← Quay lại trang sách

- III -

Nhưng cuộc họp hôm nay không phải bàn về đánh cá chung chung như những cuộc họp trước mà là một cuộc họp bàn về chuyển hướng đánh cá, đánh thế nào để có thể tăng nguồn cá xuất khẩu. Các đại biểu ngồi chờ đã lâu. Giám đốc cùng khách mời, gồm các vị lãnh đạo sở và cả hai đại biểu bộ ở phía trên. Đám cán bộ chủ chốt của xí nghiệp ngồi tách ra một chỗ, ở những hàng ghế dưới cùng, chuyện rì rầm, thỉnh thoảng lại cười phá lên vì một chi tiết thú vị nào đó như những cái vĩ đại trong nhà ông Phục, hay chuyện cô Thiện cung tiêu chồng đi biển về chổng mông cho chồng bắt giun kim, rồi đến giọng trưởng phòng đời sống đọc bài thơ mới sưu tầm được trong một cuộc họp trên thành phố làm mọi người cười lăn cười lộn: Nói có người nghe. Đe có người sợ. Vợ có người chăm. Nằm có người bóp. Họp có người ghi. Chi có người bù. Tù có người chạy. Cuộc họp nào cũng vậy, người trước, người sau. Giờ giấc không bao giờ được bảo đảm. Tổng giám đốc Hoàng Quốc Thắng đã mấy lần xem đồng hồ tỏ vẻ sốt ruột:

- Quá nửa tiếng rồi. Xưởng lạnh chưa tới à? Cái ông Tạp này không bao giờ đúng giờ. Không cuộc họp nào không đến muộn. Tác phong nông nghiệp. Tôi đến chết với mấy ông. Lần sau còn thế này nữa văn phòng chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Chánh văn phòng Điều đứng lên:

- Các phòng ban đủ. Kế hoạch, kỹ thuật, hàng hải khai thác, cung tiêu, đời sống. Các phân xưởng mới có cơ khí, còn thiếu xưởng lạnh. Các tàu đủ, thiếu 414. Chúng tôi đã cho người báo rồi. Trần Bôn đâu nhỉ? Kinh nghiệm sốt dẻo. Vừa về bến sáng nay. Ba mươi tấn cá trong đó có mười lăm tấn cá ăn tươi...

Điều vừa nói vừa nhìn vào dãy ghế trên cùng, nơi đoàn đại biểu Sở, ông vụ trưởng vụ kế hoạch, vụ phó vụ kỹ thuật trên Bộ ngồi, một cái nhìn đầy ý nghĩa.

Trần Bôn chưa đến à? Văn phòng đâu. Đã báo họp cho Mười bốn chưa? Báo cáo giám đốc rồi. Tàu vừa về bến là cho người xuống báo ngay. Rồi chính tôi trực tiếp báo. Cho người xuống tàu mời lên ngay đi. À đây. Đại phó đây. Về nói thuyền trưởng lên họp ngay. Chánh văn phòng Điều nhanh nhảu.

Cương đứng ngay cửa hội trường, lắc đầu:

- Báo cáo. Thuyền trưởng cầmy bạ đi khám bệnh rồi ạ.

Cương đã thêm ba tiếng cầm y bạ để tăng thêm tính

thuyết phục. Thật ra lúc rời tàu, Bôn có cầm y bạ đâu.

- Thuyền trưởng về bảo lên họp ngay nhé.

Vẫn chưa thể khai mạc cuộc họp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Giờ đây chữ kinh doanh đã được dùng một cách trơn tru, không thấy vương vướng trong tư tưởng, ngường ngượng khi phát âm nữa. Bởi vì từ ngày cách mạng thành công, tất cả đã được giáo dục rằng kinh doanh nghĩa là không phục vụ, kinh doanh nghĩa là buôn bán, nghĩa là không sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội mà chỉ mua rẻ bán đắt, kiếm lời, một kiểu làm ăn chỉ có trong xã hội tư bản. Từ khi ông Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trong buổi đến chúc tết một gia đình nào đó, chúc gia chủ sang năm mới làm ăn buôn bán một vốn bốn lời, cả nước rung chuyển bởi sự mới mẻ trong lời chúc ấy và sau đó biết bao nhiêu cuộc họp, các thuyết trình viên đã nhắc đi nhắc lại câu này cũng như không quên giơ tay chém chém vào không khí:

- Mới lắm các đồng chí ạ. Ông cha ta ngày trước nói Nhất bản vạn lợi. Giờ Đảng ta nói Một vốn bốn lời!

Bây giờ đơn vị nào cũng làm kinh doanh. Chẳng riêng ngành thương nghiệp chuyên buôn bán. Bây giờ sản xuất đồng nghĩa với kinh doanh. Kinh doanh không còn là một hành động đáng miệt thị, mà ngược lại nó biểu hiện tài tháo vát năng động của người đứng đầu đơn vị. Khi việc xuất khẩu thủy hải sản trở thành mũi nhọn của toàn ngành và vào thời điểm ấy còn là mũi nhọn của cả nền kinh tế, khi những chuyến hàng hải sản đông lạnh đầu tiên của công ty xuất khẩu thủy sản được tàu HL02 chở sang Hong Kong, ông giám đốc Hoàng Quốc Thắng còn đang làm trưởng phòng kỹ thuật của một tổng công ty trong ngành. Rất nhanh ông hiểu cái gì đang chờ đợi ông. Hoặc ông sẽ đổi đời, nên người, hoặc ông mãi mãi là anh trưởng phòng kỹ thuật, xếp hàng lấy nước ở máy nước công cộng, gánh leo lên gác ba suốt đêm. Triết lý sống của ông là không thể để những đứa ngu lãnh đạo mình. Ông giám đốc tổng công ty của ông, theo ông, cũng là một người ngu. Ông ta ngu bởi vì ông ta không biết chia động từ “ăn”. Chia động từ “ăn” phải là “tôi ăn” “anh ăn” “nó ăn”. Quan trọng nhất không phải là tôi ăn mà là anh ăn. Nó ăn xếp xuống hàng thứ yếu. Không thể chia động từ ăn một cách công bằng. Anh ăn là quan trọng nhất rồi đến tôi ăn. Nhưng thực ra anh có ăn cũng là để tôi ăn được nhiều hơn, bền vững hơn, lâu dài hơn. Với lại các đại ca đâu có ăn ít hơn tôi. Các đại ca nắm trong tay bao nhiêu đầu mối. Nguồn thu nhập chẳng ai bì được. Còn nó ăn chỉ là để nó cho mình ăn nhiều hơn, núp dưới cái câu cửa miệng hài hòa ba lợi ích. Ông tổng giám đốc của ông chia động từ nặng về tôi ăn nên chỉ đến đấy là kịch tường rồi. Mà trong tay ông ta có bao lợi thế... Phải biết đầu tư từ xa. Ông Thắng đã làm được việc ấy. Ngay khi còn đang đi tàu, giữa lúc gạo châu củi quế, từ thành phố Hồ Chí Minh trở ra đong được tạ gạo, đến nhà Đại Ca chơi (dạo ấy Đại Ca cũng chỉ giữ một chức vụ quan trọng trong thành phố, chưa oanh liệt như bây giờ), nghe phu nhân Đại Ca than thở về đàn con ăn không biết no, ông hiểu ngay mình phải làm gì. Một tạ gạo nàng hương khi ông xe về nhà làm sáng bừng khuôn mặt vợ con, mấy hôm sau được ông xe đến nhà Đại Ca. Vẻ mặt thất vọng của vợ con ông đã biến thành những nét tươi rói trên khuôn mặt cả nhà Đại Ca. Qua truyện trò, biết vợ Đại Ca ao ước chiếc xe mini Nhật hai dóng đỏ để đi làm, ông không chút ngần ngại biếu không chiếc xe như vậy của vợ ông, quà tặng của một người bạn thân thiết bên Vosco đi Nhật. Vợ ông hàng ngày đi làm với chiếc xe khung dựng mới mua cọc cà cọc cạch, nhớ chiếc xe thời thượng đã nâng cao giá trị của mình trước những người bạn cùng phòng, cùng đơn vị, thỉnh thoảng tỏ vẻ tiếc nuối, đã được ông tâm tình một buổi mang tính triết học: muốn nhận phải biết cho, muốn được phải biết mất, muốn thu hoạch phải biết gieo hạt... Vợ ông gắt lên:

- Có cái gì cũng mang đi biếu. Chỉ còn vợ là ông chưa mang đi thôi. Ông ấy có cùng ngành đâu mà giúp được mình.

Ông đã giảng cho vợ biết về những triển vọng của việc sắp xếp cán bộ trong năm tới, về tương quan lực lượng và triển vọng thăng tiến gần như chắc như đinh đóng cột của Đại Ca, Đại Ca sẽ giữ một vị trí quyết định, bởi Đại Ca của ông có những cái ô cực mạnh và ông thầm nghĩ nếu Đại Ca cần, mình cũng có thể đưa bà vợ đến như một món quà tặng lắm chứ. Ngẫm cho cùng chỉ cần cô ấy vẫn yêu mình còn chuyện ấy chẳng qua chỉ là chuyện đụng chạm trong chốc lát mà thôi. Như ông với những người đàn bà đã qua tay. Tuy vậy ông vẫn cười:

- Bà chỉ nói bậy. Của biếu lúc còn hàn vi mới quý. Chuyện bát cơm phiếu mẫu, bà nhớ chứ. Với lại cứ cho là Đại Ca không lên được như ý muốn thì bè bạn Đại Ca cũng ghê gớm lắm, mình không thông qua Đại Ca mà nhờ vả được hay sao? Bây giờ là phải có ô dù. Không có ô tài mấy cũng không làm ăn gì được.

Điều ông nói bà cũng biết, ai cũng biết, chỉ có điều có làm được không thôi. Bà nói vậy cũng còn là muốn được nghe ông phân tích để thêm tin tưởng ở tương lai, và càng thêm phục ông chồng nhìn xa trông rộng.

Có tuần nào ông không đến nhà Đại Ca vài ba lần và được cả nhà coi như người trong gia đình. Cái việc “đầu tư chiều sâu” đúng chỗ của ông đã thành công. Đại Ca của ông lúc đạt đến đỉnh cao quyền lực khi cùng bè bạn ôn nghèo kể khổ thường hay nhắc đến những ngày bao cấp khó khăn đã được ông xe đến nhà hai bao tải gạo, mua cho bà mấy con lợn giống không lấy tiền, “còn cái xe đạp thì không ai đi nữa, nhưng cũng không cho, không bán, để dưới ga ra ô tô làm kỷ niệm...” Cho nên khi những chuyến tàu chở hàng đông lạnh đầu tiên của Liên hợp Biển Đông đi nước ngoài, ông hiểu ngay mình phải làm gì. Ông đến nhà Đại Ca và ở đó gần hết buổi sáng. Thế rồi ông Trần Hữu Bằng còn sáu tháng nữa mới nghỉ hưu đã được điều về Hà Nội để đi nghiên cứu thị trường thủy hải sản một số nước châu Âu, châu Á. Dĩ nhiên người thay ông Trần Hữu Bằng là ông Hoàng Quốc Thắng. Cái bước khởi đầu khó khăn vất vả của ông Bằng, từ chỗ chỉ lo nghiên cứu ngư trường, chạy vật tư, phát động thi đua bước vào vụ cá Nam, sơ kết vụ cá Bắc, chuyển sang làm quen với thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan, lấy hộ chiếu, làm visa, sang bên Vosco học tập cách tổ chức con tàu, xây dựng các chức danh... được ông Thắng về tiếp quản. Hai năm đầu ông Thắng làm giám đốc là thời gian các địa phương thi nhau làm thủy sản xuất khẩu. Các tỉnh thành có biển đều xây dựng các xí nghiệp chế biến thủy sản, các nhà máy đông lạnh. Rồi đắp đê lấn biển, các rừng đước bị chặt trụi để biến thành những vuông tôm. Công ty xuất khẩu thủy sản Seaprodex nổi tiếng toàn quốc và được quốc tế tặng giải thưởng Uy tín và Chất lượng.

Năm con tàu khai thác đông lạnh của xí nghiệp ngừng hẳn việc sản xuất, chuyển sang vận tải thuê cho công ty xuất khẩu thủy sản, chở thủy hải sản ra nước ngoài mà trong xí nghiệp gọi là đội tàu vận tải ngoại thương. Công việc thuận lợi như diều gặp gió. Hàng nhiều, tàu ít, gần như chỉ có tàu của công ty Seaprodex và của xí nghiệp ông. Chiếc ăn hàng ở thành phố Hồ Chí Minh, chiếc đang trên đường từ Nhật trở về, chiếc xuống hàng ở Hong Kong. Tiền vận tải thu được ông xin cấp trên cho nhập dầu, một mặt hàng chiến lược. Định mức dầu luôn luôn thiếu. Số dầu chỉ tiêu cả năm cho đánh cá chỉ dùng trong bảy tháng hết veo. Các tàu đánh cá đều đã cũ, phụ tùng thay thế không có, uống dầu chẳng kém voi uống nước. Ông là người táo bạo trong suy nghĩ. Ông chỉ thị cho hai phòng kế hoạch, khai thác hàng hải tính toán đổi dầu đổi đá cho những thuyền ngư dân sản xuất trên biển lấy cá mà không cần phải tự mình thả lưới. Ông rất hãnh diện, tự hào vì mình đã có những chủ trương táo bạo như vậy. Cũng bởi dạo ấy ngư dân miền Trung ra Vịnh Bắc Bộ đánh lưới vây nhiều. Cá của họ là cá đi đàn con nào con ấy bằng nhau, đều tăm tăm, nhưng họ lại không có dầu để đánh cá, không có đá để ướp cá. Chủ trương này của ông là kế tiếp sự thành công của chủ trương bán đá cây tự do. Thời gian mới về xí nghiệp, ngày nào ông cũng phải nhận từng xấp đơn của cán bộ công nhân trình bày khó khăn, xin được mua mấy cây nước đá về cho vợ con bán hàng nước, cải thiện. Ông thừa biết số nước đá đám công nhân viên dưới quyền ông mua được, không có cây nào mang về nhà mà bán cho con buôn chầu chực ở cổng xí nghiệp. Phần lớn họ không mua đi bán lại mà bán ngay tờ giấy có chữ ký phê duyệt của ông cho cánh buôn, nghĩa là mỗi chữ ký của ông có giá bằng nửa tháng lương. Sau một tuần ký giấy, mệt phờ người, ông nói chánh văn phòng Điều thảo cho ông một cái quyết định giao cho quản đốc phân xưởng nước đá căn cứ vào giá nước đá từng ngày, được quyền bán đá theo giá thị trường, mà không phải qua giám đốc duyệt. Thế là cái mỏ vàng ấy, cái chữ ký ra tiền ấy, từ ông chuyển về cho ông quản đốc phân xưởng đá cây. Ông quản đốc cũng hiểu mình phải làm gì, chắc chắn không thể quên ông Tổng. Ớ ông Tổng, nó không thể thành tiền. Nhưng nằm trong tay ông quản đốc, nó biến thành tiền cho cả hai ông. Và tất nhiên, nó cũng thành tiền cho xí nghiệp.

Hai quyết định bán nước đá và thành lập tổ thu gom (không phải thu mua) cá nổi của ngư dân được mọi người trong xí nghiệp ca ngợi ông là người táo bạo dám chịu trách nhiệm, dám nghĩ dám làm nhưng cũng bị nhiều lời bàn tán ra vào, kể cả những sự vu khống xuyên tạc, mà phần lớn là của các bạn đồng cấp, những sếp trên sở, kể cả những sếp trên bộ. Họ bảo ông bỏ đánh cá. Họ bảo ông gian lận, ông đã cộng số cá đổi được ấy vào sản lượng của xí nghiệp, như vậy một con cá được tính sản lượng hai lần! Và tệ hại hơn, họ bảo ông giờ đây tối mắt tối mũi với những con tàu đi Hong Kong, đi Singapore, đi Nhật, mỗi chuyến thu hàng chục nghìn đô tiền quà, tiền cống, bỏ bễ cả hai chục con tàu đánh cá, đánh mất chức năng cơ bản của xí nghiệp: Khai thác hải sản. Người ta nói với vẻ đầy khoái trá rằng thằng Hoan con trai ông nghiện, cũng như người ta truyền tai nhau về số tiền ông có, số tiền ông đút lót cấp trên kể cả Đại Ca. Không hiểu sao quan hệ giữa ông và Đại Ca kín đáo vòng vèo là thế mà họ cũng biết. Chính vì những dư luận của bọn ghen ăn ghét ở ấy mà ông tổ chức hội nghị hôm nay. Hội nghị chuyển hướng sản xuất kinh doanh có mời đủ các quan chức trên sở và cả trên bộ, nhằm đánh tan những dư luận bất lợi cho ông.

Hội nghị khai mạc chậm hơn dự kiến nửa giờ. (Hội nghị nào cũng bị chậm. Hôi nghị giao ban hàng tuần, hàng tháng còn có thể cho qua, nhưng một hội nghị quan trọng như hôm nay, mà cũng cứ phải chờ đợi thật không thể tha thứ được!)

- Ông Điều đâu? Văn phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc về các cuộc họp mà quá nửa tiếng rồi, đại biểu chưa đến đủ, ông cứ ngồi đấy bình chân như vại.

Chánh văn phòng Điều đứng lên, cầm quyển sổ mời họp, chìa ra trước khoảng không:

- Văn phòng đã mời từ hôm qua. Tàu ông Bôn sáng nay cập cảng, cũng mời ngay rồi. Đây. Xưởng lạnh đây. Ông Tạp ký đây. Đi hay không là tùy ở các ông ấy. Văn phòng làm gì có biên chế để đi giục từng đơn vị.

Giám đốc đã bực lại càng bực với kiểu ăn nói ngang cành bứa của chánh văn phòng. Thật sự ông không ưa

Điều, một người tính khí thất thường. Lúc ngoan ngoãn nhẫn nhục hết mực, cho dù ông quát mắng vô lý đến đâu cũng cứ một vâng hai dạ, báo cáo anh báo cáo anh, lúc sẵn sàng sửng cồ lên như thế này. Đã nhiều lần ông định thay nhưng chưa tìm được người. Điều là người duy nhất làm một cái văn bản mà ông không phải sửa chữa, hoặc sửa chữa rất ít, nói được đầy đủ ý ông. Đã làm chánh văn phòng cho ba đời giám đốc, là người rất biết công biết việc, hơn thế còn là người có trí nhớ rất tốt. Vấn đề xin thêm chỉ tiêu ngư lưới cụ, mình đã có văn bản rồi, ký vào thời gian nào, công văn trên bộ về khoán dầu cho các tàu cá, đã chuyển cho phòng hàng hải khai thác tháng trước chưa thấy phòng đề xuất ý kiến gì... Hơn nữa ông biết làm cái anh trưởng phòng thì chánh văn phòng là khô nhất. Ông dịu giọng:

- Cái ông Tạp này không có cuộc họp nào không đến muộn. Phê bình mãi vẫn chứng nào tật ấy. Ông Điều xuống xưởng lạnh gọi ông Tạp lên cho tôi. Bất cứ việc gì cũng để đấy. Lên ngay!

Chánh văn phòng không giấu vẻ bực tức, vừa bước ra khỏi phòng vừa làu bàu:

- Văn phòng làm gì có biên chế để chạy theo các bố ấy mà giục.

Một lúc sau Điều bước vào phòng họp, theo sau là quản đốc xưởng lạnh. Không để giám đốc phê bình, Tạp nói luôn khi mới bước vào cửa:

- Báo cáo giám đốc, sắp sửa đi thì nhà lạnh Đan Mạch báo cáo tang trông đá vảy vỡ, phải điều thợ sửa chữa. Sửa chưa xong đã nhận được điện của nhà máy điện báo ngày mai cắt điện để duy tu đường dây. Lại phải làm việc với Ban điện năng chỗ ông Chinh khẩn trương hoàn chỉnh máy phát của mình để phát thay thế. Nhưng dầu cung tiêu báo hết. Xin thủ trưởng cho vay dầu của các tàu đỗ bến ngay để ngày mai chạy máy...

Trình, trưởng phòng cung tiêu, gầy gò, mảnh khảnh như một thư sinh, vẫn ngồi tại chỗ, trả lời rành rọt như một người nắm rất vững công việc của mình. Anh nói đã cho người làm hóa đơn ở Sở Dầu hai hôm nay rồi. Chỉ tiêu còn hai trăm năm mươi tấn, chưa kể số dầu xin bổ sung ngoài chỉ tiêu là năm mươi tấn. Nhưng hiện nay kho hết dầu. Sở Dầu hẹn trong ngày mai dầu về sẽ phát cho mình một trăm tấn. Vân vân. Rồi câu chuyện lại quay về sở điện, tất cả những phiền toái rắc rối do sở điện gây ra. Mà mình chiều mấy ông điện mấy ông nước hơn chiều bố đẻ. Ngày lễ, ngày tết đều có quà, quà đậm. Con ông ấy lấy vợ lấy chồng mình không thể không có mặt. Bố mẹ các ông ấy mất, mình phải đến viếng, không những thế còn phải bán cho các ông ấy tạ cá ngon, nhiều gấp đôi tiêu chuẩn của cán bộ công nhân viên trong liên hợp. Các ông ấy nắm yết hầu mình. Làm hàng đông lạnh mà ông ấy cắt điện, cúp nước chỉ có chết...

Cuối cùng cuộc họp cũng khai mạc. Giám đốc nói. Về tình trạng sản xuất. Về ngư trường mỗi ngày một cạn kiệt. Thiết bị xuống cấp. Về việc cần thiết phải mở một hướng mới trong sản xuất kinh doanh. Về chuyến đi Singapore vừa kết thúc của ông. Ông đã làm việc với một số đối tác ở Singapore, bên ấy người ta sẵn sàng mua cả cá ăn tươi ướp đá. Tôi đã thảo luận với họ chi tiết về giá cả, về chỉ tiêu chất lượng. Tóm lại là bây giờ làm thế nào bảo quản số cá từ loại 1 đến loại 5...

Ông nói đến việc tổ chức muối ướp trên các tàu đánh cá đá, đến việc sản xuất các khay tôn tráng kẽm để ướp, tránh tình trạng cá bị dập nát, vỡ bụng, và quan trọng hơn là tổ chức sản xuất theo đội, các tàu đánh được cá dồn cho một tàu chở sang Singapore, cán bộ phòng OTK phải đi với các tàu ra biển, trực tiếp chỉ huy việc chọn rửa muối ướp trên biển, phòng tổ chức trước mắt lo làm thủ tục đi nước ngoài cho hai tàu khối 600 (mã lực)...

- Chỉ cần xuất khẩu được một nửa số cá loại 1 đến loại 5, chúng ta cũng có một sản lượng trên hai nghìn tấn các đồng chí ạ. Làm được như vậy, chúng ta có thể không hoàn thành kế hoạch tổng sản lượng nhưng sẽ hoàn thành vượt mức chỉ tiêu xuất khẩu, chỉ tiêu giá trị, sẽ có ngoại tệ nhập thêm dầu và mua phụ tùng sửa chữa. Làm được như vậy, không chỉ khối tàu đông lạnh đi nước ngoài mà lần lượt các tàu sẽ được đi nước ngoài hết.

Phòng họp ồn ào sôi nổi hẳn lên. Người phấn khởi, người tỏ ý nghi ngờ, người nêu những khó khăn. Giám đốc hiểu rõ diễn biến tâm lý của mọi người. Ông kết luận một cách đanh thép:

- Còn nếu cứ tổ chức sản xuất như chúng ta vẫn làm, chỉ có lỗ. Càng đánh càng lỗ. Đánh sạch biển Đông! Đánh sập xí nghiệp!

Ông nói và liếc rất nhanh vào đám khách trên sở, trên bộ ngồi ở hàng ghế đầu. Đấy là điều ông muốn nhấn mạnh với họ.

Bố tôi cầm cái tay chuông bên phải buồng lải kéo mạnh. Một tiếng rẹtphảt ra. Tôi hiểu rằng tay chuông ở buồng mảy chỗ bảc Suất cũng chuyển động như vậy, cũng kêu như vậy. Tiếng mảy bỗng nhẹ đi. Tàu đi chậm lại. Bố ra lệnh:

- Thả lưới.

Và bước về phía lải, đứng ngay chỗ đầu cầu thang dốc đứng, cái cầu thang hàn chặt vào vảch tàu, bắc từ sàn giữa gần ống khói xuống tới mặt boong lải. Cảc chú cảc bảc đã có mặt đông đủ. Có tiếng tút tút sảu giờ chiều. Nhà sắp ăn cơm đây. Ất hẳn mẹ tôi với cái Ngàn ngồi ăn và nhắc đến tôi, nhắc đến bố nữa. Ba mẹ con tôi tự hào về bố. Bố là chỗ dựa cho mẹ cho hai anh em tôi. Mẹ vẫn thương bố biền biệt nơi sóng nước. Mỗi lần bố về, nhà lại như mở hội. Chúng tôi không biết cụ thể nhưng ắt hẳn bố đưa cho mẹ nhiều tiền. Để mẹ nuôi chúng tôi ăn học, để mẹ sắm sửa, để mẹ làm nhà, xây bể nước mưa, để mẹ có đồng ra đồng vào. Nhờ bố, mẹ được dân làng vì nể. Nhờ bố, chúng tôi được thầy quý bạn yêu. Bọn cùng lớp, khảc lớp nhìn tôi và cái Ngàn, ao ước thèm thuồng. Mọi thứ trên người chúng tôi đều khảc chúng nó. Từ bộ quần ảo tới đôi dép, chiếc cặp sảch, cái mũ đội trên đầu. Tiền học, tiền mua sảch vở, tiền kế hoạch nhỏ, tiền góp đi cắm trại... chúng tôi bao giờ cũng là những đứa nộp đầu tiên. Nhà chúng tôi ở cũng khác. Cả xã chỉ có trên chục gia đình được như vậy. Nhà xây, mái ngói, sân gạch, trong nhà đủ quạt trần, quạt bàn, tivi màu. Bố mẹ còn bàn nhau sang năm được tuổi xây nhà hai tầng cho mát. Tất cả là nhờ bố. Bao giờ về nhà bố cũng mang theo một túi du lịch phổng căng. Bánh kẹo cho chúng tôi và tiếp khách. Chè, thuốc lá. Và rất nhiều mực khô, cá khô. Những con mực khô hổng hổng phủ đầy phấn trắng, râu dài gấp quặt vào thân bó chặt. Những con cá kìm khô tròn mỏ dài gần bằng thân, thơm phức. Tôi thả sức nướng, nhai trẹo cả hàm vẫn còn muốn nhai nữa. Nướng ăn và mang đến lớp cho mấy đứa cùng bàn. Đứa nào cũng thích. Chúng nó lạ nhất là cái đầu cá có mỏ dài trong suốt giống hệt cái kìm. Vất đi thì tiếc, chúng đã thử nhai nhưng rồi lại phải lè ra.

Nhiều lần bố tôi về không chỉ một mình. Đi cùng còn có các chú các bác dưới tàu như bác Sĩ thủy thủ trưởng, như chú Hồng, bác Suất. Mẹ con tôi giết gà nấu cơm mời khách. Khách dưới tàu thi thoảng mới tới nhà. Còn phần lớn khách đến nhà tôi là họ hàng xóm láng giềng. Thế nào các ông khách cũng được bố tôi rót rượu mời. Uống rượu với mực khô, với cá kìm. Ai cũng biết đấy là đặc sản. Cả xóm lấy làm vinh dự vì có bố tôi, một thuyền trưởng Lại càng quý bố tôi khi nghe đài phát thanh đọc một bài dài về bố tôi. Qua bài báo tôi mới biết bố tôi cũng giống tôi, rất yêu biển, khi đi học đã sưu tầm nhiều bài thơ về biển, không những thế nhiều người bạn còn gửi cho bố tôi những bài thơ hay về biển mà họ đọc được trên báo, trong sách. Trong chiến tranh bắn phá, tàu bố tôi đi đến Cửa Ong thì bị máy bay Mỹ phát hiện. Đêm. Nó thả pháo sảng hết đợt nọ đẽn đợt kia. Rồi ném bom. Nổ sát tàu. Một thủy thủ bị mảnh bom văng vào tai. Một thủy thủ bị phạt đầu. Xác còn chôn ở Cửa Ông. Trong đêm tối, bố tôi nhận đưa tàu tới vị trí tập kết và đã mò mẫm tới Hòn Chông an toàn. Trong sản xuất bố tôi đã lập nhiều thành tích, từ đánh cá, tới thăm dò khảo sát tôm biển. Đặc biệt trong nghề đánh tôm, bố tôi là người đi đầu trong kỹ thuật đánh tôm bốn lưới thay cho kỹ thuật đánh tôm hai lưới từ trước đến nay. Và cũng nhờ bài báo đó, tôi mới biết bố tôi đã được đề nghị trên thưởng huân chương lao động. Tôi còn nhớ tên tác giả bài báo: Duy Thông.

Đứng trên boong giữa, cạnh bố, tay vịn lan can, tôi nhớ lại tất cả những chuyện ấy. Tôi muốn xuống boong lái, nhưng sợ vướng chân mọi người. ơ dưới ấy, bốn tấm lưới tôm đang được xếp ra. Mỗi tấm lưới đều có xích sắt. Mỗi bên càng (tăng gông) hai lưới, giữa hai lưới có mắc một thỏi sắt to bằng cổ chân tôi, trông giống quả bí xanh nhỏ được gọi là “quả bom”. Tơi bắt đầu hoạt động. Hồng hộc, hồng hộc. Nó kêu những tiếng khô khốc quái gở. Mọi người xốc lưới thả xuống biển. Bắt đầu là đụt lưới rồi đến lưới, hai “quả bom”, xích sắt. Và ván lưới. Tất cả mất hút dưới mặt nước nhấp nhoáng ánh đèn pha. Bố tôi đi về phía buồng lái. Rẹt. Rẹt. Tay chuông trên buồng lái kêu. Máy tàu chuyển nhịp. Con tàu rẽ nước tiến về phía trước. Nó đang dắt lưới.

Nếu Cương được định biên hẳn xuống tàu HL 414 chắc anh sẽ được biết sự thật của việc thuyền trưởng vắng mặt khi tàu vừa cập bến này. Nhưng anh chỉ là lính đánh thuê một hai chuyến nên thuyền trưởng chẳng cần phải nói cùng anh. Hoặc nếu là người thuộc tổ trông xe của xí nghiệp, Cương cũng biết. Biết thuyền trưởng đã ra nhà gửi xe lấy xe máy vù về nhà rồi. Về tay không. Không một cân cá. Một con mực khô cũng không. Về nhà với cái điều Bôn đã nghĩ tới từ khi còn ở ngư trường, khi kéo mẻ lưới mà chỉ Bôn mới biết đó là mẻ lưới cuối cùng, bởi vì lúc ấy anh chưa ra lệnh tổng vệ sinh, rời ngư trường về bến. Cái điều bất kỳ thuyền viên nào đã có vợ đều nghĩ tới ngay khi nghe lệnh tổng vệ sinh tàu dù đang ở Vịnh Bắc Bộ hay còn tận mãi Vịnh Thái Lan: Ngủ với vợ (và nhiều anh đã cứng lên ngay từ lúc ấy - cánh đi biển xơi nhiều chất đạm, lại bị dồn nén lâu ngày mà!). Bôn đã nghĩ tới giờ phút đầu tiên bước vào nhà. Anh nghĩ tới những lần hai vợ chồng ân ái, nghĩ tới tấm thân mát rượi mà bốc lửa của chị. Nghĩ tới khi người chị dâm dấp mồ hôi, thứ mồ hôi của ái ân, anh gục đầu hít một hơi dài cái mùi nồng nàn tỏa ra từ nách chị mà thấy người ngây ngất. Anh nghĩ tới niềm đam mê không bao giờ chán của chị, đến lúc chị hổn hển: “Anh ngồi như ông Thế Trường đi”. Anh đã ngơ ngác không hiểu vợ nói gì mà vì sao trong lúc đang yêu nhau quên hết cả trời đất này lại có ông Thế Trường chen vào, cái thằng Thế Trường khốn nạn đã ngồi như thế nào, cái thằng Thế Trường là thằng nào đã làm gì vợ anh để vợ anh bắt anh ngồi như nó. Như biết anh nghĩ gì, chị lăn từ trên người anh xuống chiếu, nâng anh ngồi dậy: “Ồng Thế Trường biểu diễn yoga trên tivi ấy. Anh quên rồi à?” Anh hiểu. Anh đã hiểu chị muốn gì và vội làm theo. Nhớ ra rồi! Kiểu ngồi ấy là một kiểu ngồi chưa từng thấy. Ngay lúc xem ông Thế Trường biểu diễn trên tivi, anh đã bảo chị kiểu khoanh chân cong người, đầu xuống dưới của ông trùm yoga Thế Trường là một tư thế khó làm nhưng tuyệt vời. Anh nói với chị rồi anh quên đi, nhưng chị nhớ. Anh vội vàng làm theo lời chị, cố bắt chước ngồi như ông Thế Trường và ghì chặt lấy chị bởi anh biết chị vẫn khao khát anh ngồi như vậy và lúc này anh đang ngồi như vậy...

Gần một tháng trời lênh đênh ngoài biển, nằm trên chiếc giường hẹp, đêm đêm thức giấc anh hay nghĩ đến chị, nhớ chị và có những lúc nỗi nhớ biến thành sự thèm khát mà anh vội xua nó đi ngay. Cũng chẳng phải anh là người quá độ đâu. Có chuyến anh chỉ nghĩ tới con bé con. Anh hình dung rõ từng chi tiết về đứa con gái khi ấy mới lên năm, còn đang học lớp năm tuổi trường mẫu giáo Mầm Non. Thế là cập cầu xong, anh lấy xe đến trường xin phép các cô đón nó. Anh đèo nó đi lòng vòng phố. Anh mua kem cho nó. Anh dắt nó ra vườn trẻ. Hai bố con vừa đèo nhau trên xe vừa thủ thỉ chuyện trò... Chuyến này anh nghĩ đến chị (phần lớn các chuyến anh nghĩ đến chị). Nhớ chị. Thèm chị. Anh biết anh em thuyền viên cũng cùng chung với anh một nỗi niềm. Người xoay ra ghi nhật ký, người vùi đầu vào bài bạc cho quên đi, người công khai nói ra điều thầm kín ấy. Có anh còn diễn đạt điều ấy một cách rất tục tĩu: Lấy một con cá mối màu đất bãi cắm vào bụng con cá ó mịn màng, trắng nõn treo lên vách hầm bảo quản. Bốn vách hầm cá treo kín những con cá ó với cái bụng trắng phinh phính, con nào con ấy đều có một con cá mối nâu cắm vào chỗ ấy. “Để chị em bốc cá xuống hầm biết chúng ta nhịn thèm nhịn nhạt khổ sở như thế nào”. Một thủy thủ đã nói thẳng ra như vậy. Cái lần ấy anh còn ở tàu đông lạnh. Kế hoạch chỉ chuyển tải một chuyến, nghĩa là hai tháng mà ba tháng cũng chưa được về. Còn phải ở lại ngư trường, còn phải bám biển để góp phần hoàn thành kế hoạch năm. Về là mất hơn trăm tấn cá ngay. Dù máy có chạy quá thời hạn cả trăm giờ. Dù rau tươi hết từ đời nảo đời nào rồi. Dù có người lở loét hết cả hàm ếch vì thiếu rau mà anh em gọi là mắc bệnh “lở mồm long móng”. Bao nhiêu kế hoạch bị vỡ hết. Người về sang cát cho bố. Người về phép đi hỏi vợ. Anh thì vợ đẻ. Cũng có khi chẳng có việc gì quan trọng nhưng cứ kéo dài chuyến biển, cứ chuyển tải cá tại ngư trường, là cái cảm giác mình bị coi như một thứ công cụ nhằm phục vụ cho những bước thăng tiến của mấy ông lãnh đạo xí nghiệp, để các ông ấy lên chức, làm giàu lại đến, là lại thấy ngán ngẩm và nhiều khi sôi lên, muốn tung hê tất cả. Là thuyền trưởng, nhiều lúc anh cũng muốn hét vào mặt giám đốc những điều nung nấu ấy khi báo vụ đưa cho anh bức điện vừa nhận: 414 chuyển tải cả cho HL 02 ngày..., nhận dầu, nước, thực phẩm từ HL02 tại đảo Hòn Khoai. Thế là tất cả dự định đảo lộn. Lẽ ra kéo lưới, tổng vệ sinh, về bến và sau đó là bao nhiêu niềm vui chờ đợi trên đất liền, những niềm vui nhỏ nhoi mà những người trong đất liền chẳng bao giờ để ý như tiếng bánh xe ô tô lăn trên đường nhựa, hay một vòi nước công cộng vỉa hè, túm tụm người lấy nước, rửa ráy, giặt giũ. Phải xếp những thứ đó lại. Phải gạt ngay cái mùi mồ hôi, mùi da thịt vợ nồng nàn quen thuộc đã phảng phất đâu đây, như đã ngửi thấy, đã sờ thấy để rồi triệu tập ngay cuộc họp ban lãnh đạo tàu. Phải có một vẻ mặt thích hợp để điều khiển cuộc họp, nghĩa là biểu lộ sự bực dọc nhưng không thái quá để giải thích, thuyết phục anh em chấp hành lệnh một cách tự giác mà vẫn không mang tiếng là người theo đuôi lãnh đạo dù mệnh lệnh có kỳ quái thế nào chăng nữa. Để không phải van nài anh em, được anh em thông cảm nhưng vẫn giữ được cái uy của mình, của người thuyền trưởng, vẫn hoàn thành nhiệm vụ được giao. (Và mỗi khi chuyển được tình trạng bất mãn, tức giận của toàn tàu sang trạng thái mọi công việc trôi chảy băng băng, anh có cảm giác giống như khi vừa đưa tàu vào nơi trú ẩn an toàn thì cơn bão lớn ập đến, nằm trên con tàu buông neo trong vịnh, nghe biển trời gào rú, lồng lộn ngoài kia và hiểu rằng mình đã thắng).

Anh luôn nghĩ mình là một thứ đệm chống va. Mỗi khi cập cầu nhìn cái đệm chống va bị ép kiệt giữa tàu nọ với tàu kia, hay giữa tàu với cầu tàu anh lại nghĩ mình cũng giống như vậy. Anh em ép lên. Trên ép xuống. Hai chiều cùng ép lên anh. Lực ép nào cũng ghê gớm. Như sắt ép vào sắt. Như sắt ép vào bê tông. Nhưng anh cũng lại thông cảm với trên. Trên cũng là một thứ đệm chống va. Trên cũng lại bị dưới ép lên và một trên nữa ép xuống. Ai cũng là một thứ đệm chống va thôi. Anh hiểu nỗi lòng mọi người. Anh thông cảm với những phản ứng của anh em. Gọi đi ca, đéo đi. Trưởng ca biết vậy không nói nữa. Nó nói thế nhưng vẫn đi. Nếu giục, trả lời: Nói nữa đổ máu đấy. Dậy ra boong rồi, nhưng cả ca cứ ngồi hai bên mạn boong. Cứ gục đầu xuống hai tay khoanh trên gối như người ngái ngủ. Như người mới ốm dậy. Thế rồi bỗng một thủy thủ đứng phắt dậy bước ra. Trò gì thế nhỉ. Bôn vẫn theo dõi diến biến của mọi người, nhưng anh không giục cũng như lúc này không hỏi. Anh thủy thủ quần áo bảo hộ lao động dày cộp, ủng lệt sệt hùng dũng, mặt sát khí đằng đằng. Mai. Một anh chàng rất ham đọc sách. Lại làm cả thơ nữa. Mai đã chép tặng Bôn một bài thơ bốn câu cho đến nay Bôn vẫn nhớ:

Giẽng trong xanh mây trắng đẽn soi gương Lònggiẽng, lòng người hay lòng đất Mạch nước, mạch thời gian hay dòng sữa mát Xa nhau rồi giẽng bỗng hóa quê hương.

Bài thơ Mai làm để nhớ đến cái giếng làng mình. Cái giếng của những chiều gánh nước, cô nàng buông gầu thì Mai giữ dây gầu để cùng nhìn xuống bóng hai người in giữa một khoảng tròn thăm thẳm trời xanh, rồi nhìn vào mặt nhau, cô nàng đỏ mặt. Đó chính là người của ta bây giờ. Mai bảo vậy. Cô nàng vẫn ở quê, Thanh Hóa. Chuyến này Mai đã làm bao nhiêu ruốc cá thu, chỉ chờ nghỉ phép mang về. Mai vẫn làm thơ nhưng không đọc và cũng không chép cho Bôn. Hỏi thì Mai cười: “Báo cáo thuyền trưởng bây giờ vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm sự nghĩ sao”. Ra cái điều sắp có con. Lấy vợ mấy năm, mấy lần về phép, rồi chọn đúng lúc tàu đậu bến, vợ ra thăm chồng, ở với nhau cả nửa tháng trên nhà - hạnh - phúc vẫn chẳng thấy gì. Đêm nằm sờ tay lên bụng vợ, Mai hỏi: Sao vẫn cứ cấy chăng dây thẳng hàng thế này. Bao giờ thì cấy ngửa tay? Cho đến chuyến vợ ra đầu năm trở về được ít ngày, nhận thư vợ, Mai nhảy lên, khoe với mọi người. Tất cả xúm lại đọc: Sau khi em ra thăm anh về, cái chu kỳ ấy không đến nữa. Bây giờ không cấy chăng dây thẳng hàng nữa, cấy ngửa tay rồi! Một anh kêu to: Cũng chu kỳ như chu kỳ vòng quay chuyến biển mới khiếp chứ, cái chu kỳ gì đây ông Mai? Còn cấy ngửa tay là gì? Cứ như mật mã tình báo ấy. Mai còn tâm sự với nhiều người trong tàu rằng lá thư mới nhận, vợ Mai viết khi ở cữ sẽ về nhà mẹ đẻ, sợ mẹ chồng không giặt giũ được cho nàng dâu. Vợ Mai không biết mẹ Mai đã giặt giũ cho các bà chị dâu Mai như thế nào. Mai đã thức một đêm viết thư về cho vợ, một bức thư “dài từ ngọn nguồn tới giữa biển” như Giáp lưới trưởng sau này tố cáo. Giáp bảo trong thư có câu: Em định bảo vệ luận án của em tới bao giờ, luận án đây không phải là luận án phó tiến sĩ đâu mà luận án mẹ chồng không giặt cho nàng dâu. Giáp còn dọa Mai: Khéo tuột đụt đấy. Có nghĩa là cẩn thận không sảy. Nhưng Mai cười: Không lo. Mình đã thắt một cái nút hoạt rồi. Nút hoạt là nút thắt đuôi đụt. Rất chắc. Vướng rạn cũng chẳng việc gì. Nhưng chỉ giật nhẹ một cái là đụt cá sổ ra. Đã tính toán sít sao, đã làm cả ruốc cá thu thế mà vỡ kế hoạch. Vợ đẻ không về được. Món ruốc cá đành đem cho anh nuôi vay nấu mì. Anh nuôi nể lắm mới nhận vì mì ruốc cá so làm sao được với mì nấu tôm tươi. Mẻ lưới nào chẳng lẫn mấy lạng tôm. Giờ thấy Mai hùng dũng sát khí đằng đằng bước ra boong, qua chuồng cu (chòi micrô sau lái), Bôn lặng im xem Mai giở trò gì. Bình thường Mai nói năng rất từ tốn, gần như không bao giờ văng tục. Nhưng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Một khi mọi kế hoạch bỗng tan tành mây khói, mọi mơ ước sụp đổ. Đi đến giữa boong, Mai dừng lại. Tất cả nhìn theo. Những người đi ca và cả những người không đi ca. Trò gì thế nhỉ? Vẻ mặt Mai vẫn hầm hầm, trông phát sợ. Vẻ mặt ấy là của người bất cần đời, giời cũng bé. Mai dừng lại, mắt trừng trừng về phía mũi. Tất cả nín thở chờ một điều gì đó xảy ra. Mai giơ hai nắm tay về phía trước như người nắm ghi đông xe đạp. Không phải xe đạp. Xe máy. Bởi Mai đã co chân lên đạp đạp mấy cái như kiểu đề ma rơ, tay xoay xoay chỉnh ga, mồm dẩu raprừprừ rứ rứ rứ... Nhao nhao những câu hỏi và những lời nhắn:

- Phóng xe đi đâu đấy?

- Nhớ quành ra Ngã Sáu mua ít rau tươi nhé!

- Mua về đây một tút Hero nghe không? Nhịn cả tuần rồi.

Giáp, lưới trưởng, trong những tình huống căng thẳng như thế này thường được gọi là Giáp hấp tỉ độ cười nhạt gọi Mai:

- Nhớ tranh thủ về Thanh Hóa xem vợ mình đẻ chưa nhé. Nếu con gái thì thôi. Nếu con giai là phải đẻ đứa nữa đấy. Nói hộ rằng mình còn lâu mới về. Cứ đi kiếm với thằng nào cũng được. Nhưng phải đợi khô lò đã.

Câu nói châm chọc. Khích bác. Khoét vào nỗi đau của Mai. Rất có thể Mai sẽ ra đòn lại, và câu chuyện chẳng biết sẽ đi đến đâu. Không khí như lặng đi dù gió vẫn thổi, sóng vẫn xô và con tàu vẫn nâng lên hạ xuống. Như được khuyến khích bởi sự im lặng giông bão ấy, Giáp làm ra vẻ rầu rĩ:

- Bảo với nó mình đã làm ruốc cá thu định đem về nhưng phải ở lại nên cho nhà bếp rồi. Gắng đợi năm năm nữa mình về.

Mai bỗng buông thõng hai tay, không nắm ghi đông nữa. Và quay lại lừ đừ nhìn Giáp. Nhìn như thôi miên. Giáp hấp tỉ độ, Giáp gai cá gúng chăm chăm nhìn lại Mai. Tất cả nín thở chờ đợi một cuộc xô xát. Nhưng Mai vẫn đứng nguyên một chỗ. Rồi lại nhìn thẳng ra phía trước, phía mũi tàu, phía cái cẩu giương cần nghiêng nghiêng. Tay lại giơ lên. Chân lại đạp. Tay xoay xoay như người xoay tay ga. Đặt hết tâm trí vào việc đề ma rơ.

- Prừ prừ rứ rứ rứ...

Và văng ra một tiếng bất ngờ nhất. Một tiếng chẳng liên quan gì đến xe máy. Cũng chẳng liên quan gì đến đánh cá. Một tiếng tục không chịu được, to tát giữa chỗ đông người, giữa thanh thiên bạch nhật vang lên cùng trời cao biển rộng. Một tiếng tục bắn ra như một viên đạn nghe rất lạ tai vì cường độ của nó. Một tiếng người ta chỉ có thể nói nhỏ, nói thầm bỗng văng ra thành một tiếng thét. Chưa bao giờ tiếng ấy được thốt ra như một tiếng gào lớn lao và thống thiết đến thế. Tất cả cười vang. Bôn cũng cười. Rung cả người. Giáp bật dậy chạy ra ôm lấy Mai. Hai người ôm nhau vỗ vỗ vào vai nhau như những người bạn thân thiết xa nhau quá lâu nay gặp lại. Nỗi bực dọc của mọi người biến đi đâu hết sau cái tiếng Mai bất ngờ thét to hết cỡ ấy. Người cứ nhẹ lâng lâng. Làm thôi. Đằng nào cũng phải làm thì làm thôi. Cả ca ai nấy đứng vào vị trí: Tơi trưởng lên máy điều khiển, tơi phụ đứng cạnh bàn tời, ca trưởng thì vẫn gù chuồng cu sau lải, bốn thủy thủ chia nhau hai người một, bước về hai trụ ván hai bên mạn. Công việc lại chạy băng băng. Lại những tiếng rin rít của pu li cẩu kéo lưới từ biển lên sàn dốc. Dây cáp. Rồi dây đõi quấn đay xơ xác. Nước bùn chảy ào ào trên boong tràn qua mạn. Tiếng rì rì của tời kéo đụt cá. Giật đụt. Cá trút xuống mặt boong. Bơm nước mặn rửa cá. Lấy xẻng xúc lên băng chuyền. Băng chuyền cao su tràn nước, những con cá mới sa lưới còn sống chen nhau giương mang nghiêng mình lách ngược dòng nước chảy. Cá trên băng từ phía lái ngược lên đổ xuống hầm chế biến. Xếp cá vào khay. Rốp xình. Rốp xình. Cá đầy khay, đậy nắp lại, móc khuy một đầu, rồi tì khuỷu tay ấn một cái thật mạnh. Rốp. Rốp. Rốp. Nghe cứ ghê người. Phải lấy hết sức mà làm. Không khỏe ấn mãi cái nắp cũng không xuống. Đưa khay cá vào tủ đông. Xình. Xình. Xình. Rốp. Rốp. Rốp xình. Rốp xình. Đinh tai nhức óc.

Bôn biết anh em. Họ rất tốt. Nhưng những lúc như vậy chớ có lên lớp họ. Lúc ấy tất cả sẵn sàng văng ra những câu giọng đuôi cá đuối. Kết quả chắc chắn sẽ là ngược lại. Bởi vì lòng vả cũng như lòng sung. Điều anh nghĩ tới đầu tiên khi nhận lệnh chuyển tải đánh thêm hai trăm tấn cá nữa là nghĩ tới giám đốc: Tất cả cho 10.000 tấn cả, khẩu hiệu ấy nếu thực hiện được và vượt nữa có lợi cho ai? Trước tiên là lãnh đạo xí nghiệp mà giám đốc là người được hưởng nhiều nhất rồi đến đám cán bộ trung gian, trưởng phó phòng, thuyền trưởng thuyền phó, cuối cùng mới đến anh em công nhân thủy thủ, may mắn ra thì được thêm một tháng lương, tháng lương thứ 13. Thuyền trưởng sẽ được chú ý, lên lương, được điều sang các tàu máy móc thiết bị còn tốt, được tặng các danh hiệu thi đua và quan trọng hơn cả là tăng thêm hy vọng được điều xuống các tàu đông lạnh chở hàng đi nước ngoài để được đổi đời. Anh em thuyền viên chỉ được hưởng cái xái xa xôi nhưng rất ít: Lời nói của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch bao giờ cũng có trọng lượng hơn, chữ ký của thuyền trưởng tàu hoàn thành kế hoạch đề nghị thi nâng cấp nâng bậc, đề nghị điều chỉnh lương bao giờ cũng được trên lưu ý và được bố trí vào thời gian thích hợp nhất. Bôn biết cái đám ăn xái đang làm việc kia có lý khi nghĩ về lãnh đạo con tàu, lãnh đạo xí nghiệp như vậy. Anh thông cảm với họ, từ những chuyện nhỏ nhất như sự so sánh cửa miệng của anh em: Không gì khổ bằng cái nghề này. Giời mưa con chó cũng biết chạy vào trong nhà, thế mà mình lại phải lao ra ngoài mưa. Cả cái câu của lưới trưởng Giáp trong một bữa bia ở Ngã ba Đông Dương khi tàu kết thúc chuyến biển dài ngày, cập bến, một câu nói tự đáy lòng như một lời than thở:

- Lên bờ trông người phụ nữ nào cũng đẹp.

Thế là đã nói bớt đi, nói cho lịch sự rồi đấy. Đi biển lâu ngày, về bờ nhìn người phụ nữ nào cũng thấy uyển chuyển, dịu dàng, duyên dáng, xinh đẹp và gợi tình. Người phụ nữ nào cũng làm mình muốn ôm chầm lấy, cũng làm sống dậy trong mình cái máu đa si!

Thế mà phải lùi cái ngày ấy lại, cái ngày về bờ để nhìn thấy người phụ nữ nào cũng đẹp cũng gợi tình lại. Mà xí nghiệp có đến cả chục lý do để lùi, để kéo dài chuyến biển: Tàu về bến quá đông, không có cầu đỗ, thực phẩm Hà Nội hết chỉ tiêu lấy cá, kho lạnh điện phập phù, mấy thằng điên nặng này ngơi phong bì là hết ưu tiên v.v...

Tôi đi ngủ sớm. Nằm. Không định ngủ nhưng mắt cứ díp lại. Những mẻ lưới về đêm kéo lên tôi không được biết. Cũng chẳng rõ tàu đi đến đâu nữa. Nhưng mẻ lưới sáng sớm hôm sau có mặt tôi. Bác Sĩ bảo tôi:

- Con giời. Sao ngủ sớm thế. Hôm qua tao gọi mày dậy ăn cá nướng mà cứ ngủ thôi.

Tôi dậy đúng lúc kéo lưới. Hai cái đụt tômphinhphính treo trên mỗi càng tăng gông. Chú Hồng giật cái dây, tôm cá xổ xuống mặt boong gỗ. Râu tôm đỏ đọc giương lên. Những chân tôm, những vi ở bụng tôm vẫy vẫy như múa trông rất vui mắt. Tôm búng tanh tách làm bắn cả nước lên mặt tôi. Nhưng cá vẫn nhiều hơn. Rắn biển từng búi từng khoanh. Một con nhệch nghiến chặt một con tôm. Con cá ó to nhất hội nằm ngửa như một con chim lật ngược, vẫy hai cánh cố ưỡn cái bụng trắng lốp lên. Một con bạch tuộc chết. Còn con bạch tuộc sống nằm giữa đống tôm cá, thỉnh thoảng phổng mình lên rất to rồi lại xẹp xuống.

Tôi túm lấy con bạch tuộc. Nó nhão nhớt, trơn tuột. Nhưng một cái râu của nó quấn vào cổ tay tôi, và những nốt sần trên râu hút chặt lấy tay tôi. Tôi ném mạnh nó xuống biển. Ngay lập tức con bạch tuộc phồng cái bụng như một quả bóng hình bầu dục và giật lùi về phía sau. Khi di chuyển những chân tay của nó chụm lại thành một búp thon thon gọn gàng trông giống một quả bầu nậm nhỏ và dài. Mấy cái giật lùi như vậy, nó đã mất hút trong làn nước biển. Nhưng phải nói đẹp nhất là con tôm bơi. Khi chú Hồng điều khiển tơi thả lưới, một con tôm to vướng vào tấm lưới treo ở đầu tăng gông rơi xuống biển. Nó bơi. Hai chiếc râu dài cong vút về phía sau. Hàng vi ở bụng quạt nước lấp lánh lấp lánh, mình tôm duỗi thẳng, đuôi xòe rộng dưới làn nước biển xanh... Rất nhiều loại cá. Tôi không biết tên. Con nào cũng đẹp. Đủ các màu sắc. Tôi nhặt một con cá nhám còn sống đặt lên tang tơi nhìn ngắm. Trông nó thật đẹp. Nó không bềnh bệch như con cá nhám chết đang nằm dưới kia. Da nó có những màu sắc của da trời. Trong, xanh, vàng, bàng bạc thay đổi liên tục. Mang nó phồng lên xẹp xuống cũng như nó luôn cựa mình. Chơi một lúc, tôi ném nó vào đống cá dưới boong. Một con cá to màu xám đã lách theo mạn be rồi lại cứ ngược dòng nước xối từ mảy bơm trở về đống cả. Có hai con sam bé tí, đuôi dài thẳng đơ, vụng về bò ra be, ngay lỗ thoát nước mà không biết đường lăn xuống biển. Toàn tàu ra nhặt tôm. Tất cả tôm cá được phân loại, cho vào lổ đưa xuống hầm đá. Những làn mưa mỏng buông chung quanh chỗ chúng tôi. Có lẽ chỉ ở biển mới được thấy những làn mưa mỏng, võng từ trên trời xuống như vậy. Một cơn mưa dày hơn, đen hơn đang trút xuống phía đất liền. Bố tôi bảo với chú Hùng:

- Hôm nay nước ương. Cho tàu đảnh xuống rãnh được.

Bố tôi và chú Hùng chụm đầu vào hải đổ. Tấm hải đổ có in những chữ số nhỏ li ti, chi chít ghi độ sâu của biển, trải trên bàn, thực ra không phải là bàn mà chỉ là một tấm gỗ phẳng đảnh véc ni được bắt chặt vào vảch cabin buổng lải. Lưới treo trên tăng gông. Tàu hành trình đến rãnh. Những mẻ lưới ở rãnh quả là nhiều tôm. Nhiều tôm nhưng ít cả. Cảc chú bảo hễ được nhiều tôm là ít cả. Ngược lại ít tôm là nhiều cả. Những con tôm búng nhảy, những con tôm nằm yên một chỗ vây bụng đỏ hồng chuyển động đều đều phảt ra tiếng rì rào nhè nhẹ. Bảc Sĩ nhặt một con cả trắng, tròn, nhỏ xíu bảo mọi người:

- Kỳ trước về Bắc Giang, bà Đảng (tức là mẹ tôi) cắp rổ đi chợ mua về một rổ cả bướm. Tưởng cả bướm là cả gì, hóa ra cả này.

Tất cả cười ầm. Tôi hỏi bảc Sĩ:

- Cả này gọi là cả gì hở bảc?

- Con cả ót. Ót liệt.

Hôm nay Bôn phóng xe tranh thủ về gặp người phụ nữ của anh, người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng yêu quý anh lúc nào cũng muốn ấp vào anh. Gửi xe ở một hàng nước đầu phố, (anh không muốn tiếng xe máy bố cáo với mọi người rằng anh đã về) anh đi bộ về nhà mà như đã nghe tiếng chị thở hổn hển dồn dập bên tai. Lần này chắc chắn anh sẽ ngồi như ông Thế Trường ngay từ những giây phút đầu tiên mà không đợi chị phải nhắc, phải giục. Trên đường về nhà, anh chỉ sợ gặp người quen. Chỉ cần lúc lỏn vào nhà không gặp ai, không có ai trông thấy là được. Anh cười thầm: Cứ như thằng đi ngoại tình. Cứ như thằng ăn trộm. Rồi nghĩ: Giờ này hai đứa con anh đang ở trường. Còn vợ anh thế nào chẳng biết ngày giờ tàu cập bến. Và cái anh chàng Đức, trưởng phòng điều độ thế nào chẳng vừa cười vừa đưa sổ ghi điện cho chị bức điện xin cập bến bốc cá của anh. Nửa chặng đường, không gặp người quen, Bôn hồi hộp cầu mong cho quãng đường còn lại. Cầu được ước thấy: Không một ai quen! Đã nghĩ đến bữa tiệc ái ân sắp được hưởng nhưng vừa đến chân cầu thang lối lên nhà anh, một người từ trên xuống. Trông thấy anh, người ấy reo to:

- Chào thuyền trưởng! Chờ mãi. May quá, đang định về.

Một đòn choáng váng! Thông! Một người bạn từ xa xưa, thời còn học trung cấp thủy sản! Cùng một khóa nhưng sau khi tốt nghiệp, Thông văn hay chữ tốt nên được về làm phóng viên tờ báo địa phương, theo dõi ngành thủy sản. Thỉnh thoảng vẫn xuống xí nghiệp lấy tin viết bài. Và bởi đã từng học thủy sản nên Thông quen biết rất nhanh, nhất là hàng ngũ thuyền trưởng thuyền phó các tàu. Đến tàu nào Thông cũng được quý trọng và đón tiếp nồng nhiệt. Chuyện nghề nghiệp. Chuyện mùa vụ. Cả chuyện nhân sự thành phố. Chuyện thời sự quốc tế. Ăn, nhậu và quà. Quà sang trọng: Cá chim. Tôm he. Mực tươi, mực khô. Thông lại có cách nói toạc ra những điều thầm kín pha lẫn hài hước. Ví như tối hôm trước, sau khi ăn nhậu dưới tàu VT 250 và được thuyền trưởng Lê Mây cho một lồ mực ống tươi, phải lấy miếng vải nhựa đi mưa ra đùm, lại còn thân hành đưa ra khỏi cổng bảo vệ; sáng hôm sau Thông xuống tàu để cảm ơn, một kiểu cảm ơn thật thà như đếm: Cám ơn thuyền trưởng. Thuyền trưởng làm hai vợ chồng tôi gần chết. Ăn thế chó nào hết gần chục cân mực. Đem cân ra cân, chính xác là chín kí bảy. Nhà tôi phải sắm một cái cân đấy bố ạ. Chỉ để cân cá cân mực xin được. Tin làm sao được cân của mấy mụ hàng cá. Nó cân cho mình, một cân chỉ tám lạng. Nó mua của mình, một cân của nó ăn cân ba. Cân lên chín kí bảy tươi. Hai vợ chồng hai đứa con, ăn nhiều lắm là ba kí. Đèo nhau ra chợ Trần Quang Khải, bán bảy ký. Coi như được một tháng lương.

Mỗi khi ăn ở dưới tàu, Thông hay cười cười nửa đùa nửa thật: Có vào người bữa đạm này, về nhà ăn rau cả tháng vẫn đủ chất, nhường mọi thứ tiêu chuẩn thịt cá cho vợ. Được một con hồng bự của tàu đông lạnh, cho vào bao dứa, Thông nói với mọi người dưới tàu: Đem con cá này về vất đánh huỵch một cái giữa nhà rồi ngồi thở. Chỉ thở thôi. Vợ con mắt sáng lên. Con lấy quạt quạt cho bố. Vợ pha nước chanh. Đèo cá qua cổng bảo vệ, Thông nhăn nhở: “Anh là nhà báo đây. Vì vậy rất đói. Tàu cho anh con cá, đừng bắt anh, em nhé”. Nói vậy thôi chứ ai cũng coi phóng viên Duy Thông như một thứ người nhà rồi. Tuy làm báo nhưng Thông lại có mộng viết văn, làm thơ. Đã có thơ đăng báo của hội văn nghệ địa phương và gần đây viết rất lên chân (cách nói của Thông) bằng chứng là có thơ in cả trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn. Không những thế, còn mới in một tập thơ, mỏng thôi, thuyền trưởng cho cá hay không cho cá đều được Thông tặng:

- Tự bỏ tiền in đấy các chiến hữu ạ. Tiền bán cá các chiến hữu cho, chứ mình lấy tiền đâu ra mà in. Thơ đọc được đấy. In xong trong túi không còn đồng nào. Xuống xin các chiến hữu chi viện đây. Lúc đi qua ngã tư Trại Lính, chẳng biết đang nghĩ ngợi cái chó gì, vượt đèn đỏ. Công an tít, giở biên lai ra ghi phạt. Mình bảo: Anh là nhà thơ đây. Nghèo lắm, chẳng đồng nào trong túi. Nó bảo thật không? Mình rút tập thơ trong túi ra: Đây, ảnh anh in ở bìa đây. Nó cầm tập thơ xem rồi bảo: Anh là nhà thơ thật nhỉ. Anh cho em tập này nhé. Mình ký tặng ngay. Thế là cứ thế đi thôi. Không phạt phung gì nữa. Với lại trong túi không còn đồng nào thật.

Gặp Thông, Bôn chết lặng. Gặp người quen là đã đại hạn rồi. Huống hồ gặp Duy Thông! Mà lại gặp ngay chân cầu thang lối đi lên nhà mình! Không trốn đi đâu được! Thông nắm chặt tay anh. Anh gỡ ra nhưng Thông càng nắm chặt hơn với tất cả nhiệt tình vồn vã. Tôi vừa lên nhà. Gặp bà ấy. Bà ấy nói ông đi biển. May quá. Suýt nữa không gặp. Sao, chuyến này thắng chứ hả. Hôm nọ xuống xí nghiệp gặp thằng Đức điều độ, nó bảo ông đánh ở Bạch Long Vĩ, sóng lắm phải không. Ông chịu sóng cũng xoàng. Chịu sóng khá nhất trong hàng ngũ thuyền trưởng phải kể đến Lê Mây. Biển động tàu vào trú gió, sóng mới hạ xuống cấp 6 đã lay từng thằng một, giục nó ra biển. Nịnh từng thằng một. Dỗ như dỗ em. Nhưng mà đánh thế là phí sức. Phải biết tiết kiệm sức lực của anh em như ông mới đúng. Căn bản là năng suất mẻ lưới chứ không phải số mẻ lưới. Cứ nồng nhiệt như vậy, tào lao chi khươn như vậy, gần như Thông lôi Bôn đến cửa nhà anh. Buồn nản cùng cực, nguyền rủa cuộc gặp mặt, nguyền rủa Thông, Bôn nhìn vợ với hai con mắt chứa chan tình yêu, ham muốn lẫn tràn đầy thất vọng. Anh nuốt một cái gì vào họng, cố nặn ra một nụ cười mà không được:

- Có anh Thông đến chơi.

Liếc nhanh bộ mặt đâm lê của chồng, rồi nhìn sang Thông vẫn đang đầy một niềm phấn khích, chị Ngát lạnh lùng:

- Thế là anh lại gặp nhà em đấy hở.

Rồi quay đi, giấu một cái nguýt rõ dài. Rõ ràng Ngát còn thất vọng hơn Bôn. Bởi chị đã xin phép công ty nghỉ buổi sáng hôm nay, lại đã tắm rửa cẩn thận chỉ để được gần chồng ngay sau khi tàu cập bến chứ không phải chờ đến tối.

Chiếc cần cẩu thiếu nhi - người ta gọi nó như vậy có lẽ vì nó nhỏ, đặt trên một cái bệ có bốn bánh xe bằng sắt, một người có thể dùng tay đẩy nó đi từ đầu đến cuối cầu cảng, do một công nhân nhỏ nhắn đã có tuổi tên là Chín điều khiển. Tổ bốc cá mà ở đây người ta gọi gọn là tổ bốc chỉ có mỗi ông Chín là đàn ông. Trước đây tổ bốc toàn chị em người Việt gốc Hoa, họ nói tiếng Việt như người Việt gốc Việt, nhưng họ nói với nhau toàn bằng tiếng Hoa, ríu rít như một đàn chim hót líu lô. Sau năm 1979, đám nữ công nhân gốc Hoa ấy biến đi đâu hết. Chỉ còn trơ lại mỗi ông Chín. Thấy ông vẫn đứng điều khiển cần cẩu trên cầu cảng, nhiều người nhìn ông ngạc nhiên. Ông hiểu cái nhìn ấy, tròn mắt:

- Anh tưởng tôi là người Hoa à? Tôi là người Việt trăm phần trăm. Thế mà ai cũng nghĩ tôi là người Hoa. Rõ chán.

Ngày trước ông đứng cẩu. Bây giờ ông vẫn đứng cẩu. Chị em làm dưới hầm cá lạnh và tanh hôm nay là những chị em người Việt.

Chiếc cần cẩu kêu ro ro. Nó hạ thấp cần xuống miệng hầm cá. Rồi nó lại kêu. Lần này tiếng kêu của nó nặng hơn vì đã mang tải. Đầu cần ngóc lên. Dây móc cẩu căng làm bắn ra những giọt nước đùng đục màu vàng. Dưới hầm chị em tổ bốc ngoắc cái đụt cá đan bằng những sợi ni lông trắng đã ngả màu cháo lòng, xơ xác bẩn thỉu, ướt đẫm, trương phềnh, cái đụt đã chất đầy cá nục, cá mối, cá đổng và các thứ cả ba quân vào móc cẩu. Cần cẩu quay nặng nề, vừa quay vừa từ từ ngóc lên cao và hướng về một chiếc xe ô tô đang nổ máy. Trên thùng xe, một chị công nhân quần bông áo bông, ủng cao tới gối, mặt bịt kín giơ bàn tay đi găng đón cái đụt cá. Chiếc cần cẩu như chỉ chờ có vậy. Ông Chín như chỉ chờ có vậy. Cái đụt cá dừng lại lửng lơ. Nó rỏ những giọt nước lờ lờ như nước gạo và nặng mùi bị gió thổi bay chéo. Chị bốc cá giật mạnh sợi dây ở đáy đụt. Đó là cái nút hoạt mà Mai ?