thành những cục đá nhỏ trút theo máng xuống hầm tàu. Đá bị đập bắn ra rơi vãi nhiều. Đá vụn rơi xuống mặt cầu cảng đọng lại thành vầng, tan thành vũng, phí quá. Đứng ở đó mát lạnh cả người vì hơi nước đá xông lên dù đang giữa mùa hè. Tôi giơ tay hấng một nắm đá vụn cho vào mồm. Mát không chịu được. Giá ở Bắc Giang trưa nào chúng tôi cũng được một ca đá này mà uống nước. Xe xích lô chở rau tới. Rau được đưa xuống hầm đá. Thịt cũng được đưa xuống đó. Tôi nhòm xuống hầm. Hầm sâu và rộng. Ngọn điện làm hầm đá sáng lóa như tuyết. Bác Nhớn cấp dưỡng khệ nệ xách xuống tàu một can chíu chương, một bọc chanh ớt, tỏi to đùng. Chú Hồng, chú Sơn, cả hai chú đều còn rất trẻ và đều là thủy thủ đang vục những bàn tay đã bọc trong túi ni lông vào trong thùng mỡ lấy mỡ vuốt vào những sợi cáp ở boong lái. Trông thấy tôi, các chú bảo:

- Nghịch đây. Hết việc rồi nghịch đây. Có nghịch với chúng tao không thằng cu?

Tôi đứng xem các chú làm. Quần áo bảo hộ lao động bẩn thỉu, đen đúa, dày cộp dầu mỡ. Cái áo của chú Hồng như bị quạc vào đinh, rách một miẽng ở bả vai, phật phờ, nom rõ làn da rất trắng của chú ấy. Tôi ngạc nhiên: Sao mặt chú Hồng xạm mà người chú ấy trắng thế. Các chú vuốt mỡ vào đoạn nào đoạn ấy thẫm đen lại trông như mới. Những đoạn đã vuốt mỡ được khoanh riêng.

- Bố mày khoán chúng tao buổi sáng nay chỗ này đây. Phải năng suất lắm mới hoàn thành đấy cu ạ.

Bỗng chú Hồng kêu lên bảo chú Sơn:

- Giẫm vào một cục mỡ rồi. Trừ năng suất!

Chú Sơn nhìn xuống chân: Một chiếc giày bảo hộ lao động bê bết mỡ. Chú Sơn cười:

- Làm sao trừ được năng suất của tớ. Vì đây là mỡ nên nó mới bẹp, còn nếu là một chất rắn thì nó vẫn còn nguyên dưới chân tớ hoặc bắn ra ngoài theo đúng định luật vật lý học.

Đang lúi húi làm việc, bỗng chú Hồng ngẩng lên, ngơ ngác:

- Tàu nào to thế nhỉ?

Rồi nhìn ra phía giữa sông: Một con tàu lớn trắng toát tiến vào, dài, cao, như một dãy phố nổi. Con tàu lừ lừ trôi gần như không một tiếng động với những hàng cửa sổ tròn, những cần câu, những phao khoanh trắng khoanh đỏ, những chiếc xuồng đặt trên boong cao ngất. Lố nhố những “ông Tây” và có cả những “bà đầm” nữa đứng vịn lan can nhìn về phía chúng tôi.

- Tàu Đác-ta-nhan!

Chú Sơn kêu lên. Tôi hỏi chú Hồng:

- Sao chú biết có tàu to vào?

- Sóng. Sóng, mày không thấy à?

Lúc bấy giờ tôi mới để ý thấy tàu chúng tôi bị sóng từ con tàu vừa đi qua nâng lên hạ xuống. Đác-ta-nhan đi qua rồi nhưng những con sóng vẫn đổ bờ. Sóng to, tàu chúng tôi bị sóng hút xuống nom rõ cái dầm gỗ ốp cạnh mặt cầu bảm đầy vảy cả rồi lại dâng lên, thành tàu che khuất mặt cầu. Chú Hồng khen tôi:

- Thằng con ông Đảng này cứng sóng đấy. Lớn lên đi biển được đấy.

Đến lúc ấy tôi mới biết tôi là người chịu được sóng, có thể đi biển được. Điều ấy càng nung nấu quyết tâm trở thành thuyền trưởng của tôi. Như bố tôi bây giờ. Hay như ông thuyền trưởng Đác ta nhan vừa qua đây. Chao ơi! Còn gì sung sướng hơn làm thuyền trưởng một con tàu như tàu Đác ta nhan vừa qua đây, cùng nó đi khắp nơi trên trải đất. Hai chú còn bảo bố tôi chịu sóng kém, chỉ loại hai thôi. Chịu sóng giỏi phải là chú Hùng lùn, ông Suất máy trưởng, bác Nhớn. Hai chú Hồng, Sơn cũng chỉ như bố tôi, loại hai.

- Mày loại một đấy cu ạ.

Câu nói ấy làm tôi như lớn hẳn lên. Tôi nhớ đến đám bạn học. Dù chưa học cấp ba, nhưng chúng tôi vẫn thường thảo luận với nhau về ngành nghề khi thi vào cảc trường đại học. Mỗi đứa nêu một ngành nghề khảc nhau. Bách khoa. Giao thông. Lũ con gái trong đó có cái Nhã thì thích sư phạm. Chỉ có tôi thích hàng hải. Cả thằng Toán nữa. Thằng này ngồi cạnh tôi, đã đến nhà tôi chơi và gặp bố tôi. Cu cậu lúc đầu thích ngoại thương nhưng sau cũng theo tôi nói thích hàng hải. (Nó cũng nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên). Nhưng không biết mày có chịu sóng được như tao không? Tôi nói thầm với nó và thấy hãnh diện về mình.

Đến bữa cơm chiều mọi công việc mới xong. Chúng tôi ăn đứng quanh cái tơi vừa sửa, ngay cửa ra vào bếp. Cũng vì trời nóng quá. Đứng gió. Chiều mới đỡ một tí. Nhất là khi mặt trời chui vào đám mây thành đằng tây. Mấy xoong canh được đặt trên nắp hầm cá. Mỗi xoong là một mâm. Ăn mâm nọ rồi sang mâm kia cũng được. Hết cơm thì vào bếp mà xúc trong vạc. Rau muống khoai sọ nấu tôm. Cà pháo. Thịt kho. Cơm nước xong tàu tách bến. Tôi tụt vội xuống buồng máy xem bác Suất khởi động máy, điều tôi vẫn ao ước từ khi đặt chân lên tàu. Bác mở cái cánh cửa sát cabin mũi, một cầu thang sắt dốc đứng hiện ra, dẫn xuống một vùng ánh sáng mờ mờ. Bác bật một ngọn đèn ắc quy. Cỗ máy chính đồ sộ nằm dài với những dãy cò mổ, những ống cong cong đều tăm tắp, những núm tròn... Lại còn hai cái máy nhỏ đặt giữa những lưới thép bảo hiểm, những hộp hình chữ nhật sơn xanh đóng kín. Nhằng nhịt đủ các thứ, các kiểu hình dáng toàn bằng sắt thép đặt ở mọi chỗ, những núm nhựa xanh đỏ, những đồng hồ với những dòng chữ nhỏ li ti. Tôi nhìn máy móc trong hầm máy và lè lưỡi nhìn bác Suất, vô cùng kính phục. Không biết bác đã học bao nhiêu năm để hiểu được những máy này, điều khiển được nó lại còn sửa chữa được nó. Thấy tôi loăng quăng chỗ nọ chỗ kia, bác Suất quát:

- Cẩn thận không ngã! Trơn lắm đấy!

Tôi đứng lại cạnh bác. Sàn buồng máy là một lớp sắt có những đường gân chéo nhau hình quả trám, ánh điện từ những chiếc bóng hình bầu dục màu trắng sữa hắt xuống óng ánh. Hình như có một lớp dầu mỏng phủ trên sàn sắt. Từ tít trên cao, ánh sáng buổi chiều chiếu xuống yếu ớt qua các cánh cửa sổ hình chữ nhật. Buồng máy sâu lắm. Buồng máy thấp hơn đường nước bên ngoài. Bác Suất bảo thế. Bác lấy tay vặn một bộ phận nào đó rồi gạt nhẹ một thanh thép nhỏ. Từ một cái hộp tròn, một ống thép trắng bóng thoi ra. Nó đẩy cái tay sắt thẳng đứng sơn nâu. Cái tay sắt đó xô cả một khối thép tròn về phía sau. Một tiếng thở dài to kinh khủng làm tôi giật mình. Như tiếng thở dài của con quái vật khổng lồ. Bác Suất bảo tôi:

- Hơi ép đấy. Nó xì qua ống thoát.

Thế rồi tiếng máy tàu ầm ầm, lúc đầu còn như ngập ngừng, nghe ngóng rồi mỗi lúc một rền lên điếc đặc cả tai. Có tiếng rẹt rẹt. Cái tay chuông dưới chân bác, giống hệt cái tay chuông trong phòng lái cũng nhãn bóng ánh đồng thau sáng lên ở một ô. Bác Suất kéo cần điều khiển cho mũi tên đồng nằm vào ô sáng đó. Tiếng máy tàu vẫn rền rền nhưng nhẹ đi. Tàu rùng rùng làm chiếc xô dầu đặc đặt trên sàn buồng máy lồi lõm như có những giọt mưa rào bắn vào. Tôi vội nắm thang sắt trèo lên hành lang nhà bếp rồi vượt nhanh mấy bậc cầu thang sắt xoai xoải tới buồng lái. Bố tôi đang đứng đó với chú Hồng quay vô lăng, cả hai chăm chú nhìn về phía trước. Hóa ra tàu đã chạy được một quãng khả xa. Phía bên trái là những bãi sú xanh um, bên phải là một nhà mảy lớn không biết là nhà mảy gì và sau đó là những mái nhà tranh nhỏ bé. Còn lại chỉ là bãi sú. Nhiều tàu đi ngược vào phía trong bờ. Họ biết bố tôi và giơ tay vẫy bố hoặc thét lên một câu gì đó nghe không rõ khiến tôi rất tự hào. Khi ở buồng mảy, tôi kính phục tài năng của bảc Suất, đổng thời tự hào về bố tôi. Bố tôi lãnh đạo được cả những người giỏi như bảc Suất. Giờ đây tôi thêm tự hào về bố. Bố quen biết rất nhiều người tài giỏi và, quan trọng hơn, những người này đều tỏ ra yêu quý bố.

Trông nom con tàu bẹp với Cương còn có Kích, một máy trưởng tính hâm hâm, làm như trâu nhưng không thích là không nhúc nhích, bực lên chửi tất cả, chẳng chừa một ai. Và anh chàng Nguyễn Văn Nhược, nguyên thợ lạnh trên bờ (công nhân của nhà máy nước đá) kiêm thợ điện. Trước khi về 307, Nhược đã là một người nổi tiếng. Dạo ấy Nhược được điều từ phân xưởng lạnh tới văn phòng, trông nom điện cho khu cơ quan, một công việc nhàn nhã bao người thèm muốn. Một buổi trưa, Nhược được giao nhiệm vụ lên nhà ăn bưng hai suất ăn trưa về để giám đốc tiếp khách. Ngày ấy căng tin chưa thi công xong, còn đang đào móng dở dang. Mà xí nghiệp lại ở mãi đầu phía đông thành phố, đường đi lối lại còn đầy những ổ gà, ổ voi to như hố bom lúc nào cũng có nước, nên chỉ ăn tối mới đánh xe ô tô đưa khách lên phố, còn bữa trưa ăn ở nhà ăn, và sau này khi căng tin đã hoàn thành thì ăn ở căng tin, cũng đủ các món, đủ các loại rượu, lại ở liền bên thật tiện. Mười giờ Nhược đã đi lên nhà ăn, cách non kilomet, cái nhà ăn ở kề trạm xá, giữa trung tâm xí nghiệp bao gồm mênh mông là đất đai, là xưởng lưới, xưởng lạnh, xưởng cơ khí, nhà máy chế biến hải sản...

Mười một giờ chưa thấy Nhược về, chánh văn phòng Điều vẫn bình chân như vại. Nhưng đến mười một giờ mười lăm mà chẳng thấy cái bóng cao kều của Nhược đâu thì đã nghe như có điều gì không ổn rồi. Bà Nga, một nhân viên chuyên đi mua văn phòng phẩm được chánh văn phòng giao nhiệm vụ “đạp xe lên nhà ăn cho tôi, gặp thằng Nhược đâu thì bảo nó lên xích lô cùng với bà về ngay không chết cả bây giờ”. Việc đi lấy cơm này lẽ ra là của bà Nga, chứ không phải của Nhược. Từ Viện nghiên cứu quanh năm đói rách, bà được ưu tiên chuyển về đây khi sắp đến tuổi hưu là để chạy văn phòng phẩm và làm những công việc linh tinh khác. Đi lấy cơm đích thị công việc linh tinh rồi. Nhưng Nhược cũng rỗi. Hai người cùng rỗi tất nhiên Nhược phải đi. Bởi vì bà Nga là chiến hữu với chánh văn phòng, và dư luận vẫn xầm xì rằng trong việc mua văn phòng phẩm có nhiều thứ phải mua ngoài, bà Nga đều nâng giá, và được chánh văn phòng duyệt chi, đó là cửa làm ăn của hai người.

Bà Nga lên xe đạp hối hả và trở về với vẻ mặt ngơ ngác: Nhà ăn nó bảo thằng Nhược về lâu rồi, từ lúc mười một giờ kém mười lăm cơ. Hai chai bia Tiger to, một đĩa tôm rán, một đĩa chả mực, một liễn canh sườn ninh khoai sọ với rau rút... Thôi thôi bà ơi. Đang đói. Bà kể những thứ đó ra làm gì. Bà quay lại một lần nữa xem, nó có giạt vào hàng vào quán nào nghỉ không. Thấy nó thì bảo nó lên xe xích lô về ngay. Còn bà cũng đạp ngay về báo cho tôi biết chứ không giám đốc lại đổ ấm chè cũ pha ấm chè mới rồi. Việc hết, quá trưa bụng đói mà cứ chè đặc uống có chết người không cơ chứ.

Mười hai giờ, bà Nga hối hả đạp xe vào sân, chưa dừng xe đã hốt hoảng: Đi các quán rồi, chẳng thấy nó đâu. Về từ sớm, mười một giờ... Chánh văn phòng xua tay ra hiệu im. Bà Nga còn chưa hiểu ra sao thì giám đốc và vụ trưởng vụ kế hoạch Bộ đã sóng đôi bước ra chiếc xe ô tô nổ máy chờ sẵn. Bà Nga thở phào:

- Phải lên phố ăn thôi. Phen này chết với giám đốc. Khi chiếc Toyota đã lăn bánh ra con đường bê tông dẫn tới cổng bảo vệ, chánh văn phòng kéo tay bà đến trước cửa phòng dành cho chị em tổ bốc cá lảnh ở một đầu nhà, giáp với nhà bếp: Trong phòng vắng tanh vì không có tàu về, chị em tổ bốc nghỉ, một mình Nhược đang ngồi bệt xuống nền đá hoa, duỗi dài hai chân, mặt đỏ chín và vẫn còn đang ngáp ngủ. Cơn buồn ngủ vì uống nhiều bia làm Nhược cứ díp hai con mắt lại, không sao giữ được.

Đó là sự kiện có một không hai còn được nhắc đi nhắc lại cả tháng trời sau đó. Mỗi người thuật lại câu chuyện theo góc độ của mình, có cả một tí thêm thắt. Và cười. Cười giòn. Ai cũng cười giòn. Nhưng bao giờ tiếng cười của chánh văn phòng cũng to hơn tất cả. Nhất là khi chính khổ chủ, giám đốc Trần Hữu Bằng thuật lại cơ đận cứ ngồi chờ bữa ăn trưa. Mấy trưởng phó phòng giúp việc đã về, chủ đã cho sổ sách tài liệu vào ngăn kéo, khách cũng đã cất kính vào cặp. Mà không thể nào đứng lên được. Không thể đứng lên mời khách sang phòng bên ăn trưa được. Lại pha ấm trà mới rồi hỏi sang chuyện trên bộ, hỏi thăm tình hình mấy tổng công ty trong ngành, hỏi cả sang chuyện gia đình, vẫn chẳng thấy ông Điều chánh văn phòng vào mời đi ăn cơm. Sốt ruột quá, chạy ra xem sao thì được biết văn phòng đã cho người đi lấy cơm cả tiếng đồng hồ rồi. Cuối cùng đành phải nói thật là bữa ăn trưa hơi bị trục trặc kỹ thuật một tí, và mời vụ trưởng lên khách sạn... Tôi cam đoan vụ trưởng không thể nào hình dung nổi sự cố kiểu như vậy. Sự cố ấy chỉ ở xí nghiệp mình mới có! Tất cả đứng giữa sân quây quanh nghe giám đốc kể đến chuyện chủ khách đã cất tài liệu đi rồi mà cứ ngồi uống chè đặc nhìn nhau không biết nói chuyện gì đều phá lên cười. Cười vì giám đốc không cáu (cơn cáu kỉnh đã qua đi rồi). Cười như cười một chuyện buồn cười nhất trên đời.

- Nó lại học Trạng Quỳnh, cho thủ trưởng ăn món mầm đá.

Chánh văn phòng nói rồi cất tiếng cười. Ngửa cổ ra đằng sau cười, cong người lại cười. Dài. Giòn giã. Có cung có bậc. Chờ đến khi chánh văn phòng đi, giám đốc mới nói:

- Tôi sợ nhất tiếng cười của ông Điều. Bị nhịn bữa trưa tôi cũng không sợ bằng. Sợ hơn bố chết.

Bà Nga, cháu Nhạn đánh máy, anh chàng Tín thi đua còn có tên là giò Tìu lại được một trận cười.

Cũng không ai phê bình kiểm điểm gì Nhược trong chuyện ấy. Hình như đến thế là hết rồi, chẳng còn gì để nói. Rõ ràng Nhược hâm. Mà hâm thì nói cũng bằng thừa. Chỉ có từ nay đừng bao giờ cho Nhược đi lấy thức ăn thức uống gì nữa. Nhược bị trả về xưởng lạnh. Phân xưởng lạnh trả Nhược về tổ chức. Nhược về khối dự bị vì trước đây Nhược là thợ lạnh dưới tàu. Cuối cùng, Nhược được điều về trông con tàu 307, dưới quyền của đại phó Phạm Cương.

Dưới tàu, những lúc buồn quá, Cương đã hỏi Nhược về chuyện ấy, chuyện cứ đàng hoàng ngả ra đánh chén suất tiếp khách của giám đốc. Nhược cao lêu đêu, da trắng môi hồng, trông rất thanh tú và trí thức, khác hẳn với nước da cháy nắng, kiểu nói oang oang ăn sóng nói gió của các thuyền viên, rất thành thật:

- Em cũng chẳng hiểu ra làm sao nữa. Mà có phải em đói khát thèm ăn thèm uống đâu. Tàu nào về chúng nó cũng mời em xuống ăn uống với chúng nó. Em đội trên đầu bữa ăn trưa, thấy nó thơm thơm. Đội lâu, đầu mỏi, lại nắng nữa, mới ghé vào quán bà Bảy uống chén nước, nghĩ còn sớm chán. Rồi mở ra nhìn thấy ngon quá. Lúc ấy lại thấy đói nữa chứ. Thế là quành vào Bãi Cát, hạ xuống. Mở lồng bàn ra. Nhón miếng chả mực trước. Cũng định làm một miếng thôi. Nhưng phải công nhận bọn nhà ăn làm chả mực quá ngon, em nghĩ cứ làm thêm miếng nữa. Lại bốc cộng rau thơm. Thế là thèm bia. Mới mở một chai. Tu. Đang tu thì bố Quân rỗ, báo vụ tàu 12 từ đâu đi ngang qua. Món gì thế này? Mà sao lại ngồi ăn ở đây? Vừa nói xong ông Quân rỗ đã ngồi sụp xuống giằng lấy chai bia tu một hơi. Anh biết ông Quân uống bia như thế nào rồi. Như hũ chìm. Ngon quá. Đang khát. ơ đâu ra mâm cỗ thế này mày. Tao chịu mày. Ngồi xếp bằng giữa giời mà nhắm thì vô địch. Bốc một miếng chả mực ăn, vừa nhai vừa nói vừa nhìn em. Em bảo: Cơm tiếp khách ăn trưa của giám đốc đấy. Ông Quân sững lại: Thật không? Chết. Thế thì gay. Mày liều thật. Đây. Tao đưa tiền mày chạy ra hàng bà Bảy mua hai chai Tiger, đội về ngay, không bỏ mẹ. Mày đi ngay đi. Tao ở đây trông cho. Em mở chai bia thứ hai: Anh em mình uống nốt chai bia này đã rồi em đi mua sau. Bây giờ vẫn sớm mà. Em san bia sang cái vỏ chai không, đo bằng nhau cẩn thận. Rồi cụng chai. Mỗi thằng một hơi và dốc ngược chai. Chiêu một con tôm rán đi ông anh. Đừng lo. Một chủ một khách ăn làm sao hết đĩa tôm này. Đĩa tây tôm to đùng cơ mà anh. Mỗi chúng em làm một con tôm rán. Rồi em cầm tiền chạy đi mua bia. Hóa ra được ba chai. Thế là phải hóa kiếp một chai. Lại san ra chai rỗng. Lại đo hai chai xem có bằng nhau không. Lại cụng chai, uống và nếm sang món sườn ninh. Thấy được. Hơi men đã bốc. Ngà ngà. Thuận tay em mở một chai bia nữa.

Ông Rỗ giật mình: Hăng thế. Cẩn thận. Toi mạng đấy. Toi cái gì mà toi. Ông anh cứ uống đi. Tội vạ gì thằng Nhược này chịu hết. Không đổ trách nhiệm cho ông anh đâu. Ông Rỗ rất láu, chỉ uống hết chai ấy rồi đứng dậy đi. Còn một mình em... Lúc ấy chẳng biết giời đâu đất đâu nữa.

Nhược đỏ mặt cười. Nhớ lại, Nhược ngượng. Chiến tích ấy làm Nhược quá nổi tiếng. Cả xí nghiệp, khối phòng ban phân xưởng trên bờ, anh em khối dưới nước, không ai không biết chuyện.

Còn Quân. Cũng đã có một thời gian Quân về tàu 307 làm lính dự bị của Cương. Đúng là Quân uống bia thì vô địch. Một buổi chiều, gần tan tầm, Cương từ phòng tổ chức bước ra (cũng phải la cà các phòng ban chứ, nằm mãi ở cái quan tài sắt chịu sao nổi) thì gặp Quân. Đại phó. Đi đâu đấy? Làm một vại chứ? Quân khoác tay Cương. Đi vài bước, đến đầu hồi nhà, Quân đã rời Cương ra, đứng úp mặt vào tường. Toa lét. Toa lét lâu. Mấy cô tài vụ ôm vai nhau ríu rít đi qua. Đám cán bộ phòng khai thác đi qua. Cương đứng chờ mà ngượng chín. Toa lét xong lại khoác tay Cương đi. Đến Ngã ba Đông Dương, nghĩa là ra khỏi cổng bảo vệ chỉ khoảng dăm trăm mét thôi, vừa vào đến quán bia, để Cương ngồi xuống ghế, Quân đã đi thẳng vào phía trong sâu hút. Khi trở ra, ngồi xuống bàn còn nói:

- Ông có toa lét, cứ thẳng vào trong, rẽ phải.

Vừa toa lét xong đã toa lét nữa rồi. Chắc Quân vừa rời khỏi một hội bia nào đó. Mặt Quân nom bì bì tai tái

thế kia là đã say lắm. Thế mà vẫn uống sáu vại nữa. Uống xếch. Không mồi. Không cả thuốc lá, chỉ bắn thuốc lào. Quân uống và bảo Cương rằng Quân vừa trốn thoát khỏi Túy, báo vụ tàu Hạ Long 21. Thằng cha ấy uống tởm không chịu được. Cái chuyến tàu từ Hong Kong về Sài Gòn hổi đầu năm, Túy với Tụy, em ruột Túy làm bên dầu khí, hai người lên khảch sạn, ngổi từ sảng đến chiều, uống hết ba két bia Heineken, hai chai John đen, Tụy chảy mảu dạ dày phải đi cấp cứu ở bệnh viện, còn Túy vẫn không việc gì. Tôi đi với Túy từ sảng đến giờ, chịu không nổi, về nó không cho về, mãi mới trốn được.

Cương nhìn đồng hồ. Lúc hai người ra đây là bốn giờ hơn. Thoát khỏi tay Túy để khỏi uống rồi lại kéo Cương đi uống. Lại cạn sáu vại. Lạ thật. Thế thì trốn khỏi Túy làm gì. Cương quá biết Túy. Cái dạo bia hơi còn khan hiếm, thỉnh thoảng phòng đời sống chở được mấy bom về, cả xí nghiệp như hội. Cánh tàu kéo lên. Các phòng ban túa ra. Huy động tất cả các loại cốc, chén, cặp lồng, chậu men, ca, bát, xô. Phòng nào phòng ấy, trong phòng, ngoài hè, dưới gốc bàng, người ngồi ghế, người ngồi xổm. Uống như chưa bao giờ được uống. Mùi bia ngòn ngọt nồng nàn. Vỏ lạc rang bay khắp nơi. Túy uống bằng xô. Nhiều người định uống bia thi với Túy, nhưng đến khi Túy ra điều kiện: Uống nhưng không được đi đái thì ai cũng chịu. Túy cười: “Uống bia hơi rồi đi đái, có mà uống cả ngày”.

Nhìn mười hai chiếc cốc chỉ còn dính bọt bia và thấy đã chiều tà, đã tan tầm, Cương bảo Quân:

- Về thôi. Mình uống thế đã rồi đấy.

Hai người vừa bước ra tới ngã ba, thì Dũng, cũng dân báo vụ, nhưng làm ở trạm thu phát trung tâm hớt hải hỏi Quân:

- Anh Quân có biết anh Túy đâu không? Anh ấy mượn xe đạp của em từ sáng đến giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu.

Quân làm ra vẻ khiếp hãi, lè lưỡi hất hàm về phía một cái quán bán mái sát với bờ tường Ty bảo đảm hàng hải. Cương nhìn về phía ấy. Túy người mỏng kẹt, áo sơ mi in toàn hình những con cá bơi, một tay ôm vít ngang bụng, đang còng người, vươn tay kia ra mổ mổ vào cô chủ quán bán bia, không nói được thành lời, chỉ khò khè như một con vịt đực. Cô chủ quán hiểu được thứ ngôn ngữ ấy. Cô rót từ can ra một vại bia hơi nữa cho Túy. Quân nhìn Túy rồi nhìn Cương. Lại lè lưỡi dài hết cỡ, lắc đầu khiếp hãi. Cương cũng cười. Về khoản uống, Cương không ngán bất kỳ ai, nhưng anh không uống cho đến chết như vậy. Ớ dưới tàu, anh cũng bị nhiều trận vãi cả linh hồn, nhưng uống suốt từ sáng cho đến tối thì không. Anh cũng biết mình đang hỏng dần. Ngày nào cũng phải có một tí men, không có là không chịu được. Cũng bởi vì nằm dưới tàu bẹp quá buồn, anh hay đi dạo các tàu bạn. Đến đâu họ cũng rót rượu, rót bia mời anh. Có những lúc anh không muốn uống, nhưng họ cứ rót, cứ ép. Hình như họ thương anh nghèo, số phận hẩm hiu. Mà Cương thì kị nhất cái tình thương ấy. Biết rằng chữ nghĩa năm năm đại học đang rơi vãi đi, của thầy giả lại thầy, Cương tìm đọc các sách về ván lưới, ôn lại lý thuyết thiên văn, đêm tối leo lên đỉnh cabin thượng làm những bài tập về xác định vị trí tàu qua các vì sao. Cương nhớ đến thầy giáo dạy thiên văn. Thầy bảo ở Vịnh Bắc Bộ chỉ có 88 chòm sao làm được thiên văn hàng hải. Còn sao Polaris tức sao Bắc Đẩu quanh năm không rời khỏi cực một độ. Khi mình đứng đúng ở Bắc cực thì sao trên đỉnh đầu. Cương chưa lên Bắc cực nhưng anh đã ở xích đạo. Đúng là khi mình ở xích đạo thì sao Bắc Đẩu nằm dưới đường chân trời, không nhìn thấy. Lần ấy vượt qua xích đạo trên một con tàu Liên Xô, cả tàu như mở hội. Thuyền trưởng mời rượu và gắn cho thuyền viên mỗi người một huy hiệu “Vượt qua xích đạo”. Cương nhớ đến thầy dạy luật hàng hải. Rất thú vị. Như luật Comoro. Nếu tàu hành trình đâm vào tàu neo mà tất cả mọi người trên tàu hành trình đều giơ tay thề trước Chúa là không có ý định đâm thì không bị kết tội. Cương đã đi săn cá voi khi thực tập ở Liên Xô. Trên tàu ăn muối. Như người đi săn con hươu con hoẵng trong rừng chưa bắn được thú nên chưa có thịt ăn. Cương đã nghe tiếng con cá voi cái ăn no dạo chơi và nằm thở phì phò trên biển Bắc... Cũng không ngờ anh lại được làm hộ chiếu, được sang Liên Xô, với cái lý lịch “đen ngòm” của mình. Có lẽ vì tấm huân chương anh đạt được trong những ngày chiến đấu ở khu Năm. Những ngày ấy đâu dám nghĩ tới ngày về. Chỉ một tháng đã phải bổ sung quân ba đợt. Cố mà giữ lấy phiên hiệu. Lính cũ chỉ còn dăm người. Bộ đội xanh xao vàng vọt vì đói, vì bệnh, vì không thuốc men, vì vác nặng. Xác lính ta lính ngụy chết thối rừng. Những đoàn lính ngụy bị bắt làm tù binh trông mới tiều tụy làm sao. Quần áo tả tơi. Ông quần cắt cụt, xé toang tới đũng để vừa đi vừa đái, bởi trong khi đang áp giải trên đường thì không một tù binh nào có thể dừng lại. Anh bao nhiêu tuổi. Dạ, con năm hai tuổi. Sao già thế còn đi lính cho nó? Dạ, con trốn nhưng không được. Con đâu có ủng hộ chính phủ Thiệu. Vừa lúc ấy một chiếc máy bay bay qua, người lính Sài Gòn kêu lên: Máy bay ông Thiệu đấy! Và biết mình lỡ lời, anh ta hét to: Máy bay thằng Thiệu đấy. Rồi hát rất đúng điệu, rất hùng hồn: Thề cứu lấy nước nhà thề hy sinh đến cùng, Việt Nam anh dũng xông tới. Vận nước đã đến rồi... Những ngày ấy về trạm điều dưỡng, mỗi ngày một trận sốt rét (giờ đây nghĩ lại vẫn thấy rùng mình) Cương không viết nổi lá thư. Mắt hoa, tay không cầm nổi cái bút. Nhưng vẫn phải đứng xếp hàng chờ gọi tên để nhận suất ăn, nếu không sẽ bị mất cắp. Những ngày ấy chỉ nghĩ đến mẹ và nghĩ đến những con đường Trường Sơn đang chờ đợi khi mình lại sức, lại mang súng hành quân. Nào ngờ đâu được làm công vụ ngồi com măng ca với thủ trưởng Trần Dương bên bờ Bắc. Một công việc nhàn nhã. Một công việc xa bom đạn và sốt rét. Thế rồi một hôm đồng chí Dương bảo Cương:

- Anh sắp nhận nhiệm vụ mới, chuyển sang ngoại giao, làm tùy viên quân sự ở nước ngoài. Trước khi đi anh muốn giúp em, cử em đi học sĩ quan chuyên nghiệp. Ý em thế nào?

Cương hơi hoang mang. Nghề chinh chiến không hợp với anh. Anh chẳng thích thú gì làm sĩ quan chuyên nghiệp. Đấy là chưa kể cái lý lịch của anh rõ ràng không thích hợp với con đường binh nghiệp. Nếu thủ trưởng biết bố Cương đã bị tòa án nhân dân đặc biệt kết án tử hình, và buổi sáng hôm thi hành án, bố đã bị bịt mắt trói vào cây chuối hột sau đình, đội hành quyết đã chuẩn bị sẵn sàng và ngứa ngáy chân tay chỉ muốn bóp cò súng, thì trời đổ mưa rào, không một ai đến xem, mà không có ai xem thì chẳng còn tí ý nghĩa giáo dục, phát động nông dân đứng lên nào, nên đội đã quyết định hoãn lại đến hôm sau. Cơn mưa đã cứu bố anh. Ngay buổi chiều, lệnh sửa sai về xã. Bố anh thoát chết. Bố anh chỉ là địa chủ thường mà không phải bí thư Quốc Dân đảng như bà con nông dân đã tố nữa. Cương chỉ muốn ra quân nhưng anh không dám nói thật điều ấy, sợ bị đánh giá tư tưởng.

- Báo cáo thủ trưởng, lý lịch của em thủ trưởng biết rồi. Em có được đào tạo sĩ quan cũng khó mà tiến bộ được. Cũng chỉ thiếu úy là kịch trần. Còn đi học cơ công thì em không muốn. Em xin thủ trưởng cho em tiếp tục đi chiến đấu.

Chính ủy nhìn anh như mới gặp lần đầu:

- Anh kỳ này sang ngành ngoại giao nên không mang chú đi theo được. Còn đi chiến đấu thì anh không cho chú đi đâu. Yếu như chú chiến đấu làm sao được.

Đến lúc ấy Cương mới rụt rè:

- Hay là em đề nghị thủ trưởng cho em ra quân có được không ạ.

Liều mạng nói ra điều ấy, Cương toát hết mồ hôi, sợ bị cho là sợ chết, cầu an hưởng lạc. Nhưng không. Chính ủy ôn tồn:

- Ra quân về nhà làm gì? Đi cày à?

Cương đã định vâng, nhưng lại nghĩ tốt nhất là nên nói thật:

- Em về đi học tiếp.

- Thật không?

- Báo cáo thủ trưởng thật ạ.

Cương không ngờ sự thành thật của mình lại đáp ứng đúng lòng mong muốn của chính ủy. Đồng chí chính ủy cho người về tận nhà, gặp bố mẹ Cương, thấy cả nhà quyết tâm cho Cương đi học tiếp, đã cho anh ra quân. Không những thế còn chỉ thị cho bộ phận hậu cần ưu tiên giải quyết cho Cương những nhu cầu cần thiết, nhưng anh chỉ xin hai bộ quần áo Tô Châu, cái mũ cối và bốn gói mì chính, thứ thực phẩm cực kỳ giá trị ngày ấy về làm quà cho gia đình và bà con thôn xóm. Anh học tiếp những năm cuối cùng ở phổ thông rồi thi vào đại học. Rồi đi thực tập ở Nga. Chuyện đi Nga của anh hẳn cũng có một người nào tốt bụng thông cảm với anh. Như đồng chí Trần Dương, chính ủy đơn vị an dưỡng đã tốt với anh.

Biết bao nhiêu mộng mơ nhưng rồi phải nằm trông con tàu bẹp. Những lúc buồn chán, không biết làm gì,

Cương viết một bài về xác định vị trí tàu khi mục tiêu nằm ngoài hải đồ với những công thức dài suốt một dòng, những phương vị vô tuyẽn ở cự ly gần có độ chênh giữa đường cong tà hành và đường cong vòng lớn không đảng kể. Bài viết được đăng trên một chuyên san của ngành. Cũng là để trí não tập thể dục một chút, và cũng là để cho mọi người nhất là mấy ông lãnh đạo biết trong đầu thằng Cương có những gì.

Khi viết thì hăm hở thế. Nhưng đến khi in rồi Cương mới biết mình mắc sai lầm. Trừ một lần bí thư khen mà anh nghĩ sếp cho uống nước đường, giám đốc và nhất là mấy ông tổ chức cho rằng đây là cách anh phản ứng về việc bố trí anh trông nom con tàu bẹp. Như một lời trách lãnh đạo không biết dùng người. Như một cách chơi trội với một số thuyền trưởng trình độ trung cấp, sơ cấp, đánh cá chỉ dựa vào kinh nghiệm. Vì vậy anh còn bị anh em khối dưới nước khích bác nữa. Cái biệt danh “phó tiến sĩ” của anh có từ dạo ấy. Đi đến đâu, cũng râm ran những lời chào phó tiến sĩ. Cương chỉ cười. Bây giờ anh không viết bài nữa. Nhưng thỉnh thoảng đêm đêm vẫn leo lên đỉnh boong thượng đánh mooc xơ bằng dàn chớp. Hoặc làm thiên văn. Bởi vì anh em đánh cá còn đêm nằm mơ những lưới chài, chứ anh thì mơ gì. Gia đình không. Vợ con không. Bố mẹ anh ở mãi quê. Em út cũng không. Không phải rồi. Em út có đấy nhưng cũng chỉ là kiểu ăn bánh trả tiền, buồn quá thì đi, chẳng lưu lại một điều gì để mà mơ, mà nghĩ ngợi. Đã có lần Cương nghĩ mình sẽ lấy vợ. Một nữ kỹ sư chuyên về ván lưới, học sau anh ba lớp. Cô Mơ, cán bộ phân xưởng lưới, sau chuyển về phòng khai thác, chuyên theo dõi ngư trường. Thư ký công đoàn, kiêm bí thư chi đoàn khối phòng ban, Mơ là một người gương mẫu về mọi mặt. Đọc báo đầu giờ, họp chi đoàn phát động thi đua chào mừng ngày thành lập Đảng, họp sơ kết phong trào thi đua vụ cá Nam, phát động vụ cá Bắc, tổ chức biểu diễn văn nghệ trong xí nghiệp và tham gia hội diễn toàn thành, Mơ đều là người chịu trách nhiệm. Rồi học lớp cảm tình Đảng. Rồi được kết nạp, được công nhận chính thức rất nhanh và vào chi ủy. Cuộc họp nào Mơ cũng là người phát biểu đầu tiên, nếu không là người điều khiển. Mọi người tới họp hay nghe đọc báo đầu giờ, thường kẻ trước người sau lại còn lan man chuyện nọ chuyện kia, con cà con kê, bao giờ Mơ cũng là người lên tiếng chấm dứt tình trạng ấy: “Các đồng chí ổn định trật tự, ta bắt đầu sinh hoạt”. Có lẽ vì mải mê phấn đấu, Mơ đã quên chuyện yêu đương. Ớ cái nơi con gái được coi là mì chính cánh này, ngoài ba mươi tuổi Mơ vẫn độc thân. Thoạt đầu người ta ngại một người có trình độ như Mơ, rồi mỗi năm mỗi tuổi... Đi đánh thuê chuyến nào về bến, Cương chưa kịp nộp nhật ký khai thác, Mơ đã xuống tàu gặp Cương hỏi han ghi chép. Vui tính, năng động, Mơ nói với anh về kết quả khai thác của các tàu bạn, và đánh giá cao khả năng của Cương, chia sẻ với anh những thiệt thòi anh phải chịu. Mơ đã mời anh về nhà Mơ bên Hổ Lao, gặp bố mẹ Mơ. Thế rồi khi anh trở về con tàu bẹp, Mơ cũng xuống trò chuyện với anh. Anh đã quen với độ cao của cô khi ngồi trong cabin nhìn cô đi ngang qua cửa sổ. Anh cũng đã nhận ngay ra chiếc xe đạp Thống Nhất sơn xanh của cô giữa hàng chục chiếc xe đạp khác mỗi khi anh lên khu vực cơ quan. Một hôm tan tầm, anh đang đi bộ ra cổng bảo vệ thì Mơ cùng bao người nữa đạp xe ngang qua. Thấy anh, Mơ dừng lại, hỏi:

- Anh đi đâu, lên đây em đèo.

Thật quá bất ngờ. Anh bám nhẹ eo cô, nhảy lên pooc ba ga trước bao nhiêu cặp mắt mà thấy lòng mình ngập tràn hạnh phúc. Một hôm khác, cô xuống tàu anh đi đánh thuê nhận một con cá song anh để dành phần cô. Tàu bốc cá đã ba ngày, đã trở lại vắng vẻ vì đã hết mùi tanh của cá. Anh vào hầm chế biến, mở tủ đông lấy ra con cá song để cô gói vào giấy báo. Rồi bưng nước vào tận phòng cho cô rửa tay. Cô vừa rửa tay vừa kể cho anh một chuyện vui. Chuyện cô Thịnh với anh chàng Tuyên văn phòng đảng ủy đi xin cá.

- Hôm ấy em cũng xin được cá nên về muộn. Cả khu cơ quan đã về hết. Thấy cửa văn phòng đảng ủy vẫn mở, em mới đi lên xem còn ai không, sao lại quên không khóa cửa thế này hay vẫn còn sinh hoạt tổ Đảng tổ công đoàn thì nghe thấy tiếng anh chàng Tuyên tận tít phòng trong: Nước đây rửa đi. Rồi tiếng cái Thịnh: Anh rửa đi. Em lau rồi. Anh có biết họ làm gì không? Đố anh đoán được.

Cương cười nhìn thẳng vào mắt Mơ:

- Họ... ấy à?

Mơ long lanh đôi mắt:

- Em cũng tưởng họ làm gì với nhau cơ. Nhưng hóa ra họ vừa chia cá xong. Mỗi người một gói. Tuyên đem nước vào cho cái Thịnh rửa tay, nhưng cô nàng lau tay rồi. Khiếp đứng bên ngoài nghe cứ như là họ vừa... sinh hoạt với nhau xong ấy.

Và Mơ cười ngặt nghẽo:

- Bây giờ thì ngược lại. Em rửa. Anh lau.

Cương đã ôm hôn Mơ ngay lúc đó. Mơ đáp lại cái hôn mới nhiệt tình sôi nổi làm sao.

Thế rồi một buổi tối đã hẹn trước, Mơ xuống tàu anh, con tàu 307 nằm mãi cuối cảng, lẻ loi đơn độc, cầu tàu không một ngọn đèn. Chỉ một mình Cương trên tàu. (Buổi tối Nhược, Thuyền, Kích thưòng về nhà ngủ). Hai người ôm nhau trên boong. Cương dắt Mơ vào buồng mình, rồi giơ tay tắt công tắc, bế thốc Mơ lên giường. Nhưng Mơ giãy giụa thoát khỏi tay anh, bật đèn lên ngay lúc đó. Thấy vẻ hoang mang ngơ ngác của Cương, Mơ kéo anh tới bàn tiếp khách:

- Từ từ chứ. Chuyện đã nào.

Hai người ngồi ghế. Chuyện. Chỉ Mơ nói. Cương cố trấn tĩnh, dằn mình nghe Mơ nói. Toàn chuyện công việc. Chuyện xí nghiệp. Chuyện các phòng ban. Làm ra vẻ lắng nghe, nhưng Cương cứ nhìn hai bàn tay Mơ đặt trên bàn và giơ tay nắm lấy. Mơ rút tay ra, bảo anh.

- Chuyện một tí đã. Đâu có đó mà.

Thế nghĩa là Mơ hứa sẽ cho Cương điều anh đang mong, Cương biết cái gì sẽ đến cùng anh. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Đừng tỏ ra mình chỉ chăm chăm tới chuyện ấy. Mặc dù anh muốn ôm lấy Mơ, hôn vào đôi môi kia, và cùng nhau ân ái. Có lẽ Mơ sợ, đây là lần đầu tiên đối với Mơ, lần đầu tiên đối với một đời con gái nên Mơ sợ, anh nghĩ. Lúc này trông Mơ mới đẹp làm sao. Hai hàng lông mày gọn cong mà anh gọi là lông mày trăng non. Đôi mắt nhìn anh mới tin cậy làm sao! Anh sẽ lấy Mơ, chúng mình sẽ lấy nhau Mơ ạ. Dù Mơ là bí thư chi bộ còn anh vẫn là quần chúng. Anh choàng tay lên vai Mơ, nhưng Mơ hất ra, cái hất ra hơi mạnh và quyết đoán khiến Cương giật thót người, tự trách mình đã không kìm giữ được. Anh sợ bị Mơ khinh và lại ngồi im ngoan ngoãn.

- Tí nữa nào. Để em kể nốt cho anh nghe. Cái Nghĩa ở đài trung tâm cũng không tốt với em đâu. Con ấy kèn cựa với em, phấn đấu hăng, không buổi sinh hoạt nào vắng mặt. Nó muốn vào chi ủy, nhưng vào làm sao được. Bố nó trước đây làm cho Nhật đấy. Nhà giàu lắm. Được kết nạp là may lắm rồi.

Rồi Mơ nói sang chuyện một anh bảo vệ, chuyển từ xí nghiệp gạch ngói sang đây, đã sửa lại lương từ 50 đồng thành 56 đồng, dễ lắm, chỉ lồng tờ quyết định vào máy chữ, đánh số 6 đè lên số 0 là xong thôi, kỷ luật Đảng sáu tháng, mãi mới được sinh hoạt. Chưa hết. Còn chuyện trưởng phòng Trần Văn Dưỡng của Mơ. Lẽ ra được kết nạp lâu rồi. Chỉ tại cái mồm. Kế hoạch mười nghìn tấn cá trên giao xuống là pháp lệnh, làm được đến đâu thì làm. Trách nhiệm thuộc về đảng ủy giám đốc về toàn xí nghiệp chứ đâu thuộc về mình. Cứ lên tiếng phản đối. Kỳ này cũng thuộc diện đối tượng rồi đấy. Em bảo: Anh cứ ngậm miệng cho em nhờ. Làm thế nào thì làm. Đừng để bất kỳ một đảng viên nào trong chi bộ phản đối. Chi bộ cũng đã đặt chỉ tiêu trong năm nay phát triển từ một đến hai đảng viên...

Tai Cương ù đi. Hoàn toàn không hiểu Mơ nói gì. Có lúc muốn vùng lên chạy ra boong. Nhưng vẫn ngồi cố làm ra vẻ chú ý lắng nghe để Mơ khỏi khinh mình là người xác thịt. Cho đến khi Mơ đứng lên tắt điện rồi nhẹ nhàng cởi bỏ hết áo quần, nằm trên giường, Cương vẫn ngồi trên ghế, thần kinh ê ẩm, chân tay rã rời như vừa trải qua một thử thách quá sức gần như tra tấn. Đừng vội vàng, hãy ngồi lại đây một lát để bình tĩnh lại, đã cố được đến bây giờ... anh tự nhủ. Dưới ánh sao và những ánh điện từ xa chiếu qua cửa sổ để mở, (dù mở nhưng rất an toàn vì bên dưới là boong lái sâu thăm thẳm không ai có thể trèo lên nhìn vào được) anh thấy rõ thân hình trắng nõn của cô gái trên suốt chiều dài chiếc giường của anh, cả đám lông đen đầy khiêu khích và chờ bàn tay Mơ chìa ra về phía mình mà thấy từ đầu đến chân như tê liệt. Vẫn nằm trên giường, Mơ gọi anh:

- Nào! Ta sinh hoạt nào anh.

Anh chết lặng. Một câu hoàn toàn không chờ đợi, không ngờ tới. Còn hơn một gáo nước lạnh! Hơn cả sự thất vọng! Nhất là sau khi anh đã căng hết thần kinh nghe Mơ nói biết bao nhiêu chuyện. Nào! Ta sinh hoạt nào anh. Sao đầy tính chất công việc rạch ròi thời gian đến thế. Những công việc phải làm. Cứ như trước khi đọc báo, trước khi họp công đoàn, họp Đảng. Sức công phá của nó là ngay tức thì. Toàn thân anh mềm nhũn, xìu đi. Như có một người thứ ba nào đó vừa có mặt ở đây. Như đang tham gia một cuộc họp mà Mơ là chủ tọa. Cương ngồi chết gí trên ghế. Anh thở dài, một tiếng thở dài dài nhất trên cuộc đời này. Tiếng Mơ như giễu cợt:

- Tự ái à? Không sinh hoạt à?

Lại thêm một búa nữa. Anh gục hẳn. Nhưng không thể để Mơ một mình ở đó. Anh bước tới giường, nằm xuống bên Mơ, nghiêng người quàng tay ôm lấy Mơ như một nghĩa vụ. Người anh đẫm mồ hôi như bị thoát dương. Anh tự động viên, cố gắng hết mình một cách tuyệt vọng dù biết hoàn toàn vô ích. Thằng bé con của anh rũ xuống. Cương thấy nó già hơn anh. Tư cách hơn anh. Triệt để hơn anh. Nó hoàn toàn độc lập với anh và điều đó làm anh kinh ngạc. Mơ tìm mọi cách khuyến khích anh, kiên nhẫn chờ đợi rồi cuối cùng ngồi dậy không giấu vẻ thất vọng, cáu kỉnh và khinh bỉ:

- Trắng thế này, đẹp thế này mà không làm ăn gì được! Sao có người chán thế?

Và khi đã mặc quần áo bước ra cửa còn ném lại một câu như một lời nguyền rủa:

- Anh có lấy vợ cũng không có con được đâu.

Cương im lặng không nói một lời. Không thanh minh. Nuốt cái nhục vào người. Mọi ý định tốt đẹp về Mơ tan biến. Thậm chí anh còn giễu thầm mình là đồ bất lực, điều Mơ không muốn nói thẳng ra.

Từ bấy chấm dứt niềm vui mới nhen nhúm là chờ độ cao quen thuộc của Mơ hiện ra qua ô cửa cabin, chấm dứt những buổi trưa lang thang lên phòng Mơ, cùng Mơ chuyện trò, trêu Mơ về những bãi cá Mơ ghi trên hải đồ, bãi cá nào cũng một khoanh phấn đỏ hình bầu dục xoai xoai trứng gà trứng vịt. Không những thế còn tìm mọi cách tránh mặt Mơ. Từ bấy lại lên boong thượng ôn thiên văn bằng dàn chớp. Lại lang thang quán rượu. Và càng mong được điều đi đánh thuê cho một tàu nào đấy. Mong đến niên đến hạn để được thi lấy bằng thuyền trưởng rồi chuồn khỏi ngành đánh dậm...

Dù nghĩ chuồn khỏi nghề đảnh dậm nhưng đi tàu nào anh cũng