- VI -
Rượu cứ rót. Rượu thuốc ngăm ngăm nhưng cũng bừng bừng. Món thịt quay mềm, bì giòn tan. Khi chị Bấm mặt đỏ ửng bưng đĩa rau muống xào vào, Mây xúc động rưng rưng:
- Mình ngồi đây, uống với anh em tôi cho vui.
Quân cũng chèo kéo nhưng chị Bấm nhất định không ngồi, chị bảo còn phải nấu cơm trưa, hai thằng nhỏ sắp về rồi. Mây nhìn dáng đi ra đi vào tất bật của vợ mà thương quá:
- Bà ấy lấy tôi toàn là vất vả. Cái tivi cũng mới có tháng trước. Mình cũng chẳng có tiền mua. Một thằng lính của mình ngày trước đi tàu nước ngoài cho, giả tiền không lấy. Cũng chẳng riêng gì mình. Cả xóm này trước đây ai có tivi ngoài ông Quán Mèo. Cứ tối cả xóm đổ xô đến nhà Quán Mèo. Chỉ vài người lớn dám vào nhà nó. Còn toàn trẻ con. Cứ đứng cửa. Nó phải ra mời vào.
Chè nước. Lại cả thuốc lá nữa. Bọn này không hút. Chỉ hút thuốc lào. Xì bẩn cả nền đá hoa nhà nó. Về sau dáng chừng cu cậu sợ bẩn. Lại mất thời gian, mất tự do nữa chứ. Thế là sắp bảy giờ nó đã đem cái ghế kê giữa ngõ, đặt tivi lên, câu điện ra, rồi khóa cửa đi chơi. Trẻ con thì chưa Bông hoa nhỏ(1) đã ngồi dài ra cả rồi. Tôi chỉ nghe thời sự với cải lương. Bà vợ tôi thì phim. Bây giờ nhà nào cũng có tivi mới hết cảnh ấy. Tôi là thằng có tivi sau cùng. Một hôm thằng Ân đến chơi. Nó cho mấy trăm với chai rượu Ông cụ. Nó bảo nhà anh chưa có tivi à? Thế là nó cho một cái. Từ ngày có tivi vợ con không phải đi xem nhờ nữa. Cám ơn thằng Ân quá.
Rượu cứ rót. Rượu thuốc cũng say. Mây gục đầu xuống bàn. Một lúc sau ngẩng lên, chém mạnh tay vào mặt bàn, rồi cất giọng buồn rầu:
- Giám đốc không hiểu tôi.
Quân cười:
- Giám đốc hiểu đồng hương quá rõ nên đồng hương mới thế này đồng hương ạ!
Rồi nhìn ra cửa ngó trước ngó sau, thì thầm vào tai Mây:
- Giám đốc biết cả chuyện ông nhìn thấy giám đốc ngồi như Tây với cái Hoa đấy.
Mây giật thót, tỉnh hẳn rượu:
- Chết mẹ. Thật không? Ai nói ông biết?
- Ông Nguyên chứ còn ai. Chính ông Nguyên thuyền trưởng tàu 19 chứ còn ai.
Vụng Ngọc bốn chung quanh là núi đá. ơ Vụng Ngọc không nhìn thấy chân trời. Cửa vào rộng, trông về hướng nam. Đứng chắn ở cửa là một hòn núi đá đơn độc giống một chiếc hài nằm trên sóng vỗ. Bác Sĩ kể cho tôi nghe sự tích hòn núi đó. Nó tên là Núi Hài. Có một hôm các nàng tiên trên trời rủ nhau xuống biển tắm. Đã đến giờ phải về nhưng một cô tiên còn mải mê vui đùa bơi lội nên lên bờ sau cùng. Khi tất cả đã bay về trời, cô tiên này mới mặc xong quần áo và xỏ hài bay lên. Vừa bay thì một chiếc hài rơi xuống biển. Đã hết giờ, cô không dám quay trở lại nhặt hài. Chiếc hài đó là ngọn Núi Hài chơ vơ giữa biển, chắn sóng cho Vụng Ngọc. Từ trong vụng nhìn ra chẳng thấy chân trời đâu, chỉ có sóng biển xanh đập vào vách đá Núi Hài trắng xóa. Và sóng xô vào vách núi cửa vụng, dựng đứng, bắn tóe những bọt nước. Trong vụng rất nhiều tàu nhiều thuyền. Những tàu thuyền đánh cá tôm quanh đây đã tập trung cả ở vụng Ngọc. Biển động. Hôm qua sóng êm biển êm là thế mà hôm nay biển động. Đúng như bác Sĩ chú Hồng nói. Có những con tàu sơn xám cũ kỹ. Những con tàu như tàu của bố tôi nhưng không có càng xòe ra hai bên. Họ không đánh tôm. Có những con tàu rất to, sơn đỏ, cần cẩu như một cái cổng chào. Tàu nào cũng có những chiếc thuyền nan dập dềnh bên cạnh. Trên thuyền phần lớn là phụ nữ. Đó là những thuyền đi bản hoa quả, đi mua cả như hai chiếc thuyền đã đến tàu của bố tôi. Trong vụng còn có một loại thuyền nan nữa, loại thuyền không đi đổi hoa quả, mua cả, mà chuyên chở những người dưới tàu, từ tàu vào bờ, hoặc từ tàu này sang tàu khảc. Vụng rất rộng và êm ả. Nóng nữa. Ngoài kia gió là thế, sóng là thế mà trong này chỉ lăn tăn. Chú Hồng, bảc Suất, chú Quẹn, chú Đỉnh rủ nhau vào bờ. Thấy vậy tôi cũng đi theo. Tôi muốn biết ở cái bến xa xa với những mải nhà thâm thấp cây cối mọc nhiều kia có những gì. Và đằng sau những mải nhà ấy, đằng sau những cây cối ấy có gì nữa. Cả những ngọn núi đả nhấp nhô xanh đen phía xa. Nếu bây giờ không đi sẽ chẳng bao giờ tôi có dịp đặt chân đến. Thoảng một chút ngần ngừ. Bốn người nhìn nhau dò hỏi. Tôi không hiểu ra sao. Đã định không đi. May quả, chú Hồng cười, gật đầu. Rồi chú vẫy một chiếc thuyền nan. Chúng tôi tụt thang dây xuống thuyền. Cô lải đò quần ảo bạc phếch gầy gò đen nhẻm, tóc xơ xảc im lặng chèo. Chú Hồng bảo tôi:
- Taxi của thủ trưởng đấy mày ạ.
Chiếc “taxi của thủ trưởng” lướt đi khả nhanh, thẳng hướng vào bến. Gió mảt. Chú Quẹn phanh ảo bảo: Xuống đây còn đỡ. Trên quan tài sắt chảy mỡ ra. Thuyền cập bến, tất cả chúng tôi nhảy lên, leo một cái dốc xoai xoải là tới đường cái. Một con đường rải đả, phía vụng trổng nhiều cây còn phía trong là một dãy hàng quản có treo biển: Cà phê giải khảt, hàng cơm, cắt tóc, gội đầu thư giãn,... lèo tèo nhưng nó làm tôi ngạc nhiên, không ngờ ở một vụng hoang vắng ngoài đảo này mà cũng có nhiều hàng quản như vậy.
Cửa hàng nào cũng gọi chúng tôi. Gọi đúng tên từng người, tất nhiên là trừ tôi. Chúng tôi vào một quản cà phê giải khảt. Nóng quả. Không có điện không có quạt. Nhưng cốc nào cũng đầy ắp nước đả. Tôi nêu thắc mắc ấy với chú Hồng. Chú Hồng bảo: Mày cứ hỏi vớ vẩn. Đả cảc tàu thiếu gì. Ba cô gái trẻ mặc quần soóc bó từ phía trong bước ra. Em chào anh Suất. Em chào anh Hồng. Em chào anh Đỉnh. Em chào anh Quẹn. Em chào anh... anh gì nhỉ? Anh chưa biết tên. Bảc Suất bảo: Thằng con anh đấy. Nó còn đang đi học. Cả ba cô reo lên. Anh Suất có con lớn thế này rồi cơ à? Đẹp trai quả. Mà không phải rồi. Không được nói dối. Anh Suất làm gì có con trai. Bốn vịt giời chứ làm gì có con trai. Một cô vò đầu bảc Suất: Nói dối ai chứ nói dối chúng em sao được. Tôi xấu hổ quả, không dảm nhìn ai, lại càng không dảm nhìn cảc cô. Nhất là khi cảc cô vây quanh năm chúng tôi. Những chiếc ảo chẽn như nhô ra, những đôi chân trần cứ sảng lóa ngay trước mắt tôi. Và mùi quần ảo, son phấn... Tôi rất hối hận đã lên bến. Tôi đã gây nên một tình huống khó xử và chỉ muốn độn thổ đi cho rồi. Làm một hơi cạn cốc nước mảt, tôi đứng dậy:
- Cảc chú cảc bảc ngổi đây. Chảu đi ra ngoài một lảt. Nửa tiếng nữa chảu quay lại.
Và bỏ ra ngoài. Nửa tiếng. Tại sao tôi lại nói nửa tiếng. Tôi cũng chỉ có thể lang thang ở cái phố đảo này nửa tiếng là cùng. Xem ra cũng chẳng có gì. Với lại hình như nửa tiếng là thời gian cần thiết tôi vắng mặt ở cái quản cà phê giải khát ấy. Tôi đi mà không biết mình đi đâu. Đầu tôi vảng ù. Ấn tượng về các cô gái trẻ (chắc chỉ hơn tôi vài tuổi và không cao bằng tôi) vây quanh, mùi son phấn vừa lạ vừa thơm của họ như còn quanh quẩn bên tôi, bám vào người tôi, nói với tôi về một thế giới tôi chưa hề biết. Thế giới ấy đã gần tôi lắm. Tôi đã ngửi thấy hơi của nó. Thế giới ấy đang diễn ra trong quán cà phê giải khát tôi vừa bước ra. Tôi vừa đi vừa nghĩ trong mùi nước mắm ngào ngạt, mùi cá phơi được nắng thì có tiếng gọi tên tôi. Tôi quay lại: Chú Hồng. Chú Hồng chạy theo tôi: Thằng cu! Chờ chú. Hai chú cháu đi bên nhau chẳng nói một câu. Tự nhiên tôi đi sát vào chú Hồng vai chạm vai và ngước nhìn chú: Tôi đứng đến tai chú. Chú chẳng cao hơn tôi bao nhiêu. Thế mà mọi người nhìn tôi như một đứa trẻ con. Tôi cũng luôn nghĩ mình là một đứa trẻ con. Chúng tôi đi sâu mãi vào trong đảo. Đường vắt ngang sườn núi. Đi trên đường nhìn xuống thấy một thung lũng lúa đang lên xanh. Nhiều nhà dân mãi xa. Thấy xí nghiệp nước mắm. Thấy một công trường, có cả cần cẩu, xe ô tô và rất đông người làm việc. Chú Hồng bảo:
- Công trường xây dựng khu du lịch.
Tôi nói:- Chú cháu mình về đi. Trưa rồi.
Tôi muốn nói “quá nửa tiếng rồi” nhưng lại thôi.
Bữa rượu đang đến độ, nghĩa là hơi men bắt đầu ngấm, cuộc vui còn nhiều hứa hẹn, rượu còn gần bốn chai, gói thịt quay còn già nửa, món rau muống xào cũng vẫn còn thì Đay, Fa Ra Đay đến. Nhìn dáng người cao lớn, cái lưng cánh phản, khuôn mặt nổi những múi thịt, chiếc cằm lẹm bên dưới cặp môi mỏng dính của Đay, Mây và Quân đều thất vọng. Họ không muốn có ai ngồi vào mâm rượu với họ trong lúc này, lại càng không phải Đay. Dù Quân chưa bao giờ đi cùng tàu với Đay, dù Mây là thuyền trưởng còn Đay là máy trưởng kiêm bí thư chi bộ tàu Mây. Cả xí nghiệp ai chả biết Đay. Đay ngồi chỗ nào là tất cả mọi người ở đấy đều biến thành người nghe, chỉ một mình Đay nói. Bởi Đay luôn đúng, luôn biết tất cả. Không chỉ giỏi lý luận nhất khối tàu, Đay còn là nguồn cung cấp mọi thông tin trên giời dưới biển. Đề tài gì Đay cũng có thế chen vào và trở thành người dẫn dắt câu chuyện. Thậm chí việc khai thác là của thuyền trưởng, nhiều khi Đay cũng nhảy xổ vào góp ý. Mây ao ước có một máy trưởng như Cải bên tàu Bôn. Hơn chục năm làm máy trưởng, Cải chưa một lần chịu gãy chuyến biển. Và lúc nào cũng tận tình làm theo ý đồ khai thác của thuyền trưởng. Đay cũng hăng hái đấy nhưng còn lâu mới được như Cải. Đang mùa cá, mà Đay có công có việc bận ở nhà, y như rằng máy tàu còn nhiều chuyện, chưa thể đi được. Phải ít nhất ba ngày nữa bố ơi. Còn cái ắc đỡ li hợp, bình thường năm ngày, làm ngày làm đêm cũng ba ngày. Khi cái bơm nước làm mát, khi mấy cái răng gạt cáp... Tàu sửa chữa, Đay cứ khoán mặc anh em trên phân xưởng, phóng xe đi đâu miết. Mây đã có lần góp ý với Đay là phải quan tâm đến anh em thợ một chút, đối với lính tráng phải niềm nở ân cần. Nó mượn cờ lê, nó mượn cái ống tuýp để bắt vào cờ lê mình phải lấy cho nó, nó mượn cưa, có ngay. Đay vặc:
- Quan tâm thế nào? Cười à? Chào anh à? Ừ thì cười, chào. Có khi nó còn chửi cho đấy. Trách nhiệm nó sửa thì nó phải sửa.
Mây nhẹ nhàng:
- Trách nhiệm của nó là đúng rồi. Còn vấn đề tình cảm nữa. Tôi nói ví dụ như cái gối đỡ. Đáng lẽ sửa thế này. Nó lại sửa thế này. Bảo nó. Nó bảo tìm tổ trưởng mà nói. Tổ trưởng bảo làm thế tôi làm thế. Tìm được mấy ông tổ trưởng mất nửa ngày. Thế nhưng thông cảm với nó, nó sửa ngay.
Đay xùy một cái rõ dài:
- Ông cứ nịnh chúng nó, chúng nó hư đi. Chúng nó làm thì chúng nó có lương. Cứ đúng nguyên tắc tôi làm.
Thấy Đay, cả hai cùng a lên một tiếng và cùng săm sắn: Ngồi đây. Ngồi đây. Không hẹn mà gặp mới thích. Chị Bấm vội lấy thêm bát đũa. Không khách khí, Đay ngồi xuống mâm ngay:
- Đang thèm rượu, hai hôm nay không có tí gì vào họng. Ừ. Có lẽ mình cũng phải cầm quyển y bạ lên y tế mới được. Sáng kiến của ông Mây hay ông Quân đây.
Chưa bao giờ Mây thấy Đay có khuôn mặt rạng rỡ tươi vui như vậy. Vui từ trong lòng vui ra, một niềm vui không giấu được. Có chuyện gì thế nhỉ? Nhưng thôi, không hỏi. Hãy để Đay tự nói ra. Đặt chén rượu đã uống cạn xuống mâm, Đay ngước cặp mắt sáng ngời nhìn hai người bạn:
- Khốn nạn đã biện cái lễ lên giám đốc xin tranh thủ đi chuyến nữa tăng thêm sản lượng cho xí nghiệp mà không được. Rách quá.
Quân cười:
- Cái lễ của các ông làm ô nhục cả giám đốc ra. Giám đốc đâu nhận cái lễ như vậy. Nhưng mà này tôi hỏi thật nhá. Ông Mây nói ông nhận với giám đốc là có ăn cắp cá, nhưng ông ăn cắp có văn học. Thế là thế nào? Ông nói cái ăn cắp có văn học của ông như thế nào cho tôi nghe.
Tất cả cười. Chị Bấm vừa lấy cái đĩa đặt nắm rau kinh giới mới rửa còn ướt đẫm nước từ sân bước vào cũng không nhịn được cười. Quân tiếp:
- Mà sao ông lại buổi dải thế?
Chị Bấm đỏ rừ mặt vì câu nói tục tĩu của Quân. Chưa trả lời ngay, Đay làm tiếp một chén rượu nữa rồi nhăn mặt:
- Tôi không thích món rượu thuốc này. Bí quá phải uống thôi. Còn cái ăn cắp có văn học là như thế này: Đại loại như bảo thằng cấp dưỡng chiều nay anh không ăn cơm tàu, làm cho anh mấy khúc cá ngon anh mang lên phố ăn trên ấy. Thế là báo cáo hai anh, một chị cá song đầu nó to phía trên bụng thì rỗng, tôi lấy mấy khúc dưới, khúc dưới chứ không phải khúc đuôi, nó đã sỏi vẩy rửa sạch rắc muối đàng hoàng chỉ việc gói ni lông đem đi thôi. Bảo vệ có hỏi cũng cứ nói thế với lại chính sách nào đi bắt cá muối. Cũng có khi bảo thằng thợ máy nhặt mấy con cá ngon sỏi vẩy cẩn thận mổ bụng xắt khúc tinh tươm, làm vài con mực nang to lột mai rữa ráy sạch sẽ cho vào túi xách về.
Tất cả đều công nhận đúng là cách lấy cá của Đay có văn học. Đay trợn mắt:
- Cứ thế cho nó đàng hoàng. Công khai. Không chui lủi giấu giếm. Mình là thằng thủ trưởng. Sao phải chui lủi giấu giếm. Anh em biết nó khinh cho. Như ông Thai thuyền trưởng 401. Mấy thằng thủy thủ, mấy thằng thợ máy đến nhà thủ trưởng chơi, thấy hai con cá hồng dài tổ bố, mỗi con hơn chục cân nằm đoàng đoàng ngay cữa bếp. Thế thì còn nói làm sao ăn làm sao bây giờ. Mình ăn nhưng còn phải nói. Đâu chỉ có ăn. Mình là thằng cán bộ, còn có trách nhiệm nói nữa chứ. Cho nên cứ phải đàng hoàng.
Lại một đòn gì với ông Thai nữa đây. Hẳn ông Thai mới vướng chuyện gì với Đay, nếu không đã chẳng có việc rêu rao hai con cá hồng thế này. Nhưng là chuyện gì? Cũng có thể không có chuyện gì mà chỉ tỏ ra việc gì cũng biết đấy thôi. Quân cười:
- Ông ăn thế còn nói làm sao được? Xấu hổ chết. Chúng nó cười cho.
Đay chìa chén rượu về phía Quân, cười lớn:
- Cạn với ông một chén. Câu hỏi của ông rất thẳng thắn. Tôi cũng xin trả lới thẳng thắn. Phải không biết xấu hổ. Làm gì mà xấu hổ. Cứ nói. Nói hăng. Thì ông Mây đây cũng thế. Ông lên làm thủ trưởng cũng thế.
Ai làm thủ trưởng cũng thế. Chúng nó thừa biết nhiệm vụ mình phải nói thì mình nói. Mình biết nói chẳng ai nghe nhưng cứ nói. Làm thủ trưởng không thể không nói. Nói giữa hội nghị. Lên bục nói. Cho mọi người bên dưới cùng nghe. Không được vấp váp. Biết mình nói một đằng làm một nẻo, nên lại càng phải nhiệt tình. Ông Thắng cũng vậy. Sếp của ông Thắng cũng vậy. Ai cũng thế tuốt. Đâu chỉ mình mình. Nhưng chỉ vài ba người ngồi riêng với nhau tốt nhất là nói thật. Trên dưới đều cùng một hội. Cho nên ông Thắng rất thích tính thẳng thắn của tôi. Tôi lên là pha chè ngay. Ông ấy bảo tôi phê bình ông ấy. Tôi nói thủ trưởng khôn lắm đấy. Ông ấy bảo thế nào là khôn. Tôi bảo phê bình phải đúng lúc đúng chỗ, cũng như thấy tôi, anh hỏi em ăn cơm chưa? Báo cáo anh ăn rồi. Chốc vào anh uống nước nhé. Thế là thằng bé biết có vấn đề gì rồi đây nhưng vẫn đến. Đến mà thoải mái vì anh bảo đến uống nước cơ mà. Chén thứ nhất không nói gì. Chén thứ hai, chén thứ ba xong anh mới bảo sao mày lại nói tao như thế, ô hay ngày nào mày cũng phải nói một câu lung tung à? Sao không góp ý thẳng với anh?
Hình như đoạn này đã là không có thật rồi, bao năm sống với nhau, Mây quá hiểu tính Đay, tuy nhiên anh vẫn hỏi:
- Câu gì? Nhưng mà câu gì? Ông nói ông Thắng câu gì mà ông ấy bảo lung tung?
Đang cười, Đay bỗng thay đổi hẳn nét mặt, vừa quan trọng vừa nghiêm túc:
- Không được. Không nói ra đây được. Dù là các chiến hữu cũng không nói được. Cho qua. Tổng giám đốc lại bảo ngoài điều ấy ra còn gì nữa nào. Cứ nói thẳng đừng loanh quanh, điện cứ chạy thẳng bắt trực tiếp không qua tăng phô biến thế giảm xuống 110 làm gì. Cứ 220 chạy thẳng. Anh cứ nói thế, thẳng cũng có mức độ. Có khi hai trăm hai. Có khi chỉ còn trăm sáu, trăm rưởi. Lại cũng có khi chỉ còn sáu mươi, tám mươi thôi. Chúng tôi như quả trứng trong tay anh. Các anh mở tay thì còn. Nắm tay thì xây xát mà bóp thì vỡ. Các anh hiểu cho thì được. Các anh thành kiến không dùng thì cho chúng tôi đi. Chúng tôi lao động được, gánh gồng được, đi biển được, ở bờ được mà theo con trâu vặt ra vặt vào cày cắt tám cắt bốn cũng được. Thậm chí làm anh cầm bút đề phong bì, dán hồ văn thư cũng được, chẳng mơ ước cao siêu gì. Có thủ trưởng mới mộng cao cục vụ thứ trưởng bộ trưởng, chứ chúng tôi không. Mà mộng ấy của thủ trưởng là có cơ sở. Này nhé phó tiến sĩ ngành mình ít, đảng viên lâu năm ít, thủ trưởng được cả hai. Thủ trưởng lại chỉ có hai đứa con, anh lớn đã đi làm, còn một cháu gái bé thủ trưởng nuôi cháu cũng như nuôi con họa mi thôi, không như anh em chúng tôi vất vả lắm.
Tiếp tục hỏa mù đây. Chắc là có dính dáng đến chuyện xuống tàu vận tải nước ngoài. Nói vậy để tô vẽ cho mình, rằng mình là người xuống tàu ngoại thương khác với mọi người, rằng mình với tổng giám đốc có một quan hệ thân tình, đặc biệt. Quân hỏi một câu mà anh biết sẽ làm cho Đay sướng:
- Thế không đề nghị giám đốc cho xuống tàu đi nước ngoài à?
Đúng là Đay sướng. Khuôn mặt da thiết bì sạm thế mà cứ ngời lên:
- Có đề nghị cũng chẳng được. Cũng chỉ là thử phản ứng sếp thôi. Như thử phản ứng penicillin ấy. Sếp bảo tớ thích tính cậu thẳng. Tôi bảo không, tôi có thủ đoạn đấy. Thủ đoạn kinh tế, thủ đoạn kỹ thuật, thủ đoạn với trên, thủ đoạn với dưới, đủ cả. Thế là thế nào? Thưa anh thủ đoạn kinh tế là tôi phải biết xoay xỏa chứ cứ đợi xí nghiệp thì có khi sặc gạch. Râu con mực mềm luộc ăn giòn thế mà quăng thì vướng lung tung, vướng hết, kéo đổ cả đấy. Tôi không móc ngoặc cho tôi. Tôi móc ngoặc vì xí nghiệp. Thủ đoạn kỹ thuật tôi cũng làm. Còn thủ đoạn với trên là gì? Là thành thật. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Lòng vả cũng như lòng sung. Tổng giám đốc cũng là người. Với lại giấu sao được tổng giám đốc. Như hôm nọ lên xin tổng giám đốc cho đi chuyến nữa để tăng thêm sản lượng cho liên hợp là không thành thật. Thất bại ngay. Đừng có làm xiếc với lãnh đạo. Lẽ ra phải nói thật: Báo cáo anh nằm bờ lâu ngày khô quá. Khô như mực ống phơi ba nắng giời hanh ấy. Bản thân thế nào chịu cũng được. Còn vợ còn con. Vợ muốn mua cái áo cho con, không có tiền. Bố về không có cá, các con ra đón vẫn chào ba ạ nhưng không được nhiệt tình cho lắm. Cơm không có cá, các chiến sĩ ta uể oải hẳn đi. Cứ nói thế rồi mới nói đến thiết bị máy móc, kết hợp ba lợi ích... Sếp cười rất khoái rồi hỏi còn thủ đoạn với dưới là thế nào? Báo cáo anh cái ấy anh biết quá rõ còn gì nữa. Làm to thủ đoạn to làm nhỏ thủ đoạn nhỏ, tóm lại cũng là sự động viên hứa hẹn vẽ ra một tương lai tươi sáng thôi.
Mây hỏi:
- Ông nói với sếp thế thật à?
Gắp miếng thịt quay cho vào miệng nhai, Đay trừng mắt:
- Còn hơn thế nữa ấy. Nói cả chuyện tôi muốn làm thằng cấp dưỡng tàu. Sếp bảo tại sao. Tôi bảo đấy là người sướng nhất tàu cá. Ngày hai bữa cơm cùng lắm là thêm một bữa mì đều làm trong nhà, mưa không đến mặt nắng không đến đầu. Cái ấy không nói làm gì, trên tàu nhiều người như thế, thuyền trưởng, báo vụ, tổ máy chúng tôi chẳng hạn. Sướng là chỗ khác cơ, thằng cấp dưỡng tàu đứa nào cũng khẳm, thuyền trưởng máy trưởng chống gậy sắt đuổi mòn gậy mà đã kịp nó à, báo cáo thủ trưởng, trước hết gạo em cứ nấu hết tiêu chuẩn bảy lạng ăn hết hay không, mặc, còn thừa em sấy, cho vào máy, sấy nhanh lắm chóng khô lắm, đóng bao mang về nghìn rưỡi một cân cơm khô mà giá gạo này nghìn rưỡi sao được, một chuyến vài bao cơm khô. Rồi đến nước gạo, nước gạo tàu cầm chắc năm trăm một cân các bà ưng ngay, thùng đầy là một tạ đấy thủ trưởng ạ...
Chuyện này có thể thật, Mây cằn nhằn:
- Ông nói thế, gay cho cánh cấp dưỡng rồi.
- Không. Để sếp biết, quan tâm hơn đến thuyền trưởng máy trưởng thôi. Tôi mà nói hết sự thật thì thằng cấp dưỡng chết, thằng cấp dưỡng toi. Nó còn bao nhiêu thứ nữa chứ. Chẳng hạn như cá thu, cá song cứ chặt ra kho, ăn không hết em làm ruốc. Nhiều cá ít cá đêm hôm lưới rách máy hỏng kệ em không biết, cứ hai bữa em làm xong là em phì phèo thuốc lá quần ca dô đánh tú lơ khơ, lại quần ca dô mới chết chứ, nhưng tối kéo lưới em cũng ra nhặt dăm con tôm he, em không ăn mì đêm, em nhặt mấy con cho cháu, thì thằng nào ghen tị với thằng cấp dưỡng về mấy khúc cá thừa mấy con tôm vãi. Ớ biển thế, về bờ thì sao? Sáng sớm ông ấy đã xong xuôi cơm nước rồi, mình ngủ dậy nhìn lên bảng đã thấy cơm trong nồi, cá kho trong chạn, canh chua ở bếp, 3 mâm 4, 1 mâm 3, 1 mâm 2, các đồng chí tự giác lấy, ông ấy biến rồi, một bao lên chợ rồi, vất đi cũng dăm bảy cân, cứ tính mười nghìn một cân thôi, mười nghìn làm sao được, toàn cá ngon rẻ cũng phải mười hai nghìn, đấy là bán buôn cho người ta đấy, đến trưa đang ngủ đã nghe tiếng chặt bồm bộp, bố ấy đã làm cơm chiều rồi lần này không bao nữa mà cặp lồng, cá ngon xắt khúc cho vào cặp lồng thì bao nhiêu, vài cân đấy, mình ngủ dậy đã thấy chữ đề trên bảng mấy mâm bốn mấy mâm ba mâm hai, đấy là tăng hai, tăng ba là chiều tối nấu một cặp lồng cá nữa đem đến mấy bà bán bún riêu, bảo vệ có hỏi cũng chả làm sao, chính sách không đề ra bắt cá chín, chỉ cá sống chứ cá chín thì ai bắt làm gì mấy khúc cá nấu vớ vẩn. Một ngày ông ấy đá ba tăng như vậy là bao nhiêu? Đấy là khi tàu còn bốc cá, bốc cá xong xuôi thì...
Đay buông đũa đứng lên, cao lớn, sù sì khoanh hai tay lễ phép, đầu ngoẹo đi, bắt chước anh cấp dưỡng nào đó, thiểu não:
- Báo cáo anh, em nghỉ bù.
Rồi Đay cười phá lên. Tiếng cười tắt ngay, hai mắt giương tròn:
- Thuyền trưởng máy trưởng đuổi sao kịp nó? Ông có công nhận thằng cấp dưỡng nào cũng khẳm không? Đấy là chưa kể món chả cá không phải xay mà chạy mô tơ cái vẩy cũng rừ.
Đay làm động tác đổ cá từ máy xay ra khay, rưới mỡ vào khay, đút khay vào gầm lò, giơ tay ngang mặt xem đồng hồ rồi rút khay ra, lấy dao xắt khay chả, gói và cắp vào nách. Vở kịch câm ấy Đay biểu diễn rất thành thạo khiến ai nhìn cũng hiểu. Chị Bấm cứ cười rũ ra. Đay hất hàm:
- Một cân chả ai không biết chứ tôi là tôi bán được hai mươi nghìn(2) mà chè chai lông vịt lắm cũng phải bốn cân chứ nó chịu làm một cân à?
Rồi Đay lại tuôn ra một câu ngược lại, đầy bao dung làm tất cả không còn hiểu ra sao nữa:
- Nói đi thì thế. Nhưng nghĩ cho cùng cũng chỉ là gà què ăn quẩn cối xay thôi.
Mọi người không hiểu là đúng thôi. Bởi Đay đang vui. Đay đã nhìn thấy sự đổi đời. Trong lúc hào hứng, hơi men đang bốc, suýt nữa Đay nói ra cái điều Đay đã tự bảo phải giữ kín từ lúc bước chân vào đây: Tổng giám đốc đã hứa sẽ bảo tổ chức cho Đay chụp ảnh làm hộ chiếu vào đợt tới. Mới chỉ là lời nói. Chưa đưa được phong bì. Nên coi như hợp đồng chưa được ký. Đã điều tra: Thông thường là một nghìn đô. Tám trăm đô cho sếp. Hai trăm đô cho trưởng phòng tổ chức. Đay đã định liệu đâu vào đấy. Kể cả câu nói khi đưa phong bì cho sếp cũng đã được chuẩn bị: “Cám ơn anh đã cho em có cơ hội được đổi đời. Bây giờ em chưa xuống tàu, gọi là của ít lòng nhiều, chỉ có tí quà cho cháu. Em hứa sẽ không bao giờ quên ơn anh”. Còn trưởng phòng tổ chức là bạn học cùng khóa, đi biển say sóng phải lên bờ, nói thế nào cho thân mật là được.
Chỉ đến khi ấy mới có thể công khai với các chiến hữu, mới nghĩ đến bước thứ hai quan trọng không kém: biên chế dưới tàu Hạ Long 19.
Buổi tối ở Vùng Ngọc.
Một mình tôi nằm ngửa trên nóc cabin thượng, nơi tôi đã nằm với bác Sĩ nghe bác kể chuyện cá xà đánh nhau với cá Ông mấy hôm trước. Lúc này tôi muốn nằm một mình. Không muốn có ai ở bên. Điều tôi vẫn nhận thấy ở mọi người dưới tàu từ trước đẽn nay hóa ra chỉ là lớp vỏ ngoài. Mỗi người đều có hai khuôn mặt. Bác Suất, chú Hồng, chú Đỉnh, chú Quẹn, bác Sĩ... không còn là những người như tôi vẫn nghĩ. Còn bố? Cả chú Hùng lùn nữa? Chắc chắn bố cũng có hai khuôn mặt. Như mọi người trên tàu có hai khuôn mặt. Bây giờ mình tin rằng tất cả người lớn đều có hai khuôn mặt.
Tôi cứ nằm ngửa trên tấm chiếu trải ở mặt boong cao nhất của con tàu mà nghĩ ngợi một mình. Nằm đây cũng không nhìn thấy chân trời. Chỉ một bầu trời đầy sao úp xuống. Tiếng sóng trong vịnh êm đềm, có lẽ là từ những chiếc thuyền nan, “những chiếc xe taxi của thủ trưởng’ chở người từ tàu lên bờ, từ bờ về tàu hay từ tàu này sang tàu khác xô vào thân tàu. Vẫn nghe vọng về tiếng ì ầm của biển động ngoài kia. Có tiếng nhạc từ một con tàu nào đó vang đến. Có gió nhưng gió thổi trên cao, không thổi xuống chỗ tôi nằm. Vịnh rất nhiều tàu. Nhiều tàu rất giống nhau, trong bóng đêm nhìn hệt nhau, từ hình dáng, kích thước, đến chiếc cần cẩu chênh chếch, các cửa sổ cabin, nhưng cánh thuyền nan vẫn nhận ra ngay từng con tàu khác nhau, dù không nhìn số hiệu và không bao giờ phải loay hoay tìm gọi. Tôi đang nằm nghe tiếng sóng nhè nhẹ chung quanh thì có tiếng đụng khẽ vào thân tàu. Một chiếc thuyền nan. Và tiếng phụ nữ:
- Anh Sĩ ơi.
Tiếng cô Nguyệt. Cả tàu đang im lặng bỗng nhốn nháo. Tôi nghe thấy cả tiếng bố tôi, tiếng chú Hùng lùn, tiếng bác Suất, bác Sĩ. Nghĩa là cả ban chỉ huy tàu. Và tiếng chú Đỉnh, chú Quẹn. Rồi tôi nghe tiếng máy tàu nổ. Con tàu bỗng rùng rùng như sắp tách bến. Cần cẩu kêu. Tiếng rầm của nắp hầm cá vất xuống mặt boong. Tôi khẽ khàng nhỏm dậy bò ra cạnh boong thượng, sát với đầu cầu thang dốc đứng, nép vào sau chiếc trụ đèn pha phủ vải bạt nhìn xuống boong lải. Gần như cả tàu đang đứng trên boong. Và cô Nguyệt. Ba bốn người nhanh thoăn thoắt biến xuống hầm. Miệng hầm sáng trưng ánh điện. Mười hai lổ tôm được đưa lên. Nước chảy ròng ròng. Trong ảnh sảng hắt lên từ dưới hầm, tôi trông thấy những người trên boong nhanh nhẹn xếp sảu lổ tôm vào trong đụt, lổ nọ chồng lên lổ kia. Cần cẩu quay chênh chếch sang mạn, hạ xuống thuyền. Hai lần như vậy. Tôi không nom rõ thuyền vì nó khuất sau be, chỉ thấy cô Nguyệt nắm thang dây tụt xuống và biến mất trong khoảng tối om. Dù đã chứng kiến chuyện bản cả ban sảng bây giờ tôi vẫn ngạc nhiên. Sao tàu bố tôi có thể bản nhiều thế nhỉ? Cả. Rồi bây giờ lại tôm. Có lẽ cả là sản phẩm phụ bản ban ngày, còn tôm là sản phẩm chính phải cẩn thận hơn chăng? Liệu bố tôi có việc gì không? Tôi biết trên tàu người thuyền trưởng chịu trảch nhiệm về mọi mặt mọi chuyện xảy ra. Tôi biết khi tàu chìm, thuyền trưởng là người cuối cùng rời tàu và tôi rất tự hào về điều ấy. Tôi lo cho bố. Nhưng tôi thấy mọi người trên tàu kể cả bố không có chút gì tỏ ra lo lắng. Ngược lại, vui, phấn khởi. Bây giờ tôi đã hiểu chuyến nào tàu cũng bản cả và cả bản tôm. Không chỉ tàu bố tôi. Cảc tàu khảc cũng vậy. Nhưng chỉ riêng tàu bố tôi không có định mức vì là tàu khảo sảt thăm dò. Nhiều ít, không ai bắt bẻ được. Nhưng như thế còn gì là khảo sảt là thăm dò nữa một khi mọi con số đều đã bị làm sai lệch.
Đám đông trên boong lải đã giải tản rất nhanh cùng với sự biến mất của cô Nguyệt. Mảy tàu tắt. Đèn dưới hầm tắt. Vụng Ngọc trở lại êm đềm. Tôi nhìn ra cửa vụng.
Không trông thấy hòn Núi Hài đâu. Ở chỗ ấy chỉ thấy những mảng lân tinh xô tới, chạy lên cao rồi xòe ra như một bó hoa, rụng xuống lả tả. Cửa vụng cũng vậy. Những làn ảnh sảng xanh dựng đứng đập vào vách đả, đổ gập. Trong tiếng ầm ầm sôi động của biển khơi ngoài kia vẫn nghe rõ tiếng sóng Vụng Ngọc êm ả vỗ bờ. Tôi trở lại chỗ nằm trên boong thượng. Khí trời mát dần. Một mình tôi nằm nhìn sao chi chít trên trời mà thấy vũ trụ thật vô cùng. Lại càng thấy mình bé nhỏ cô đơn. Biết bao điều không dám nói với ai. Tôi nghĩ đến thằng Toán. Nó có cái cằm nhọn, khi cười cằm càng nhọn. Nó ngồi cạnh tôi. Hai đứa chơi với nhau rất thân. Nó không được vào thẳng cấp ba như tôi, vì môn văn của nó chỉ được năm điểm rưỡi. Tiếc cái là các môn khác, nó đều đạt điểm cao. Hôm tôi đi nó buồn buồn:
- Mày sướng thật. Đi chóng lên rồi về nhá. Nhớ có quà cho tao và cho cả em Nhã nữa đấy.
Cái Nhã là người nó yêu. Nó nói với tôi rằng nó yêu cái Nhã ngồi bàn trên. Cái Nhã con ông Thi giáo viên trường cấp ba. Cái Nhã bằng tuổi nó và cũng bằng tuổi tôi, mười sáu. Nó rất thích được tôi chế nó, nói với nó về chuyện cái Nhã. Đại loại như: Bằng tuổi nằm duỗi mà ăn. Hay: Cái Nhã là hoa khôi của trường đấy. Rồi: Mày lấy được cái Nhã thì chẳng lo gì, cứ thế mà lên cấp ba. Rồi vào đại học thôi. Anh chàng cười tít mắt: Tao sẽ viết thư tỏ tình chứ không nói đâu. Mày bảo viết thư hơn hay nói hơn? Tôi cười. Tôi biết thằng này chỉ mạnh miệng thế thôi. Thư không bao giờ viết. Nói cũng không bao giờ. Mà quả vậy.
Trông thấy cái Nhã là anh chàng lại luống cuống lảng đi chỗ khác hoặc giữ tôi ở lại với nó để gặp cái Nhã. Bao giờ cũng là cuộc gặp tay ba. Còn cái Nhã thì chẳng biết gì, vẫn cứ cậu cậu tớ tớ với nó như với tất cả các bạn. Giá có thằng Toán ở đây, tôi sẽ kể cho nó nghe bao nhiêu chuyện. Tôi bỗng thấy mình hiểu biết hơn thằng Toán rất nhiều, “già đời” hơn thằng Toán rất nhiều. Nó vẫn như tôi cách đây mấy ngày. Vẫn sống trong thế giới học trò, thế giới trẻ con. Thế giới này có rất nhiều điều chúng mình không hiểu được đâu Toán ạ. Nhưng rồi chúng mình phải hiểu. Bởi chúng mình sẽ là người lớn và sống trong thế giới ấy.
Đêm đã khuya. Trăng lên tự bao giờ. Ánh trăng gợn gợn trong vụng. Tiếng một con cá quẫy sát tàu. Lại tiếng sóng nhỏ nhẹ êm đềm bốn chung quanh. Và một tiếng sóng khác vẫn êm đềm như thế nhưng to dần, sau đó một tiếng động nhẹ vào thân tàu làm con tàu hơi cựa mình. Có một chiếc thuyền nan vừa áp mạn. Có ai đó vừa đi chơi về. Mà đúng thế thật. Tôi nghe thấy tiếng chân hai người nhảy từ trên be xuống mặt boong. Rồi tiếng chân bước lên boong trên. Và ngồi xuống ngay bên dưới chỗ tôi nằm. ơ đấy có một cái thùng gỗ to, đặt sát vào ống khói, gần với chân cần cẩu chĩa ra miệng hầm cá. Cái thùng mà tôi đã thử mở ra xem, bên trong đựng những mảnh lưới rách, những nhợ vá, ghim đan lưới và các thứ linh tinh khác.
- Con bé đi với ông trông khá đấy chứ.
Tiếng chú Lượng, một thủy thủ cao lớn, nước da trắng, một bên má có một nốt ruồi đen mọc những sợi râu dài. Chú Lượng rất vui tính. Chú có cái giọng của người chuyên hô hoán. Một buổi chiều, mọi người đang đứng ăn cơm ngoài boong lái, chợt chú Lượng vất cái bát xuống nắp hầm cá, chỉ tay ra ngoài biển kêu thét lên:
- Tàu cháy!
Mọi người hoảng hốt nhìn ra. Một con tàu to từ biển khơi tiến vào, ống khói bỗng nhả ra một cục khói tròn to đen sì. Hay mới hôm qua trong vịnh thôi. Một chiếc thuyền nan, “một chiếc taxi của thủ trưởng’ đi ngang qua. Chúng tôi đứng nhìn theo. Chú Lượng giơ tay chào. Người chèo thuyền - một đứa con gái trạc tuổi tôi - tưởng chú gọi chở, định ghé vào thì chú huơ tay ra hiệu cứ đi đi. Đứa con gái chèo đi, vừa chèo vừa nhìn chúng tôi rồi nói một câu gì đó. Chú Lượng gào lên: Nói to lên! Nghe không rõ! Đứa con gái trên thuyền buông chèo bắc tay lên miệng làm loa. Chúng tôi nghiêng tai lắng nghe. Chẳng biết nó nói gì. Bỗng chú Lượng ôm chầm lấy tôi, thét to: “Anh này hử?” Tôi giật mình còn tất cả cười ầm.
- Con bé của mình trông bình thường nhưng nội thất rất được!
Tiếng chú Đài vê tê đê. Tôi biết họ vừa đi đâu về. Tôi không muốn thuật lại câu chuyện họ nói với nhau. Tôi nghĩ đến bố. Không biết bố có như các chú ấy không? Nếu vậy thì thất vọng quá, buồn quá. Tôi bấu víu vào một hy vọng: Bố là thuyền trưởng. Là thủ trưởng của con tàu. Cầm cân nảy mực. Là người rời con tàu cuối cùng khi tàu lâm nạn. Chắc chắn bố không giống các thuyền viên khác.
- Hôm nay được năm lô, chi ái tình phí hết năm sọi. Tích cóp đến bao giờ mới làm lại được cái nhà. Tiếng chú Đài.
- Tao chưa dám nghĩ đến nhà cửa. Kiếm ăn vặt thế này nghĩ đến làm nhà sao được. Phải là quả cơ.
- Đúng. Phải trúng một quả gì đó.
- Chúng mình làm sao có quả gì. Gà què ăn quẩn cối xay. Mày báo vụ còn cái cửa đi tàu nước ngoài. Chúng tao cánh thủy thủ xếp lốt đến bao giờ.
- Không hy vọng gì đâu. Bánh vẽ đấy. Rồi lần lượt tất cả các đồng chí thuyền viên đều được đi tàu vận tải ngoại thương, trước tiên là những người có thành tích trong sản xuất, có thâm niên cống hiến với xí nghiệp. Nói như trạng mẹ. Ồng Lê Mây đấy. Về đây từ ngày đầu mới xây dựng xí nghiệp, thời tàu vỏ gỗ, có được đi không. Tao về sau ông Mây hai năm. Có được đi không. Mà thằng Li mới về ba năm đã được đi. Chúng mình không có đạn. Cũng không có thế. Mày biết cái thằng tàu 19 đi cái xe 250phân khối hai ống xả không nhỉ. Nó có làm ở xí nghiệp một ngày nào đâu. Con một ông đại tá công an. Vô nghề nghiệp. An chơi đua đòi, tiêu tiền như rác. Sắp nghiện đến nơi. Ồng bố vội nói với sếp cho nó xuống tàu.
- Thằng Khương. Mình biết.
- Thấy ông Đáng nói nó đi mười mấy chuyến rồi, tổ chức đã làm quyết định rút lên dự bị, bố nó viết một cái thư xuống, thế là lại đi tiếp.
- Chứ lại không à? Nó lên bờ là gay go. Nó còn đi tàu 19, bảo đảm tàu không bị khám, không bị giết. Cũng là một thứ hợp đồng ngầm cả.
- Thôi cứ yên tâm ở đây thôi. Sống là đây mà chết cũng
- Tao tự an ủi là chúng mình vân hơn bọn đảnh cả. Bọn chúng nó phải bảo đảm chỉ tiêu định mức.
- Cũng bản như điên. Hụt chỉ tiêu cũng bản như điên.
- Thì rõ. Nhưng không bằng tàu mình. Ồng Đảng cũng tả xung hữu đột lắm mới giữ được bộ khung tàu đấy. Chuyến nào về chả có phong bì. Không chỉ tổng giảm đốc đâu. Còn phòng tổ chức, còn đảng ủy công đoàn. Cái khoản mười phần trăm tiền bản cả không chia là vào mục ấy. Ồng Đảng không xơ múi gì vào chỗ ấy đâu.
- Ai biết đâu ma ăn cỗ.
Nghe chú Lượng nói, tôi đỏ mặt. Tôi bỗng ghét chú Lượng vô cùng. Vậy ra là thế. Người tin bố tôi. Người không tin. Tôi tin bố. Như chú Đài. Chú Lượng không tin bố. Thế nhưng bình thường tôi thấy chú ấy đối với bố tôi cũng y như chú Đài, như mọi người trên tàu, chẳng có gì khảc. Có nhiều người như chú Lượng không? Mà bố có đảng tin thật không? Người ta có quyền không tin chứ. Có tiếng bật lửa lảch cảch. Mùi khói thuốc lả bay lên. Và tiếng chú Đài:
- Cô bé Ngã Năm của mày đến đâu rồi.
- Chẳng đâu vào đâu. Căng lắm.
- Hôm nọ thấy đèo một túi tôm he đến nhà cơ mà.
- Chuyến trước xin thuyền trưởng hai cân tôm he, với hai con mực nang to mỗi con phải đến hai ki lô. Cho vào cái túi đem đến biếu bà mẹ. Bà mẹ vui lắm. Không phải vì túi tôm cả ấy đâu. Mà bà mẹ rất thương mình. Rất muốn gả con gái cho mình. Bà mẹ nói thương mình vì bố mình bị bắn chết trong cái cách ruộng đất, mình mồ côi. Nên bà coi như con. Bà nói cô cũng nói thật với cháu cái Liên nhà cô lấy cháu, nó không phải đi làm dâu. Cô đã đi làm dâu, cô sợ làm dâu lắm rồi. Ba đứa con gái nhà cô, hai đứa lớn đi lấy chồng đều không phải làm dâu. Rồi bà kể cho mình nghe chuyện bà làm dâu. Bà lấy chồng được ba tháng thì chồng đi bộ đội. Biền biệt mười một năm mới về. Một mình bà quần quật cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng, các em trai em gái nhà chồng. Tổ chức cưới vợ cho hai em trai nhà chồng, lo đám cưới cho em gái nhà chồng. Lại là dâu trưởng, mọi công việc trong họ đều đến tay. Om cũng không được nghỉ. Ổm vẫn phải lo công việc đồng áng. Mình ốm nhưng mẹ chồng cũng ốm. Mình phải lo cháo lão thuốc thang... Mười một năm cháu ạ. Còn gì là đời! Cho nên cô nhất quyết lo liệu sao cho nó lấy chồng nhưng không phải làm dâu. Cô hãi lắm rồi. Bây giờ nghĩ lại vẫn còn hãi. Bà động viên mình cứ kiên trì. Lúc mình đến nhà, cô nàng dắt xe đạp đi. Mình muốn về nhưng bà bảo: Cứ ngồi chơi nói chuyện với cô. Chỉ tí nữa nó về thôi. Mình ngồi chờ. Chờ lâu. Chuyện với bà già. Hết chuyện nọ đến chuyện kia. Cuối cùng cô ấy cũng về nhưng cứ ở dưới bếp, nhất định không lên. Chán quá, mình chào bà già, xuống bếp chào cô nàng thì cô nàng xách túi tôm với mực ấn vào tay mình, mình nhất định không cầm. Hai đứa giằng co đến tận cửa. Cuối cùng mình đành phải cầm. Đạp được một quãng mình lẳng cái túi vào bụi cây ven đường, phóng một mạch về tàu nằm vật, chẳng thiết gì đời nữa.
Hai người im lặng. Một lúc tiếng chú Đài đầy thông cảm:
- Cho nên chỉ có những lúc đến với các em là quên tất cả. Mọi sự. Quên chuyện yêu đương Quên chuyện làm nhà. Quên cả chuyện làm việc dưới tàu vất vả như một con chó.
- Mình vẫn không quên được cô nàng. Trong khi ôm các ả ca ve mình cứ phải tưởng tượng đấy là Liên.
- Thế thì gay thật. Chỉ còn mỗi cách phải bám chắc lấy bà mẹ thôi.
Chú Lượng thở dài:
- Khó lắm. Mình đi biền biệt thế này. Có nhanh cũng phải nửa tháng mới đến được một lần. Giá làm trên bờ còn dễ...
Tôi nằm im lặng nghe. Cố không gây ra một tiếng động nào. Cũng không sợ là mình nghe trộm chuyện người khác. Chẳng qua là không muốn làm đứt quãng câu chuyện của hai người thôi. Nếu các chú có lên boong thượng, tôi sẽ giả cách ngủ. Chẳng sao. Nhưng hai người không lên. Một lúc sau họ về cabin ngủ.
Tôi ngồi dậy, xuống chỗ hai chú vừa ngồi rồi quành về cabin bố tôi trong lòng rất hồi hộp. Chỉ sợ bố tôi không có trong phòng và thở phào: Qua cánh cửa ra vào để mở, tôi thấy bố đang nằm ngủ, một chân ghếch lên thành giường nhô cao. Tôi biết là bố không đi đâu cả mà! Cũng như tôi biết bố không lấy một đồng nào trong cái quỹ ngoại giao đút lót ấy. Tôi lại nghĩ đến chú Lượng Ai biết đâu một người vui tính tếu táo thế mà mang trong lòng biết bao điều. Tôi định trở lên boong thượng nhưng nghe thấy tiếng hai con lợn ụt ịt bên dưới. Không đi lối cầu thang gỗ bên trong, tôi tụt cầu thang sắt dốc đứng phía ngoài đến chỗ chúng. Khuya rồi, tất cả tàu đã ngủ nhưng chúng vẫn còn tha thẩn dạo chơi trên boong lái. Tôi ngồi xuống. Chúng quay cả đầu về chỗ tôi, dưới ánh trăng tôi trông thấy mũi chúng chun lại, cái đuôi ve vẩy ụt ịt ụt ịt. Rõ ràng chúng muốn nói gì với tôi. Hai tay tôi đặt vào gáy hai con lợn và khẽ gãi gãi như các chú trên tàu vẫn làm. Chúng thôi không ụt ịt nữa, cúi đầu ngoan ngoãn đứng im. Lợn ơi. Khuya rồi sao chúng mày chưa ngủ. Hay chúng mày cũng mất ngủ như tao. Chúng mày mất ngủ còn có bạn. Đêm nay tao mất ngủ đây, mà chẳng có ai trò chuyện. Bao nhiều điều muốn nói, nhưng biết nói cùng ai. Tôi nhớ đến thằng Toán. Nhưng tôi nghĩ nếu có thằng Toán ở bên, tôi cũng chẳng biết nói gì với nó. Tôi bỗng thấy mình già đi chục tuổi.
Quán Mèo biết rằng trong Liên hợp nhiều người ghét mình, nhiều người muốn mình về mo. Chỉ vì Quán đã thoát khỏi kiếp nghèo hèn. Quán đã trở thành giàu có, thành “tỉ phú” như nhiều người nửa đùa nửa thật chào Quán. Không. Không bao giờ Quán về mo, không bao giờ Quán trở lại kiếp sống khốn nạn ngày trước nữa. Giờ đây không ai có thể đẩy Quán trở lại nghèo hèn khốn nạn được nữa. Các cụ nói vạn sự khởi đầu nan. Quán đã qua bước khởi đầu khó nhọc ấy rồi. Quán không ngờ đời mình lại có lúc được như hiện nay. Một bao tải tiền.
Người ta thường nói với nhau như vậy để chỉ ai đó có nhiều tiền lắm. Thế nhưng Quán đã có nhiều bao tải tiền. Và Quán thấy kiếm tiền cũng khó nhưng cũng dễ. Căn bản là phải có máu liều. Phải có máu làm ăn lớn. Và phải chớp thời cơ. Thời cơ nó đến rồi nó đi. Không thể chần chừ. Thời cơ thứ nhất làm nảy sinh thời cơ thứ hai. Thời cơ thứ hai đẻ ra thời cơ thứ ba. Cứ như một phản ứng dây chuyền. Và phải biết xâu các đầu mối lại với nhau, liên kết những người cùng máu mê, chí hướng với nhau. Để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. Người nọ dựa uy người kia, dựa thế người kia, dựa lực người kia. Thực ra bây giờ Quán mới có những suy nghĩ mang tính tổng kết như vậy. Chứ lúc mới bắt đầu, Quán chỉ làm như một người đang nghèo đói ngửi thấy cửa này làm ăn được, ngửi thấy hơi tiền mà không nguy hiểm. Nói vậy bởi Quán cũng đã có lúc làm ra tiền nhưng có thể tiêu đời. Lúc đầu là mang thuê thuốc phiện từ mạn ngược về thành phố. Tiếp theo là bồng thuê heroin. Được mươi chuyến sợ quá dù nhiều tiền. Đường dây vỡ. Hai người bị bắt. Nhưng họ thực hiện lời thề khi mới cùng nhau làm ăn, không khai ra Quán. Không chỉ một đường dây của Quán. Nhiều đường dây vỡ, nhiều người tra tay vào còng số 8. Có cả người dựa cột(3). Quán lại về trông đầm tôm cho hợp tác xã. Muỗi, dĩn đốt ngứa mẩn cả người. Đã mấy lần đổ trộm tôm đem bán. Nhưng rồi bị lộ. Quán bị đưa ra kiểm điểm ở hội nghị xã viên và bị đuổi việc.
Sự việc càng ô danh hơn khi Quán ngủ với vợ anh hàng xóm, bị anh ta bắt được, Quán phải viết giấy nhận mình hủ hóa và cam đoan cày cho anh ta ba sào ruộng đầm giữa trời rét đại hàn chi cực để anh ta không tố cáo trước xóm làng. Cày thì cày nhưng bí mật vụ việc không giữ được, vẫn cứ lộ ra. Lộ vì vợ Quán, cái con mụ mặc quần cá rô đớp. Chẳng thể tìm được lý do gì mà giữa ngày đông tháng giá, chồng mình lại dong trâu đi cày đầm nhà hàng xóm. Hỏi thì Quán bảo: Lão ta lười, thuê mình, mình làm lấy tiền chứ làm sao. Lại hỏi thuê bao nhiêu, công sá ra làm sao. Quán trả lời: Thuê trả bằng thóc. Mỗi sào hai mươi ki lô thóc. Đến vụ trả. Rồi cười với vợ, tình tứ: Nhà túng, người ta đi làm không thương người ta thì thôi, còn hỏi. Vợ Quán tưởng thật, yên trí chồng mình biết thương vợ thương con. Chỉ đến khi nghe tin đứa con trai bị đánh chết tại thành phố Hồ Chí Minh, vợ Quán vừa khóc vừa sang ông hàng xóm xin trả trước số tiền để thêm cặp đi vào lo tang ma cho con ở trong ấy, mới biết rõ đầu đuôi. Thế là con mụ quần cá rô đớp te tái chạy về làm ầm ĩ cửa nhà, ầm ĩ xóm làng. Ôi làng nước ơi. Ôi trời cao đất dày ơi. Có ai khổ như tôi không. Ông giời sao không vật chết tôi đi để tôi sống làm gì để khổ để nhục thế này. Tao tưởng mày cày ruộng thuê lấy tiền nuôi vợ nuôi con như mày nói. Ai ngờ mày đi cày cái lồn nhà nó cho nó sướng cái buồi của mày để phải lội xuống đầm giữa mùa mưa dầm gió bấc cày cho nhà nó ba sào ruộng. Ôi con ơi. Sống khôn chết thiêng về đây mà xem thằng bố của con bôi gio trát trấu vào mẹ vào cả nhà con ơi...
Vừa đau đớn mất con, vừa nhục nhã công nợ túng thiếu, Quán đã phải giở trò kiếm ăn vặt. Như đến vài người bạn bán thuốc lá vỉa hè vay mỗi người một cây thuốc lá Vina, nói là tổ chức đám cưới cho thằng con thứ, “khổ, nó mê con ông giám đốc ngân hàng quận, cứ đòi tổ chức, mà nghe chừng con bé bụng cũng lùm lùm rồi, không cưới ngay có khi gay dù trong túi thằng bố nó chẳng có đồng xu mẹ nào”. Vay rồi bán ngay. Cũng lại cho những hàng nước vỉa hè. Bán nhưng không trả gốc. Quán nghĩ có lẽ lại phải dính vào chất bột trắng thôi. Quán đã chuẩn bị bắt lại liên lạc với đường dây cũ thì trong một bữa rượu thịt chó, nghe một người nói công ty Liên hợp Biển Đông đang thu mua sắt vụn. Chỉ nói vu vơ thế thôi. Nhưng trong đầu Quán đã nảy ngay ra một kế hoạch. Tại Liên hợp Hải sản Biển Đông, Quán có quen một người. Một người bạn học thời còn học cấp một ở làng bên tên Xuân. Quán nhớ lại một kỷ niệm giữa hai người khi còn đi học. Trong một lần tắm ở hồ trước cửa trường, chơi trò lặn đuổi dưới nước Xuân lặn trốn thế nào mà bị mảnh sành rạch sứt môi, máu chảy ròng ròng. Cả bọn hoảng quá. Nghe nói chỉ có lông dái rịt vào là cầm được máu, cả bọn lên bờ, vạch vòi khám xét nhưng chẳng đứa nào có lấy một sợi mà nhổ, mà rịt.
Kiếm bao ba số, Quán đến xí nghiệp tìm Xuân, nhưng Xuân đã chuyển về Hà Nội làm một sếp gì đó rồi. Quán gặp trưởng phòng kinh doanh và dù không gặp Xuân, dù Xuân đã chuyển đi, nhưng câu chuyện đi tắm với Xuân thời còn con nít đã gây tác động không ngờ đến trưởng phòng kinh doanh vì Xuân chính là người đã kèm cặp nâng đỡ anh ta để anh ta được như ngày nay.
- Thì toàn mười hai mười ba tuổi, làm gì đã có sợi lông nào. Lão Xuân lớn nhất cũng chỉ mới lấm tấm.
Nghe Quán kể, trưởng phòng cười như nắc nẻ và viết giấy giới thiệu Quán đi các nơi: quân đội, giao thông, miền núi. Bên giao thông, Quán tìm ra một cái sà lan bẹp. Quán cùng trưởng phòng kinh doanh sang làm việc, ký hợp đồng. Hai tháng trời Quán tổ chức cắt bóc. Quán chiêu mộ những người đang lờ vờ không có công ăn việc làm, đang đói. Bạn của Quán. Bạn của bạn Quán. Bạn con Quán. Bạn của bạn con Quán. Những người thất nghiệp. Những người mới đi tù về. Họ làm như trâu. Quán cũng làm như trâu. Hai tháng trời không về nhà, lăn lộn trên một bãi sú đầy muỗi dĩn. Cái gì chứ khoản muỗi dĩn Quán coi khinh. Chống hai thứ này dễ ợt. Đem cái màn xô dấn nước rồi mắc lên. Chui vào trong màn nằm, muỗi dĩn chỉ có khóc. Để có tiền nuôi đám quân gia, Quán phải dựa vào xí nghiệp. Quán báo cáo với giám đốc, với trưởng phòng kinh doanh và tổ chức cho ba người (cả trưởng phòng tài vụ - chớ có quên nhân vật tay hòm chìa khóa này) đến thăm quan công trường của Quán bằng xe ô tô của xí nghiệp. Ngồi trên chiếc Mazda lún người máy điều hòa mát rượi Quán đã nghĩ mình phải có cái ô tô như thế. Cái bọn làm sếp này sướng thật.
Trước khi sung sướng phải gian khổ đã. Rất thích sung sướng nhưng Quán có ưu điểm đã quen chịu khổ.
Trong thời gian hai tháng vạn sự khởi đầu nan ấy Quán gầy rộc đi. Đợt tạm ứng đầu tiên, Quán không giữ lại gì cho mình. Giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng tổ chức, trưởng phòng tài vụ đều có phần. Càng không thể quên ông sếp bên giao thông. Sau khi chi lương, Quán chỉ còn trong tay hơn triệu bạc. Đã định cầm tiền đi xả hơi, giải trí, nhịn suốt mấy tháng rồi, đạp xe nửa đường nghĩ đi nghĩ lại, Quán quành về nhà. Quán sợ xui. Bước đầu khởi nghiệp không dính đến món ấy. Bấm bụng chờ kết thúc phi vụ này đã. Quán đưa tiền cho vợ, bảo làm cỗ cúng. Vợ Quán ngơ ngác:
- Hôm nay cúng ai hở bố nó?
- Mua con gà, thổi nồi xôi, thắp hương cầu xin cho công việc của tôi được đầu xuôi đuôi lọt.
Bữa ăn, vợ Quán nhìn chồng gầy rộc, đen sạm, thương quá:
- Chừng đến bao giờ xong hở mình?
- Được nửa công việc rồi. Một tháng nữa đời chúng ta sẽ khác. Nhưng chưa khác nhiều đâu.
Vợ Quán nghe câu tuyên bố chắc như đinh đóng cột ấy của chồng mà tự trách mình ngày trước đã không giữ được sự ghen tuông giận giữ làm khổ Quán. Nhưng chị không dám nói ra điều ấy, chỉ chép miệng thương xót:
- Bố nó vất vả quá.
Tối hôm ấy, hai người nằm cạnh nhau. Chị vợ ôm lấy anh chồng. Quán hất tay ra: Để yên cho người ta ngủ. Mệt bỏ cha ra đây. Nhưng sự đụng chạm ấy lại gợi Quán tới ý định đi vui vẻ lúc ban ngày. Tất cả những sự chung đụng với đám gái làng chơi trẻ trung, thơm tho chiều chuộng trở lại trong óc và Quán thở dài trở mình nằm nghiêng đưa tay ôm vợ. Vợ Quán rúc vào người Quán:
- Em thương mình lắm.
Người Quán rạo rực một nỗi thèm muốn. Quán luồn tay vào chỗ ấy và rụt vội tay ra:
- Thấy tháng à?
Vợ Quán nói với vẻ biết lỗi:
- Bốn hôm rồi. Sao kỳ này lâu thế. Mọi lần chỉ ba ngày là sạch thôi.
Quán thở dài trở lại nằm ngửa. Im lặng. Một lúc sau, Quán làu bàu:
- Cái đồ lồn teo vú tóp này mà cũng lắm chuyện. Cẩn thận không tao thay mái.
Vợ Quán xoay mình nằm nghiêng về phía chồng sợ hãi:
- Hay là anh cứ ấy đi.
Quán xùy một cái:
- Kinh bỏ mẹ.
- Cũng gần sạch rồi. Buổi chiều chỉ còn dây rớt một tí thôi. Thật đấy. Nhè nhẹ thôi. Được đấy.
Chị vợ đã sẵn sàng. Quán với tay tắt ngọn đèn ngủ. Dù đã tối om, nằm trên vợ, Quán vẫn nhắm nghiền hai mắt, lẩm nhẩm trong óc:
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta.
- Không phải vợ ta...
Câu cuối cùng hình như là câu thứ ba mươi mốt, Quán bỗng bật lên trong một tiếng rên dài:
- Không phải vợ ta à à...
Một con tàu nữa vào vụng. Con tàu sơn hai màu đỏ trắng, to, cần cẩu như một cái cổng chào, giống hệt con tàu đã buông neo trong vụng mấy hôm nay. Mũi tàu xẻ nước gợn gợn, thân tàu ép mặt nước trong vụng thành những vệt sóng xòe ra hai bên làm tất cả các tàu thuyền trong vụng đu đưa. Nhiều người đứng trên boong mũi. Những tiếng gọi nhau ầm ĩ. Có tiếng gọi tên bố. Đứng vịn lan can ngay cửa buồng lái, bố giơ tay vẫy: Chào thuyền trưởng Đặng Việt. Tí sang nhé! Một người đàn ông cao lớn thét to: Neo xong là sang ông đấy. Có ba sì đế không? Còn cái gì nhắm không? Con tàu đi men vụng vào đỗ phía trong, gần sát bến. Những đợt sóng vẫn lan tỏa. Những chiếc thuyền nan trong vụng nâng lên hạ xuống dập dềnh như đang trên biển. Chỉ lát sau, thuyền trưởng Đặng Việt đã từ một chiếc “thuyền nan taxi” trèo lên tàu, vào phòng bố. Tiếng bác Việt oang oang:
- Trời còn gió nhưng cũng phải ra đây thôi. Ngày mai chắc gió giảm. Nửa đêm nổ máy. Sáng mai tới ngư trường chứ không lại mất một ngày. Với lại tàu sửa chữa nằm bờ lâu quả rồi. Ra đây kiếm con lợn khao quân cái đã. Bảo thằng Quang đại phó rồi. Nhắn cái Nguyệt đến ngay. Con lợn khoảng bảy chục cân. Giả bảy tạ cá loại bốn thôi. Chứ không có loại hai loại ba đâu. Hết chuyến biển sẽ trả. Trước mắt khuyến mại cho em hai tạ đá. Cứ thế mà làm.
Rượu được rót ra. Mấy con mực khô bác cấp dưỡng mới mổ phơi mấy hôm trước, một bát tương ớt. Bác Việt uống rượu rất nhiều, không như bố tôi. Càng uống da mặt bác càng bì bì tái lại. Bác uống và than thở về sửa chữa kéo dài, về chất lượng sửa chữa, về cái ly hợp... Uống và bảo bố tôi:
- Tối nay hai bố con ông sang tôi nhá. Làm bữa tiết canh lòng lợn. Thế nào cũng sang đấy.
Bác Việt về, bố tôi vào phòng vê tê đê hỏi chú Đài tình hình thời tiết. Bác Sĩ bảo: Giời này là ngày mai gió giảm, chuẩn bị mọi thứ, sớm mai tách bến là vừa.
Chú Hùng lùn ghi trên bảng đen treo trong phòng ăn: Hai ca xem lại toàn bộ dây lưới. Năm giờ sáng mai tách bến đi sản xuất.
Tôi cứ tưởng đến tối bố tôi cùng đi với tôi sang tàu bác Việt. Nhưng hóa ra lại là bác Sĩ. Gần đến lúc đi, bố bị đau bụng. Tàu bác Việt nổ máy rầm rầm. Đèn trên tàu sáng trưng. Chúng tôi bám thang dây leo lên. Lần đầu tiên tôi đặt chân lên một con tàu to như thế. Khác hẳn tàu bố. Cách bố trí các buồng, phòng lái, cầu thang đều khác. Và phòng ăn vẫn gọi là câu lạc bộ mới đẹp đẽ lịch sự làm sao. Rộng, những ba bàn ăn, mặt bàn sạch sẽ bóng lì. Trên tàu vui như hội. Những đĩa tiết canh đông cứng đỏ thẫm, với đủ cả lạc rang, rau thơm phủ lên trên những miếng gan. Những đĩa tây to trắng tinh đựng đầy lòng. Và những đĩa thịt xếp rất đẹp. Rồi nước xuýt. Rồi rau thơm. Hệt như ở nhà những hôm ba mươi tết giết lợn. Bác Việt tỏ ý tiếc là bố tôi không sang. Và rót rượu. Mọi người cũng rót rượu vào chén của mình. Tàu bác Việt đông. Phải đến hai chục người. Tôi cũng được một chén rượu trắng. Giá có bố ở đây, chắc bố không cho tôi uống đâu. Tôi cũng chạm cốc với bác Việt, bác Sĩ và với nhiều người khác. Lần đầu tiên tôi uống rượu. Tôi đưa cốc rượu lên