← Quay lại trang sách

- V -

Thế đấy. Mới có hơn tháng nghỉ phép nghỉ bù thôi đã có cuộc đảo chính. Huy từ trên bờ được điều xuống làm trưởng ca. Thực ra khi mới đến xí nghiệp trả phép, anh em gặp Mây đã nói hết cả sự tình. Họ bảo Huy đã làm việc với tổ chức, lại đã mời ban chỉ huy tàu lên phố ăn nhậu mấy bữa kể cả khoản em út thì Mây khó mà địch lại được.

- Tình hình thế đấy. Liệu đi thì vừa.

- Liệu. Liệu cái gì. Mình chỉ có lao động thôi. Từ trước đến nay mình chỉ liệu có vậy thôi. Làm người lao động chứ không muốn làm ông kia bà nọ.

Huy nằm đấy. Mây đi ngủ nhờ. Nay buồng này, mai buồng khác, ôm khăn gói lang thang. Một hôm thủy thủ trưởng bảo Mây: “Ông Phú ông ấy bảo khó nói với cậu quá”. Mây cười: “Sao anh ấy lại nói thế nhỉ. Có gì mà khó nói. Anh ấy là thuyền trưởng. Sao lại khó nói với thủy thủ. Nếu anh ấy làm đúng, nói đúng thì không có gì khó cả”. Thế rồi thuyền trưởng gặp Mây:

- Trước cậu ở tàu nào nhỉ?

- 110.

- Anh Thăng làm thuyền trưởng phải không? Anh em bên ấy khen cậu lắm.

Mây chán ngán cắt ngang:

- Anh xem chuyện tôi công tác ở đây có vấn đề gì không thì nói. Còn chuyện tôi ở trăm mười để khi khác. Tôi ra gõ gỉ đây.

Phú bảo:

- Cái này Trường nó đã làm như vậy. Cậu thông cảm cho mình.

Mây cố nén cảm giác bị sỉ nhục:

- Không có gì đâu anh ạ. Tôi nghĩ tôi phải cố gắng rất nhiều. Các anh giải quyết hay tổ chức giải quyết tôi đều chấp hành. Tôi nghĩ không ai ngăn cản được tôi tiến bộ. Có gì mà phải thông cảm hở anh.

Ngày ấy Mây chưa lấy vợ, chưa có cái tổ ấm ở khu Bãi Cát nên mới phải chịu cảnh ngủ lang như vậy. Khi Lưu Văn Vượng xuống tàu làm đại phó ít ngày thay Trường nghỉ phép, Mây nói với Vượng:

- Anh em gõ gỉ, bẩn thỉu chật chội nóng bức lắm, ngủ nhờ bất tiện. Anh cho tôi nằm nhờ cái đi văng.

Vượng lấy vợ Hải Triều, ở phố Cầu Gỗ trung tâm thành phố, trưa tối về nhà. (Đã có tối đi chơi phố, Mây ghé vào nhà Vượng, thấy cửa ngoài khóa, cả nhà đi vắng, trong nhà chỉ có một con mèo bị nhốt gào thảm thiết). Vượng đồng ý ngay. Thế là Mây tay hòm chìa khóa buồng thuyền phó 1 mát mẻ đỉnh đương. Cho đến khi Trường giả phép ra, Trường gọi Mây vào buồng trưởng ca:

- Tổ chức điều Huy xuống. Anh em mình nói thật. Cậu ở đây không có tương lai đâu. Không có con đường tiến lên nữa đâu. Ý cậu thế nào. Có muốn chuyển sang tàu khác thì cứ đề đạt.

Vấn đề đặt ra thật bất ngờ. Họ định cẩu mình lên. Mây nói:

- Tôi lao động cũng muốn có con đường tiến lên của mình. Nghĩ mình có cố gắng nhưng vẫn còn thiếu sót. Nếu làm được tốt hơn nữa thì yên tâm hơn. Chứ chỉ nghĩ đến chuyện đề bạt thì mạt quá.

- Nhưng cậu ở đây thì kẹt.

- Anh nhận xét tôi ở đây có những kẹt gì?

Trường đáp chung chung. Mây bảo:

- Vậy tôi tự kiểm điểm anh nghe nhé. Tôi lao động

tích cực. Công tác cũng dô hò lăn vào làm với anh em. Có ý thức xây dựng, có tinh thần đấu tranh. Tôi ở đây đã lâu. Các anh hiểu tôi. Tôi hiểu các anh. Mặt tốt cũng như mặt xấu, giúp đỡ nhau tốt hơn. Nhưng tổ chức cũng như ban chỉ huy tàu điều, là một thằng thuyền viên, tôi chấp hành.

- Thế nghĩa là ý cậu thế nào.

Mây cười:

- Thế nghĩa là ý tôi thế đấy.

Thật may cho Mây. Ngọt một trưởng ca khác được điều đi học. Mây không bị cẩu lên.

Mây, Huy, hai người hai ca nhưng lại cùng chung một phòng, phòng của trưởng ca. Trong phòng, hai trưởng ca không nói với nhau một lời. Có lần hết ca, Mây lay gọi Huy dậy thay ca, Huy làm như đang ngủ giật mình tung chân đá vào mặt Mây. Quá bất ngờ, Mây túm chặt cổ chân Huy xoay một vòng, mười ngón tay thủy thủ từng săn cá mập và trầu cáp như những gọng kìm thép khiến Huy phải lật người nằm sấp rất nhanh để khỏi bị trệch khớp háng và kêu to:

- Ông chơi trò gì thế này?

Mây cười:

- Đây là thuốc chữa bệnh cho những kẻ giả vờ ngủ chơi xỏ người khác. Chỉ một lần là khỏi.

Hình như đó là lần đối thoại cuối cùng trong phòng của hai trưởng ca. Còn trên boong vẫn có đối thoại. Như một hôm ở Cồn Cỏ. Huy đang ngồi vá lưới, thấy Mây

ra, cứ xoay lưng lại phía Mây, che chắn không cho Mây nhìn. Hẳn có chuyện gì đây. Mây đi quanh nửa vòng, buông một câu:

- Không xong rồi!

Huy buông ghim, ngẩng lên:

- Sao?

- Không được.

- Sao lại không được?

- Anh không tháo ra vá lại, thả lưới xuống lại rách, lại vá tốn công tốn nhợ. Kỹ thuật không chiều ai đâu.

Lưới rách gần biên, lẽ ra phải kéo lại lưới, so xem có mất miếng nào không, rồi vá từ trong vá ra, đuổi theo đường biên, lưới mới không bị chùng, không dúm. Cũng có thể vá từ ngoài vá vào nhưng phải căn thật chính xác. Huy đã không làm được như thế. Quả nhiên chỉ một mẻ lưới, chỗ ấy lại rách. Có lần Mây đang làm lưới, Huy cho cẩu lưới lên. Chân Mây móc vào chỗ lưới rách, Mây bị kéo ngược lên cao, la hét ầm ĩ: “Ông kia. Điên đấy à? Có hạ xuống ngay không?” Huy vừa cho hạ lưới vừa cười thích thú. Mây bước tới, giơ nắm đấm ra dí vào mặt Huy:

- Cẩn thận nhé. Lần sau thế chắc chắn ăn đấm đấy. Hay muốn ăn ngay lần này. Hả?

Câu chuyện giữa hai người kết thúc sau chuyến khai thác ở Bạch Long Vĩ. Một mẻ lưới hở đụt, kéo lên chỉ hai tạ cá. Thuyền phó Trường, thuyền trưởng Phú kêu thét:

- Một mẻ lưới vất đi cũng hơn tấn cá. Mất đứt tấn cá. Bao nhiêu tiền. Mây đâu. Làm ăn thế à? Phá hoại!

Mây cười:

- Không phải tôi. Anh Huy thắt đụt đấy.

- Huy đâu? Huy đâu?

Huy ra. Kiểm tra lại đụt. Bỏ mất bốn vòng khuyên mỗi vòng khuyên hai mắt lưới là một mét sáu đụt không thắt. Đụt hở. Chưa hết. Ngày hôm sau, Huy đứng cẩu. Đụt lưới đã lên sàn dốc. Hai tay hai công tắc. Một công tắc lưới. Một công tắc đụt. Đụt cá đã được treo vào móc. Sóng to. Tàu nghiêng ngả. Huy đứng như đứng tấn. Hai chân choãng ra. Rì rì. Rì rì. Chiếc đụt cá lên cao dần. Một anh giật cái nút hoạt. Cá bắt đầu tụt xuống ở chỗ nút sổ. Nhưng ngay lúc ấy một con sóng lớn đánh ngang tàu. Đụt cá văng ra ngoài be. Nút hoạt bung hết cỡ. Cá trút xuống biển. Mây chạy vội ra cầm dây kéo đụt, lôi vào vớt vát được vài tạ. Sai lầm của Huy là ở đấy. Là ở chỗ cẩu đụt cá lên cao quá. Nếu để đụt thấp, sóng xô đụt chỉ đập vào be, không mất cá. Thuyền trưởng Phú từ boong trên nhảy xuống. Mặt sàn chông chênh. Phú loạng choạng chạy tới, vịn vào tơi, đứng thẳng lên, giơ nắm tay toan đấm Huy nhưng rồi chỉ ấn vào vai Huy. Mỗi cái ấn lại làm Huy lạng người đi.

- Một tấn cá! Mày chết đi Huy ơi! Sao mày ngu thế!

Anh em cười. Mây cười. Thủy thủ chỉ có cười. Buồn làm gì. Đã hiếm dịp cười. Cười cho giãn xương cốt, cho đỡ nhức đầu. Để lại bắt tay vào mẻ lưới mới. Với lại nhiều lên hay ít đi một tấn cá chẳng mảy may ảnh hưởng đến cuộc sống anh em. Nếu có, người ta ghi thành tích cho thuyền trưởng.

Sau sự cố ấy, Huy phải chuyển sang tàu khác nhưng trước khi chuyển đi Huy còn nhiều lần được nghe câu nói ấy. Những lúc làm lưới, nhặt cá hay đánh bài, thỉnh thoảng anh em lại nghiến răng nhiếc nhau để được giải lao, để có trận cười:

- Mày chết đi! Sao mày ngu thế.

Biết anh em giễu mình, Huy cắn răng chịu, giả điếc và cười thầm trong bụng: Rồi chúng mày biết tay tao. Cái ý chí làm mọi việc, bằng mọi giá để trả thù đời hình như được định hình từ đấy.

Huy về tổ chức, xung vào đội dự trữ, rồi lại được đi tàu. Và khi Mây lên thuyền phó rồi thuyền trưởng thì Huy cũng có tên trong danh sách đề bạt cùng một đợt. Chẳng ai biết thực hư cái giá Huy phải trả trong những lần đề bạt ấy cũng như cái giá của Huy xuống tàu vận tải ngoại thương ra sao. Cả xí nghiệp một dạo đã ầm lên chuyện đánh ghen ở nhà giám đốc Hoàng Quốc Thắng. Từ Hà Nội về đây làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng về hưu, ông Hoàng Quốc Thắng để vợ con ở lại Thủ đô. Theo chỉ thị của ông, phòng đời sống xếp cho ông ở tầng hai một cái biệt thự bỏ không, xí nghiệp vẫn dùng làm nhà khách mà họa hoằn mới có khách nghỉ lại. Cái biệt thự nhà khách gần đây không có ai đến nghỉ bởi khách về làm việc đều được chánh văn phòng đưa đến những khách sạn sang trọng ở trung tâm thành phố, thậm chí còn ra mãi Đồ Sơn. Giám đốc Hoàng Quốc Thắng ở đó và cũng ăn luôn ở đó, cái biệt thự nhà khách ấy. Phòng đời sống cử hẳn một người cơm nước, giặt giũ cho tổng giám đốc. Người ấy là Hoa, vợ Huy. Người ta nói nhiều về chuyện này. Chuyện Hoa đến phục vụ riêng cho giám đốc. Không phải ngẫu nhiên đâu. Phòng đời sống có bao nhiêu người. Vì sao lại là Hoa. Vì Hoa vừa trẻ vừa ngon mắt. Vì trưởng phòng đời sống muốn làm vừa lòng sếp. (Chính trưởng phòng đời sống cũng nói thẳng ra: phục vụ sếp không thể là Thị Nở, trông cũng phải sạch sẽ một tí). Người bảo cái thằng Huy định thả cỏ vợ hay sao? Người rành rọt hơn: Huy là bạn cánh hẩu với trưởng phòng đời sống, chính Huy nhờ trưởng phòng đời sống điều vợ từ căng tin lên phục vụ sếp. Từ ấy Huy thường lui tới chỗ sếp như người nhà. Mấy năm liền như vậy. Những khi vợ con giám đốc từ Hà Nội về, Hoa phục vụ rất chu đáo. Cũng chẳng xảy ra điều tiếng gì. Chỉ đến khi cô em họ của giám đốc về chơi mới sinh chuyện. Bà ta làm ầm lên. Hoa sợ quá đạp xe một mạch về nhà. Giám đốc bịt mồm bà nhưng bà vẫn rỉa rói, riếc móc ầm ĩ cả xí nghiệp. Lúc bấy giờ mọi người mới vỡ lẽ đấy không phải cô em họ giám đốc mà là bồ cũ của giám đốc. Một cô kế toán từ cái thời ông còn làm ở Viện. Và chỉ bà ta mới có một dàn ăng ten đặc biệt để khám phá ra tình ý giữa giám đốc và Hoa. Chỉ những người đang yêu mới phát hiện được những biểu hiện của những người đang yêu cho dù họ không để lộ bất cứ một sơ suất nào. Đảng ủy, công đoàn đã có những cuộc họp cán bộ chủ chốt giải thích rằng sự việc không có gì. Đây là một sự hiểu lầm. Hơn nữa phải cảnh giác với những luận điệu của kẻ xấu. Mà có vẻ như lắm kẻ xấu thật. Họ nói rằng đã nhiều lần

Hoa vào nhà tắm kỳ lưng cho giám đốc. Đấy chỉ là những lời đồn thổi. Nhưng Mây thì biết chính xác sự việc là có thật mà không dám hé răng. Một buổi trưa đi nhậu về vì quá yêu ông giám đốc mới nói toàn những điều tốt đẹp về người, về nghề, về sự lao tâm khổ tứ để đưa xí nghiệp tiến lên, Mây rẽ vào thăm giám đốc. Thấy cửa đóng, hơi men lâng lâng, Mây trổ tài trèo lên cây phi lao ngoài vỉa hè, nhìn qua cửa sổ tầng hai xem giám đốc ngủ hay thức thì thấy giám đốc và Hoa đang... “Ngồi! Như Tây!” Mây tụt nhanh xuống đất, vẫn chưa hoàn hồn và cứ lẩm bẩm một mình như người mất trí. “Ngồi! Như Tây!” “Như Tây! Ngồi!” Và lo không biết hai người có nhìn thấy mình không? Nỗi lo ấy ám ảnh anh. Đã nhiều đêm anh suy nghĩ. Rồi lại tự động viên mình: Sếp nhìn thấy cũng tốt, không nhìn thấy cũng tốt. Không nhìn thấy thì chẳng có vấn đề gì. Còn nếu nhìn thấy có nghĩa là mình đã nắm được huyệt của sếp. Sếp sẽ phải chú ý tới mình hơn. Anh tự nhủ sống để dạ chết mang đi. Nhưng rồi lại tự hỏi: Mình không nói, sao mọi người lại biết nhỉ? Và tự trả lời: Chắc sếp ăn vụng nhiều lần. Nhiều người nhìn thấy, chẳng riêng mình. Câu chuyện hư hư thực thực ấy như đã có kết luận rõ ràng khi mấy tháng sau Huy được làm hộ chiếu rồi xuống HL 19 làm đại phó! Huy được đổi đời. Hình như cũng biết những dư luận không hay về mình, mặt Huy càng vênh lên, càng làm ra bất cần mọi thứ và càng khoe khoang của cải, như muốn nói tất cả không là cái đinh gì, chỉ tiền là đáng kể. Mà tiền thì Huy nhiều. Đang có rất nhiều. Sẽ còn có rất nhiều. Lạ cái Huy càng nhiều tiền, mọi người càng coi thường, càng khinh Huy, nhất là Lê Mây.

Trả lời Huy “phải lên gặp giám đốc” nhưng Mây đi thẳng ra căng tin. Xúng xính trong chiếc áo ba đờ xuy dạ đen dài tới đầu gối, anh bước vào nhà bán hàng phòng đời sống lúc ấy còn vắng. Cô Ngụ nhân viên bán hàng, từ đài thu phát chuyển sang, gái tân mà lại đi lấy một ông góa có con trai lớn hơn mình vài tuổi, to cao trong chiếc áo bông bảo hộ lao động xanh rộng thùng thình, tươi cười chào Mây:

- Thuyền trưởng về bao giờ đấy. Trưa em xuống tàu. Cho em mấy con cá ngon đấy.

- Thích cá gì để anh bảo thằng đại phó của anh nó gói sẵn cho.

- Em chỉ thích con mực.

- Xong. Một con mực nang. Hai ki lô được chưa.

Anh mua một chai rượu quít. Rượu không bán tự do, phải có giấy của trưởng phòng đời sống hoặc bán theo tiêu chuẩn đi biển. Nhưng Mây được cô ưu tiên. Cả kho chỉ còn hai loại rượu: rượu quít và rượu chanh. Rượu chanh nặng, rượu quít nhẹ hơn. Mà lúc này chưa ăn gì lại muốn tu cho đã. Giơ chai rượu đỏ tươi lên ngang mặt ngắm nghía đầy âu yếm như ngắm nhìn khuôn mặt người bạn tình bấy lâu khao khát, lấy tay lau sạch bụi, rồi vặn cái nắp nhựa chụp xuống miệng chai. Vỗ mạnh vào đít chai mấy cái như quy trình vẫn phải vậy, để rượu thúc mạnh vào nút nhựa xoáy bịt cổ chai, lấy móng tay cậy cho nút kênh lên, cuối cùng là vặn cái nút xoáy ra. Mây làm những việc ấy một cách vừa trang trọng vừa trìu mến và bây giờ anh giơ chai rượu đã được lau hết bụi lên cao, đắm đuối ngắm nhìn chai rượu đã mở sóng sánh một thứ nước đỏ hồng, như người ta cởi bỏ xiêm y của một người đàn bà và chiêm ngưỡng tấm thân ngà ngọc. Ngước nhìn chai rượu một lúc rồi ngửa mặt há miệng, hàm dưới râu ria lởm chởm hơi đưa ra, Mây nghiêng chai từ từ rót thẳng vào cổ. Rượu vừa mát như nước, vừa nóng như lửa xối vào họng. Anh nuốt. Từng ngụm, từng ngụm. Rượu tràn ra hai bên mép, đọng trên râu. Anh lấy mu bàn tay quệt ngang. Rượu ngấm vào từng mạch máu. Rượu làm anh phút chốc bừng tỉnh lại như tê đi, như đờ dại lại như bay lên. Thêm một lần dốc nghiêng chai từ trên cao xuống miệng. Ngậm đầy miệng thứ dung dịch khát khao ấy rồi từng ngụm nhỏ, từng ngụm nhỏ nuốt nó qua họng vào người, cảm thấy hết sức sống của hơi men lan tỏa. Và lại đưa chai rượu lên ngắm nghía như người ta nhìn ngắm say mê thân thể bạn tình trong lúc đang yêu. Đã hết khoảng nửa chai. Lần thứ ba ngửa cổ, nghiêng chai. Rượu tràn ngập cổ cái hương vị gần một tuần nay mong mỏi. Uống đến lần thứ ba thì gần hết chai rượu. Mây đứng lặng, chai rượu trong một tay buông thõng, mắt nhìn vào một chốn vô hình. Lắng nghe từng mạch máu giãn nở, từng tế bào cựa mình. Nghe máu dồn về tim và từ tim chảy đi, tỏa lên đầu rần rật và tới mọi ngóc ngách cơ thể. Thấy mình như đang bay lượn, mình không đứng ở phòng đời sống, cũng chẳng phải đang tay nắm tay thằng con trai bé đi dung dăng trong xí nghiệp, cũng chẳng phải đang trên giường với vợ trong buổi tối đầu tiên về bến, lại cũng không phải lúc đánh một mẻ lưới trúng tim luồng cá, cái đụt căng tròn kéo lên trong ánh nắng sớm mai. Cái gì cũng không phải. Mà là tất cả những cảm giác trên cộng lại. Thỏa mãn. Phấn chấn. Yêu đời. Coi khinh mọi khó khăn. Việc gì cũng trong tầm tay. Và thắng lợi... Giơ cái chai đã gần cạn lên lần thứ tư, nhìn trìu mến rất lâu chất nước đỏ hồng còn trong chai như nhìn một cái gì kỳ lạ lắm, không hiểu nổi và cũng là để xem nó đã vào trong người mình bao nhiêu. Lắc lắc chai, định làm thêm một ngụm nữa, nhưng đưa gần tới miệng thì đổi ý. Ngần ngừ một giây rồi dốc ngược chai đổ rượu xuống nền nhà. Uống thế thôi. Cũng phải cho nó uống một tí, mời nó một tí. Nó đã được tí nào đâu. Rượu đỏ chảy qua miệng chai, tóa xuống cạnh chân anh. Nền xi măng cóc ghẻ của phòng đời sống nuốt chỗ rượu Mây rót mời rất nhanh. Nhanh hơn cả Mây. Còn lại vỏ chai không. Anh lẳng nó vào một góc nhà chất đầy vỏ chai bụi bậm cái lành cái vỡ, thọc hai tay vào túi áo ba đơ xuy bước ra ngoài, đi trong gió mùa ào ào lên phòng giám đốc.

Nửa đêm qua mưa dông. Những làn gió mát lạnh lúc sắp mưa khiến tôi và bác Sĩ đang nằm ngủ ngoài trời phải ôm chăn chiếu chạy vào trong phòng.

Sáng nay dậy tìm mặt trời mọc nhưng không thấy. Nhiều mây. Gió tây bắc. Biển êm lạ thường. Chỉ là những gợn sóng lăn tăn. Chú Hồng bảo tôi:

- Biển thế này có điên không. Cầu biển sóng cấp sảu cho thằng này say sóng để nó biết bố Đảng khổ như thế nào. Mày chưa say là tao rất buổn cu con ạ. Nhưng cẩn thận đấy. Biển êm thế này là chỉ nay mai thôi sóng gió nổi lên, biết thế nào là lễ độ.

Tôi cười: Chảu không say. Đấy rồi chú xem.

Cảc chú thủy thủ dậy kéo lưới, nhặt tôm cả đưa xuống hầm xong, đi đảnh răng rửa mặt rồi ai lại về giường người ấy nằm ngủ. Ngủ tranh thủ, ngủ dễ dãi. Ngủ lắt nhắt nhưng thoải mải ngon lành và khi có tiếng chuông kéo lưới là vùng dậy ngay. Hai tiếng rưỡi một mẻ lưới. Cả ngày cả đêm. Những bộ mặt ngái ngủ. Những khăn mặt vắt vai. Những dảng đi lừ khừ, loạng choạng. Rửa mặt. Vớ cái bảt vặn nước uống trong thùng men súc miệng. Những chiếc ảo bảo hộ dày cộp quàng qua vai. Một chú ngực béo đầy lông lả từ giường đứng dậy bước ra hành lang, chỗ vắt quần ảo, vừa đi vừa nói: “Quần đẹp của tôi đâu?Ảo đẹp của tôi đâu?” Chú Quẹn tơi trưởng xỏ chân vào quần bảo hộ lao động rảch đầu gối, chân thòi qua chỗ rảch. Chú Hồng mặc quần ngược, quay chỗ đầu gối rảch về phía sau khoeo, rồi vòng tay cài khuy ở sau lưng. Chú vê tê đê vớ bộ quần ảo đầy những vết bẩn đưa cho bảc Sĩ:

- Quần đẹp đây.

- Ảo đẹp đây.

Bác Sĩ xỏ tay vào cái ảo blu dông quả rộng, cái quần xanh vén ống, lượt vải phía trong còn xanh gần như mới, khác hẳn lượt vải bên ngoài bạc phếch. Chú Đỉnh chú Quẹn đứng tơi. Tơi kêu hồng hộc, quay ù ù. Dây cáp lên. Tơi ghì lôi tấm lưới. Dây cáp chỗ sát mặt nước rung bần bật, nhích dần. Đã tới chỗ tám xoay. Từ chỗ ấy dây cáp chẻ ra làm ba: Một vào “quả bom”, hai dây còn lại vào hai ván. Cái tám xoay nhảy lên qua pu li. Bác Sĩ cầm sào có móc đứng chờ. Bác lao cái móc vào dây kéo đụt. Hụt. Lần thứ hai móc được, kéo được. Hai người nữa xúm lại kéo cái đụt lủng lẳng ròng ròng nước. Bắt sợi dây vào tang tơi. Cho tơi cuộn. Tất cả mũ áo đứng trên boong. Một người giật đụt. Reo hò ầm ĩ. Reo vì mẻ lưới thất bại, chỉ có mấy con cá nhỏ, một ít ghẹ và mấy con tôm. Kéo xong lưới bên trái rồi đến lưới bên phải, tấm lưới vẫn được nhiều hơn. Hai cái đụt phinh phính như hai quả bầu. Hai chú giật dây. Tụt xuống một đống tròn. Một búi rắn biển cuộn khoanh, đầu ngóc cả lên ngơ ngác nhìn quanh. Lại reo hò ầm ĩ. Rất ít tôm. Có một cặp cá hiên nhơ nhỡ đập mình. Đúng là giống cá hiên đi đâu cũng có đôi.

Bố hạ lệnh cẩu lưới. Vào vụng Ngọc trú. Giời này biển lặng, trăng sáng, ít tôm. Chờ một vài ngày nữa xem sao. Bác Sĩ nhìn giời bảo:

- Chỉ ngày mai chậm lắm là ngày kia biển động thôi.

Bố bảo bác Sĩ:

- Thay cái đụt bên thằng Quẹn đi.

Tàu chạy vào vịnh. Trên đường vào vịnh, tất cả biến vào cabin. Giữa trời nắng, chỉ còn bác Sĩ áo đẹp mũ lá có quai ni lông trắng và chú Hồng quần đẹp mặc lộn đằng trước ra đằng sau lúi húi giữa boong với tấm lưới.

Tôi quên không kể chuyện hai con lợn. Hai con lợn tàu nuôi. Chúng nó rất khôn. Cứ tha thẩn ụt ịt ngoài hành lang. Nắng chiếu vào hành lang bên này thì rủ nhau sang hành lang bên kia. Khi tàu dắt lưới ngược lại, nắng chiếu ngược lại, chúng cũng chuyển hành lang, nằm thở phì phò trong bóng râm. Cái đêm mưa to, tôi và bác Sĩ ngủ ngoài boong phải chạy vào trong nhà, chúng cũng không phải nằm ngoài mưa. Bác Sĩ rút hai chiếc ngăn kéo ở một cái giường thủy thủ bỏ không, lùa chúng vào trong buổng. Như đã quen với những chuyện ấy, chúng thành thạo nhảy qua bậc cửa sắt cao, vào cabin và mỗi con một ngăn kéo, nặng nề nằm xuống ngoan ngoãn. Mẻ lưới nào chúng cũng có mặt ngoài boong. Chỉ đứng xa nhìn. Không thấy ai để ý, chúng kêu ụt ịt. Và bao giờ chúng cũng có phần. Các chú thủy thủ quãng ra cho chúng khi con cả, khi con ghẹ. Chúng ăn rất thiện nghệ. Chúng dẫm một chân lên con cả mối, ngoạm vào chỗ thịt giáp với đầu, bóc ngay được nửa con, không dính một tí xương nào. Rồi lấy mổm lật giở con cá và lại làm như vậy. Hai cái rứt là xong một con mối tươi nguyên. Chỉ còn lại đầu với cái xương sống chạy dài tới đuôi lởm chởm xương dăm. Chúng ăn ghẹ mới thật cừ. Khôn ngoan như người vậy. Con ghẹ giương hai càng dài lên đe dọa. Con lợn vừa đưa mõm tới gần, con ghẹ lùi lại rất nhanh, hai càng khua khua trước mặt con lợn. Lợn ta đứng sững. Hai con vật nhìn nhau. Lợn giả cách đi chỗ khác như bỏ cuộc. Rồi bước nhẹ nhàng về phía sau con ghẹ. Bỗng rất nhanh, lợn đặt một chân lên lưng con ghẹ, ấn chặt. Hai càng ghẹ quều quào trong không khí nhưng bây giờ đã trở thành vô tác dụng, chẳng làm sao cắp nổi lợn. Ấn mạnh chân, giữ chắc con ghẹ trên mặt boong, lợn ta cúi xuống, há miệng ngậm lấy cái mai, nhích chân sang những ngoe con rồi hất mạnh đầu, con ghẹ đã bị tách làm hai, hệt như mẹ tôi hay cái Ngàn chách cua đồng nấu cơm vậy. Nhìn hai con lợn ăn cua ăn cá thạo thế tôi đã hiểu vì sao chúng béo rụt đầu rụt cổ. Đúng là những con lợn sướng nhất thế giới!

Sau chuyến ấy tàu VT 250 do Lê Mây làm thuyền trưởng vào sửa chữa. Như mọi con tàu vào sửa chữa định kỳ khác, nó bị kéo dài. Công việc sửa chữa của xí nghiệp cơ khí ùn lại. Do thiếu vật tư, do không đủ phụ tùng thay thế, do việc lên đà một con tàu nào đó phụ thuộc con nước bị chậm. Trăm thứ lý do. Dồn toa. Tàu này lùi đẩy tàu khác lùi. Tình trạng mười phương kiệt nguyên liệu thống trị sản xuất. Hai tháng sau vẫn không ai ỏ ê đến VT 250. Rồi ba tháng. Đói. Đói không khác gì 307. Và cũng phải xuống cuối cảng đỗ ngoài thằng 307. Nằm mãi, vô công rồi nghề tù túng đói rách bứt rứt không chịu được. Mây nghĩ ra một mẹo: Xin giám đốc cho đi thêm một chuyến, vừa để tăng sản lượng cho xí nghiệp, vừa đỡ lãng phí thiết bị, lãng phí nhân lực. Máy trưởng Fa Ra Đay nhất trí cao. Anh em thuyền viên reo hò tán thưởng. Nhưng phải có quà lên giám đốc. Chẳng thể nói suông. Quà gì? Anh em mình nghèo, giám đốc thừa biết. Về vật chất chẳng thể nào bằng được thằng Hạ Long 19, thằng Hạ Long 02, chúng nó tiền tấn. Mình cốt cái lòng thành. Ta biện cái lễ nhỏ thôi. Giám đốc mấy hôm nay có phu nhân và tiểu thư xuống chơi. Vậy ta cứ làm con gà, chai rượu. Thuyền trưởng, máy trưởng phải xuất tướng. Thuyền trưởng nói về việc thực hiện kế hoạch. Máy trưởng báo cáo thiết bị vẫn đi tốt. Nhất định được. Xin đi đánh cá cho xí nghiệp chứ làm gì đâu mà không được. Nghe có vẻ xuôi. Nhưng Mây không ngờ các thứ quỹ tàu đều đã xoẳn dù chưa bước vào sửa chữa. Túi anh, túi Fa Ra Đay đều cạn, đều mắc bệnh viêm cơ túi. Cuối cùng anh phải thân ra Ngã ba Đông Dương, tới quán bà Bảy Béo quen, tháo cái đồng hồ Seiko five (quen thì quen, ăn mòn bát mòn đũa vẫn phải như vậy, cái ngã ba này nhờ cánh tàu cá mà bao nhà giàu có hẳn lên) đặt hai con gà mái tơ và một chai ba sì đế(1) đúng chập tối lên lấy. Nhớ là chập tối. Mấy giờ à. Đồng hồ cắm quán cô em rồi còn hỏi giờ giấc. Nhớ là phải có cả lộc(2). Nhiều lộc vào. Kế hoạch thực thi tốt đẹp. Bà Bảy giao gà giao rượu đúng thời gian. Lộc nhiều. Hai con gà luộc vàng ươm được gói giấy báo đặt trong mâm nhôm và để kín đáo, bà Bảy còn úp cái lồng bàn lên trên. Nhọ mặt người, Đay đội mâm, Lê Mây cầm chai ba sì đế. Từ Ngã ba Đông Dương tới nhà sếp khá xa. Đay đội ê cả cổ.

Tới nơi, đội lễ lên ngang cầu thang lại phải đội xuống. Nhà sếp không chỉ có vợ chồng sếp. Mà còn có khách. Lại phải sang bên kia đường. Vào hàng nước. Chờ. Nhưng đám khách vừa xuống lại một người khách đi xe máy tới, khóa xe ở sân, lên thang. Ông này trông lạ. Hình như ở hải quan. Hay trên Bộ. Chờ lâu. Cuối cùng khách cũng xuống. Rất nhanh, Mây và Đay đội mâm xách rượu bước lên. Cái gì thế này? Giám đốc kêu lên. Đay mở lồng bàn. Mây đặt chai rượu nhìn giám đốc: Biết chị và cháu về chơi, tàu chả có gì, nằm bờ lâu quá rồi, gọi là lòng thành có tí quà mang biếu thủ trưởng với chị và cháu ăn cơm khỏi phải đi ăn tiệm, phiền ra.

Lần đầu tiên trong đời tổng giám đốc nhận được một món quà biếu như vậy. Ông cố nín cười bảo vợ chặt ngay con gà ăn cơm, nhiều khách quá đang đói mềm ra đây và mời hai anh ăn luôn thể. Không thể nói đánh độp cái chuyện xin đi thêm một chuyến biển được, không thể về ngay được, thuyền trưởng, máy trưởng đành phải ở lại. Và cũng không thể để phu nhân giám đốc chặt thịt gà, Mây nói:

- Ông Đay ra chặt cho chị Vân đi. Chị cứ để đấy, chúng tôi làm nhoắng cái là xong.

Đay nhanh nhẹn bước tới chỗ đặt thớt có cái mâm mình vừa đội đến. Gì chứ, chặt hai con gà, làm bữa nhắm chỉ là chuyện vặt. Ác cái là chờ đợi lâu quá, hai tờ báo dính bết vào lớp da gà béo nhẫy những mỡ, mủn ra.

Vừa chặt vừa phải bấu bấu, nhặt giấy mủn để vào một góc mâm. Năm người ngồi ăn. Vợ giám đốc, cô con gái giám đốc ăn xong trước, còn lại ba người. Và bây giờ mới là lúc vui, lúc câu chuỵên cởi mở, rôm rả. Mây mạnh dạn đề nghị được đi thêm một chuyến với những lý lẽ khó mà bác bỏ, chính đáng không chê vào đâu được, hoàn toàn vì công việc, vì lợi ích của xí nghiệp và kết luận:

- Báo cáo giám đốc, tôi là đứa con hay lo hay làm của Đảng, không xin giám đốc đi nghỉ mát hay đi dưỡng bệnh. Chỉ xin được đi biển đánh cá mang về cho xí nghiệp thôi. Nằm nhà lâu nó hỏng mất người.

Có lẽ vì hương vị John đen ngon êm quá, hai vị khách uống hết chén này tới chén khác. (Giám đốc cất chai rượu trắng của tàu đi, và lấy ra một chai Johnnie Walker đen, loại rượu có thứ hạng trung bình trong số những bạt ngàn các chai rượu trong buồng, đủ loại vang, sâm banh, uyt ki, cô nhắc, quà của các tàu vận tải ngoại thương, cái món này đối với dân nghiện như Mây, như Đay thật mềm môi). Đay đế theo đúng kịch bản đã xây dựng từ trước:

- Báo cáo giám đốc. Thiết bị vẫn còn gọ gẵng được. Có cái bơm nước làm mát bị hỏng, chúng tôi đã liên hệ với thằng 217, tàu nó lên đà, nó hứa sẽ cho mượn một chuyến biển. Dầu của tàu còn năm tấn. Chỉ xin xí nghiệp cho nhận thêm năm tấn nữa thôi.

Lê Mây nhăn nhó:

- Bây giờ đang mùa cá bánh đường. Các tàu đánh đều đạt sản lượng cao. Chúng tôi ở nhà nghe bạn bè nói mùa vụ, ruột gan chúng tôi cào xé lắm.

Giám đốc cười:

- Uống đi đã. Công việc hãy để đấy. Tính sau.

Ông thừa biết lý do xin đi thêm chuyến biển nữa. Ông hiểu ngay cái lý do không được nói ra, mà đó lại là lý do chính. Các tướng nằm bờ lâu hết tiền. Nhưng chẳng lẽ nói với giám đốc rõ ra cái ý ấy, có khác gì nhận tôi không vì xí nghiệp mà chỉ vì tôi. Ai cũng vậy. Nói ra miệng điều mình không nghĩ, và giấu biệt trong lòng những điều mình mong ước, giấu biệt mục đích của mình. Trong hàng ngũ những thuộc quyền của ông mà ông giao tiếp, người ta đều giấu ông ý nghĩ thật và thỉnh thoảng mới xì ra những sự thật cỏn con rồi thổi phồng lên, coi đó như bản chất trung thực của mình để được ông tin tưởng, được ông coi là tâm phúc. Cũng như ông đối với cấp trên ông thôi. Nói dối, giấu đi những ý nghĩ thực của mình, lúc nào cũng vì công việc, vì cái chung, lo lắng suy nghĩ... Đó là cung cách ứng xử của tất thảy. Mọi người ông nhìn thấy, kể cả chính ông nhìn ông và nhìn cấp trên, cấp dưới của ông, chỉ là con người biểu kiến chứ đâu phải con người thực. Cũng giống như chân trời biểu kiến khác với chân trời thực mà ông đã học khi còn là sinh viên. Cái chân trời mình nhìn thấy luôn không phải là chân trời thực. Cụm từ “trằn trọc trăn trở” của người lãnh đạo luôn được nói tới thực chất chỉ là trằn trọc trăn trở sao cho được việc chung để từ đó mình có thể rút ra cái phần tối đa cho mình. Và quan trọng là cái phần tối đa ấy bao giờ cũng phải có một phần dành biếu cấp trên. Phần biếu cấp trên có khi là ba mươi phần trăm, có khi là năm mươi, thậm chí đột xuất lên đến một trăm phần trăm cũng không được tiếc. Đau đấy nhưng không được nhăn nhó, mà phải giữ được nét mặt tươi như hoa. Phải biết nhìn những bước tiếp theo. Điều quan trọng là biết nhìn những bước tiếp theo.

Như bữa ăn hôm nay. Là toàn bộ quà biếu của tàu VT 250. Tàu đánh cá chẳng lấy đâu ra tiền. Lại là tàu nằm bờ mấy tháng nay rồi. Của cho không quan trọng bằng cách cho. Quà biếu không quan trọng bằng cách biếu. Nói vậy thôi. Quà biếu, của cho cũng quan trọng lắm. Vô cùng quan trọng. Không kém gì cách biếu cách cho. Món quà biếu hôm nay rõ ràng chẳng quan trọng gì. Lại còn tai tiếng nữa. Ông đã định không nhận. Nhưng rồi ông nghĩ lại. Nếu hai cán bộ tàu của ông đội mâm về sẽ ra sao. Hẳn sẽ trở thành một chuyện thời sự. Và bọn thối mồm, bọn ghen ăn ghét ở sẽ cười khẩy: Sếp đời nào nhận cái thứ vớ vẩn ấy. Đúng là mấy lão hấp. Sếp chỉ nhận những thứ thật gọn nhẹ thôi. Gọn nhẹ nhưng giá trị gấp trăm gấp nghìn lần. Hai con gà, sếp sẵn sàng nhận, nhưng phải là hai con gà bằng vàng. Chuyện thời sự ấy không chỉ nằm trong xí nghiệp. Nó còn lan truyền trong thành phố, thậm chí bay lên tận Hà Nội. Cách tốt nhất là nhận rồi mời hai người ở lại uống rượu với ông. Sẽ là một giai thoại vui. Hình ảnh ông sẽ được tô vẽ thêm, đáng yêu hơn trong con mắt mọi người. Ông uống rượu với hai thuộc cấp và rất thân mật hỏi hai người khách:

- Tôi hỏi thật hai ông nhé? Ớ dưới tàu, thuyền trưởng máy trưởng có ăn cắp cá không?

Câu hỏi đánh độp, tung ra rất bất ngờ. Ông không dùng chữ lấy, lấy cả, mà ăn cắp, ăn cắp cả. Gọi sự việc đúng tên của nó. Cả hai lặng đi. Lê Mây còn chưa biết trả lời ra sao trước câu hỏi vừa thân mật vừa sỗ sàng, vừa nghiêm túc ấy, Fa Ra Đay đang đưa chén rượu lên môi, chợt ngừng lại, nghiêm mặt trả lời:

- Báo cáo thủ trưởng có ăn cắp chứ. Không ăn cắp sống sao được!

Lê Mây chết lặng trước câu trả lời cũng sỗ sàng như câu hỏi. Nói thế là đúng, là nói sự thật. Nhưng không nên đốp chát như vậy. Phải nói sao cho có tình có lý để giám đốc biết thời buổi này nếu cứ ngang bằng sổ ngay, làm ăn lương thiện thì không thế nào đủ sống. Với lại mang tiếng đi đánh cá quanh năm suốt tháng, khi về nhà không có con cá mang về cho vợ cho con nghĩ nó cũng tủi. Nói đến đấy rồi có thể nói thêm báo cáo thật với giám đốc là cá mang về nhà phải là cá ngon, song, tráp, chim, thu... rồi nếu có thể nói dấn lên, báo cáo thật với giám đốc chẳng nói các anh cũng biết nhiều khi vợ ốm con đau thuốc men cũng chỉ trông vào con cá. Cực chẳng đã mới phải làm cái việc khốn nạn ấy chứ ai muốn làm gì.

Vẫn cầm chén rượu trên tay, đầy tự tin và cả tự hào vì mình là người đầu tiên dám công khai nhận với tổng giám đốc việc ấy, Đay nói thêm để tổng giám đốc biết mình không phải loại ăn cắp thông thường:

- Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi ăn cắp nhưng không ăn cắp như những người khác. Chúng tôi ăn cắp có văn học!

Tiếng có văn học Đay tung ra nghiêm túc, nặng trĩu đầy hãnh diện khiến tất cả cười ầm. Cả vợ giám đốc đang ngồi gọt những quả táo tây tím lịm mà tàu vận tải nước ngoài biếu để chuẩn bị cho món đét xe cũng phải phì cười. Cả cô con gái giám đốc ngồi cạnh mẹ cũng bật cười. Giám đốc hỏi tiếp khi trận cười đã dứt:

- Thế nào là ăn cắp có văn học?

Mây im lặng chờ Đay trả lời.

- Khó nói lắm thủ trưởng ạ. Nghĩa là nó không thô. Nó có văn học. Thế thôi.

Giám đốc gật đầu, vẻ như đã hiểu. Ông thấy thằng cha máy trưởng trông sù sì như con gấu này được. Được ở chỗ hắn ta thật. Cái phần biểu kiến của nó không đến nỗi. Lần đầu tiên ông nghe một thuộc cấp trả lời ông như vậy. Có thể nói chuyện rất thẳng thắn với hắn về những chuyện khác nữa, nhưng không phải lúc này, không phải ngay bây giờ.

Bữa rượu chỉ kết thúc khi mấy vị chức sắc trong ngành công an đến chơi. Kết quả là số không. Tàu VT 250 cứ phải nằm bến chờ sửa chữa còn Đay được điều xuống làm máy phó tàu HL 19, cùng một chuyến với bác sĩ Nông Đức Bá, trưởng phòng y tế. (Chuyện đó sẽ kể sau). Và cũng khó khăn lắm Mây mới chuộc được cái đồng hồ. Bằng tiền của báo vụ Quân. Quân cùng quê xứ Quảng. Quân đi tàu HL 12 từ vịnh Thái Lan mới về. Tiền đang xủng xoẻng. Đưa theo tàu ra dăm tấn gạo, mặt hàng bao giờ miền Bắc cũng cần, cầm chắc lãi ba chục phần trăm, hơn trăm quả dừa khô chắc chắn lãi gấp đôi, thêm mấy chục kí bún khô để ăn và làm quà. Quân bảo Mây đèo về hai bao gạo, dăm kí bún. Lại cả một cặp dừa. Quân nói:

- Chi viện đồng hương thế thôi. Nếu thằng này đi tàu nước ngoài thì quà sẽ nhẹ hơn. Chỉ một cái tivi thôi. Hay cái phong bì là xong. Không phải cồng kềnh thế này. Nhưng bây giờ ra ngã ba Đông Dương cái đã. Nhớ bia hơi Hà Nội lắm rồi.

Hai người ra quán bia, vào đúng quán bà Bảy Béo. Uống và chuyện. Đến lúc ấy Quân mới biết Mây cắm đồng hồ ở quán. Thế là Quân chửi vung lên, bảo bà chủ quán:

- Chắc lép à? Có hai con gà mà bắt đồng hương của tôi phải cắm đồng hồ à? Muốn phá sản không thì bảo? Có muốn không ai vào đây ăn uống thì bảo?

Quân điên thật sự. Và Quân đã say. Bà chủ quán lắc lư bộ ngực đồ sộ rối rít thanh minh em cũng tưởng anh ấy quên tiền ở tàu, rồi anh ấy về lấy ngay, anh ấy gửi lại đồng hồ thì em giữ hộ thôi chứ có phải chắc lép đâu. Em cứ chờ mãi không thấy anh ấy đến lấy. Đây. Em cất trong tủ cẩn thận...

Mây đeo đồng hồ vào tay. Quân ngửa cổ dốc vại bia uống dở vào họng, dằn mạnh cốc xuống mặt bàn, bảo chủ quán:

- Tính tiền. Hai con gà, chai ba sì đế bao nhiêu. Cả lãi nữa. Chỗ bia uống hôm nay bao nhiêu. Thanh toán. Không uống ở đây nữa. Đi hàng khác.

Trả tiền xong, Quân dắt tay Mây dung dăng dung dẻ bước ra. Anh nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay Mây:

- Cả tàu không đứa nào có tiền à?

- Đứa nào cũng kêu cháy túi. Kể ra để một cái mũ giữa câu lạc bộ rồi thằng nào có bao nhiêu tiền vất cả vào cũng thừa đấy, nhưng ai lại làm thế. Mình là thằng thủ trưởng phải lo chứ.

Quân nhìn Mây âu yếm, tủm tỉm cười:

- Chịu bố. Giám đốc có thể dát vàng cả nhà xí, không thiếu thứ gì mà bố dám chơi cái văn đôi gà với cút rượu thì liều thật. Lại còn đội nghênh ngang giữa đường nữa chứ. Chỉ có bố là dám chơi cái văn buổi dải ấy thôi.

Rồi làm ra bộ nghiêm nghị nói với giọng khiển trách nhưng Mây biết đấy là bạn mình đang sướng, là lòng bạn mình yêu mến vô cùng:

- Đồng hương buổi dải quá đấy đồng hương ạ.

Ớ quán bia mới, hai người còn uống nhiều uống lâu. Biết bạn thèm rượu thèm bia, Quân chiêu đãi Mây một bữa túy lúy. Và cũng biết bạn túng, Quân rút ra một xếp tiền đưa cho Mây:

- Cái này là biếu đồng hương để uống, không phải đưa cho bà ấy. Bà ấy có khoản gạo kia rồi.

Thế là túi Mây rủng rỉnh. Trong thời gian tàu sửa chữa Mây có đồng ra đồng vào, nhưng cũng chẳng được lâu. Tính Mây thế. Tính cánh đi biển thế. Gặp nhau, kéo nhau vào quán, làm vài chén là thôi đấy. Mềm môi, cứ thế đưa cay. Khi tàu sửa chữa được già nửa công việc, nghĩa là có nhanh cũng còn hai tháng nữa, Mây đã nhịn rượu cả tuần rồi. Người bã bời, đắng ngắt, mồm miệng nhạt thếch, chân tay rời rã. Giống hệt cái hồi đi chuyến biển cuối cùng năm ngoái. Đang lang thang trên cầu thì gặp Huy. Huy rút trong túi ra bao thuốc Capstan mời Mây xuống tàu làm một tí cay cay. Chỉ nghe thấy thế bao nhiêu nước miếng đã tứa ra rồi. Chân Mây cứ bước theo Huy như một cái máy không thể nào cưỡng được. Họng Mây như đã được thứ nước nóng bỏng ấy tưới vào làm cho tươi lại, sống lại. Cái cay cay của Huy không phải là thứ cuốc lủi nhạt phèo ở mấy hàng nước quanh đây, ngay cả rượu Vân cũng chẳng thấm gì. Mà nó giống rượu ở nhà giám đốc hôm nào. Trong veo. Thơm. Thơm lạ lùng. Cầm chén rượu lên chưa uống đã thơm. Uống rồi thơm mãi, ấm mãi trong họng. Và đặc biệt uống thoải mái không nhức đầu. Ngấm. Và êm. Nhưng đi được mấy bước anh quay ngoắt lại trước sự ngạc nhiên của Huy. Nhìn theo Mây, Huy cười một mình: Cà cuống chết đến đít vẫn cay. Không xuống thì thôi. Càng còn rượu. Rồi cười một mình: Đã thế mai gặp lại mời, xem giữ được bao lâu.

Mây đi một mạch đến nhà gửi xe. Đạp về nhà. Anh ở khu bãi cát, một khu tập thể của xí nghiệp. Lục tìm trong túi ni lông treo ở một cái đinh trên tường. Lấy ra quyển y bạ. Đút vào túi, xem đồng hồ rồi phóng xe đi. Vừa ra ngõ, gặp ngay Quân rỗ đang đi vào.

- Tôi đang định vào rủ ông đi kiếm tí ba si đế.

Mặt Mây sáng lên. Nhưng lại ỉu xìu khi biết Quân cũng cháy túi.

- Xuống thằng mười chín với tôi. Quân bảo. Vào thằng Dân vê tê đê. Nó vẫn mời tôi xuống nó.

Nghĩ đến việc xuống đấy có thể gặp Huy, phòng đại phó và phòng báo vụ nhìn thẳng sang nhau, Mây bảo:

- Y bạ ông để đâu?

- Ở tàu. Làm gì?

- Ông về lấy ngay ra đây. Đi với tôi luôn.

Một lúc sau hai người hai xe, hai quyển y bạ bước vào trạm xá. Mây khám trước. Đồng chí Bá, bác sĩ người dân tộc nhưng tinh ranh hơn bất kỳ một người Kinh nào, có cô vợ trẻ đẹp như mơ nhưng đang rất lo chuyện ấy của vợ ngày một yếu, đã mua các thứ thuốc cho vợ uống vẫn không kết quả đành chịu bó tay và giờ đây tập trung sức lực vào việc mở cuộc vận động đi tàu nước ngoài với chức danh bác sĩ cũng được nếu không thì phục vụ viên cũng được, tươi cười chào Mây:

- Chào thuyền trưởng. Lâu lắm mới gặp thuyền trưởng. Thuyền trưởng đau ốm làm sao?

Mây đưa quyển y bạ, làm ra mệt mỏi nhăn nhó tật bệnh ốm đau:

- Chân tay tui nhức hết. Lưng nhức, ngực nhức. Anh xòe bàn tay to lớn chai sạn của mình ra trước mặt bác sĩ: Tay nhơm nhớp, chân nhơm nhớp, cứ ra mồ hôi trộm. Khó chịu quá bác sĩ ạ.

Bá đeo ống nghe, luồn vào lưng vào ngực Mây, vẻ mặt nghiêm trang chăm chú. Một lúc sau lại bảo:

- Anh thở mạnh vào.

Mây thều thào thiểu não như sắp quỵ đến nơi:

- Ngực tưng tức, khó chịu lắm.

Bá vừa nghe phổi nghe tim cho Mây vừa nói với Quân ngồi chờ ở ghế gần đó:

- Chờ một tí nhé. Anh Quân bệnh gì?

Mây nhanh nhảu trả lời thay Quân:

- Nó cũng như tau. Nó cũng như tau. Tay chân nhơm nhớp...

Không chịu được sự nhăn nhó giả vờ của Mây, Quân đứng lên:

- Hắn nói bậy đó. Không bệnh trạng chi hết đó.

Anh bước tới cầm quyển y bạ của Mây để trên chiếc

bàn có phủ mảnh vải màu cháo lòng, lật từng tờ trước mặt bác sĩ:

- Y bạ trắng tinh. Một viên aspirin cũng không. Từ ngày vào xí nghiệp hắn chưa một lần đến phòng khám bệnh. Lần này là lần đầu tiên. Hắn khỏe nhất xí nghiệp đó. Chẳng bệnh gì. Chẳng qua là thèm rượu thôi. Thèm rượu nhưng hết tiền. Không có tiền mua rượu. Tôi cũng thế. Chẳng bệnh tật gì. Y bạ đây. - Quân lại chìa quyển y bạ của mình ra, giở từng tờ - Trắng tinh. Xí nghiệp chưa tốn một xu thuốc nào. Viên B1 cũng không. Lưng tôi lưng xuất khẩu đấy bố ạ. Báo vụ nhưng những lúc cần, ngồi nhặt cá suốt đêm với cánh thủy thủ. Bọn boong còn phải nghỉ giải lao chứ thằng này thì không. Bụng dạ cực tốt. Lên bờ bát ngát, về tàu muộn, xuống bếp, chảo cá kho không đậy vung, gián trong vạc bò ra rào rào như mưa, thằng này vẫn gắp ăn, chẳng sao. Bụng tôi bụng inox đấy bố ạ...

Bá bật cười:

- Thế bây giờ các bố cần gì, ốm không ốm đau không đau. Lưng thì xuất khẩu, bụng thì inox...

Không phải đóng vai người ốm nữa, Mây tươi tỉnh mặt mày nói năng lưu loát, anh cười làm những nếp nhăn sớm có nổi lên chằng chịt trên khuôn mặt nâu sạm râu ria lởm chởm:

- Cứ cho mỗi thằng bốn chai canh kí na hay phong tê thấp cũng được. Nói thật với bác sĩ thèm quá rồi. Chẳng còn xu mẹ nào. Tàu nằm bờ lâu quá. Thằng đánh cá nằm bờ là túi xoẳn. Có như thằng đi tàu nước ngoài đâu.

Bá lắc đầu:

- Hai chai thôi. Tiêu chuẩn khám chỉ mỗi người một chai rượu thuốc. Hai chai là đã ưu tiên rồi.

Quân gắt yêu:

- Cứ ghi vào đây, mỗi y bạ bốn chai. Y bạ trắng tinh đây này. Phải bốn chai chứ hai chai ai uống ai đừng.

Bác Sĩ, chú Hồng nói không sai: Hôm trước biển lặng, thả cái bát xuống biển không chìm thì phải coi chừng, có gì ăn trước đi. Hôm sau biển động đấy! Tàu vào vụng Ngọc trú gió hôm trước thì hôm sau biển động. Vừa buông neo trong vụng, đã nghe tiếng bơm nước hùm hụp hùm hụp. Mọi người trần truồng hết, chen chúc trong nhà tắm, không ai xấu hổ xấu han gì. Lạ thế! Vào đây tắm với chúng tao thằng Ba Đùi. Giờ thì tất cả mọi người trên tàu (trừ chú Hùng lùn và bố tôi) đều gọi tôi là thằng Ba Đùi. Tôi cũng quen rồi. Không ngượng nữa. Hơn thế, tôi hiểu mình được cả tàu quý men. Nóng. Nóng quá. Không một phe phẩy gió. Tắm xong, mở bia, nước ngọt rót vào ca. Một thau đá dùng để ướp cá ướp tôm từ dưới hầm đã được đặt giữa buồng ăn. Tiếng lắc ca cho đá chảy, tiếng nhai đá rau ráu giòn tan. Hai chiếc thuyền nan từ trong bờ chèo ra áp mạn tàu. Mỗi thuyền là một phụ nữ. Một người hơn tuổi mẹ tôi đứng trên sạp thuyền chung quanh toàn mít, dứa và quả tai chua. Một người chỉ khoảng ba mươi, mặc quần hồng áo hồng, nét mặt sáng sủa nhẹ nhõm rất hay cười, trong thuyền bà ta chỉ có những lồ không. Bà ta đứng dưới thuyền gọi tên từng người trên tàu. Bố tôi cũng bước ra: Chào cô Nguyệt. Thế nào? Xây nhà chưa? Chào thuyền trưởng. Làm ăn ngày một khó khăn. Lấy đâu tiền mà xây nhà. Thuyền trưởng có chiếu cố cho em đâu. Chú Hồng cười: Chiếu cố đi thì phải chiếu cố lại, quan hệ hai chiều mới bền chứ. Tất cả cùng cười. Người đàn bà có tên Nguyệt lại nói: Cho em lên tàu đi. Cứ bắt em đứng phơi nắng dưới này à? Hôm nay cho em bao nhiêu lồ? Bác Sĩ bảo: Nhiều lồ. Lồ to. Bọn anh chỉ đổi lấy một lồ bé tí của em thôi. Em đổi. Sẵn sàng. Có ngay. Mọi người lại cười. Cả bà già đứng trên thuyền mít cũng cười. Trong khi thả thang dây thì đổi cá lấy mít, lấy dứa đã. Đổi mít, đổi dứa không phải dùng thang. Hai lồ cá vụn (đã chuẩn bị sẵn, để ngay ngoài be) chỉ đổi được hai quả mít chục quả dứa và mươi quả tai chua. Người dưới thuyền cứ đứng dưới thuyền. Cả dòng dây chuyền qua be, mít dứa tai chua kéo lên qua be. Lổ đựng hoa quả là lổ sạch. Tôi chưa thấy ai mua bản đổi chảc như vậy bao giờ. Người mua cũng như người bản không cần biết mặt hàng mình mua tốt xấu ra sao. Rất nhanh mặt nước biển chung quanh tàu đã nổi lềnh bềnh những vỏ mít chỉ còn toàn xơ nhựa loang thành vảng, những miếng vỏ dứa vạc sâu cho hết mắt. Và cũng rất nhanh bà bản hoa quả chèo thuyền vào bờ. Đó cũng là lúc thang dây đã được thả xuống thuyền. Cô Nguyệt nắm thang dây trèo lên. Bốn năm bàn tay giơ ra đỡ cô nhảy từ trên be xuống mặt boong. Bố tôi, chú Hùng vẫn ở trên buổng lải. Trừ bảc Suất, bảc Nhớn cấp dưỡng và vài người nữa, tất cả vây quanh cô Nguyệt. Người nắm tay cô. Người vỗ vai cô. Cô cười với tất cả. Rồi cô bảo: Thôi. Cảc anh giao cả cho em đi. Tối em ra. Cần cẩu hoạt động. Nắp hầm cả vuông bằng gỗ dày và nặng bịt thép được cẩu lên rồi đặt xuống mặt boong đảnh rầm. Nhiều người nhanh thoăn thoắt xuống hầm. Những lổ cả được đưa lên. Mười tảm lổ tất cả. Bảc Sĩ bảo mới đảnh mấy ngày được ít nhưng toàn tươi ngon đấy. Cô Nguyệt thì chê cả bé cả xấu. Bảc Sĩ cầm con cà mối nâu to đùng giơ lên: Của em bé thì có. Của bọn anh to thế này còn chê bé, đòi to đến đâu nữa. Tất cả hau hảu nhìn vào cô Nguyệt. Cô Nguyệt đỏ rừ mặt, phảt vào vai bảc Sĩ: Phải gió cái nhà anh này. Rồi hai người vào trong cabin bảc Sĩ đóng cửa lại. Chắc là để giao tiền. Chú Hồng nhìn cái cửa gỗ phoóc mi ca đóng chặt nói: Lãi nhất là bố Sĩ nhọ. Lẽ ra bố ấy chỉ được năm mươi phần trăm định suất. Chú Quẹn còn bảo: Không được phần trăm nào cũng lãi rồi. Tất cả cùng cười. Hai người đóng cửa trong phòng không lâu. Cô Nguyệt mở cửa bước ra. Tôi tò mò nhìn vào: Bác Sĩ đang nằm bò trên giường lúi húi viết gì trên một tờ giấy, bên cạnh là một xếp tiền. Một lúc sau từng người một vào nhận tiền bán cá. Rồi bác Sĩ cầm tiền lên buồng lái. Không cần lên theo, tôi cũng biết bác đưa cho bố tôi và chú Hùng lùn. Tôi hoang mang quá. Không hình dung được việc cả tàu bán cá như vậy. Mà bán rất tự nhiên. Rất công khai. Chẳng phải suy nghĩ đắn đo. Không phải bàn bạc. Nhận tiền cũng vậy. Bây giờ tôi đã hiểu những đồng tiền bố đưa cho mẹ là thế nào rồi. Không phải tất cả là đồng tiền mồ hôi, đồng tiền lương thiện. Quyển sách, bộ quần áo, đôi dép của tôi và cái Ngàn đẹp hơn những đứa bạn cùng lớp là nhờ những đồng tiền bán cá này. Cả căn nhà cũng vậy. Việc này đã diễn đi diễn lại bao lần rồi. Từ bao giờ? Và vẫn còn tiếp diễn. Từ hôm ấy giữa tôi và bố tôi có một khoảng cách chứ không còn như trước nữa. Tôi quan sát bố, ngẫm ngợi, vừa không hiểu vừa quý lại vừa thương. Bố làm việc ấy vì chúng tôi, vì mẹ. Tất cả những người trên tàu vừa bán cá của nhà nước, đút tiền vào túi cũng đều vì gia đình, vì vợ vì con. Tôi bỗng nghĩ đến con chim bói cá. Mọi người trên tàu cũng giống như con chim bói cá hôm qua. Vất vả kiếm ăn nuôi đàn con nhỏ.

Hết nghĩ đến con chim bói cá tôi lại nghĩ đến bác Sĩ, đến mấy đứa con bác mà bác đã kể cho tôi nghe. Bắt đầu từ việc uống chè. Bác Sĩ uống chè rất đặc. Cái ca pha chè của bác có khi bã gần đầy. Nước đặc quánh. Tôi không bao giờ dám uống chè của bác. Chát săn cả môi, sít lưỡi. Mỗi khi bác về quê là mang theo hàng cân chè. Cả xóm đẽn uống. Khách đến ngồi giường uống chè, xem tivi. Chỉ sợ sập giường. Bác bảo vợ con bác rất chiều bác. Đám con bác cứ thứ bảy là đứa lớn cõng đứa bé ra ngõ đón bố. Bảy đứa tất cả. Bác đọc tên từng đứa, đọc đi đọc lại mà mãi tôi không nhớ nổi. Không nhớ tên. Không nhớ đứa nào là chị, đứa nào là anh, đứa nào là em. Chỉ đến khi chú Hồng cao giọng ngâm như ngâm thơ, tôi mới nhớ. Nhập tâm ngay kể cả thứ tự lớn bé trai gái: “Tú, Tình, Đức, Độ, Lý, Loan, Đô”. Tú là cái Tú, Tình là cái Tình. Thằng Đức, thằng Độ, cái Lý, cái Loan, thằng Đô. Đọc xong câu thơ, chú Hồng nói: Kết bằng Đô. Hay! Đô là đô la. Có hướng đi lên.

Bác Sĩ còn kể khi ngủ thì cái Lý lên năm một bên, cái Loan lên ba một bên, hai đứa sờ hai ti. Thằng Đô lên một ngủ với mẹ. Bố về, bố chiều, lại có quà. Hộp sữa, cân bánh, cả tiền nữa. Vợ bác rất tằn tiện. Nghiêm. Có hộp sữa bác giai cho cũng chờ bác giai về mới ăn. Hoặc bán cho con lấy năm nghìn. Bác Sĩ cười bảo: Lũ trẻ nhà bác có vốn riêng. Tiền bố cho chứ ai. Nó đòi ăn sữa ăn kẹo. Cho ăn rồi vẫn đòi. Trẻ con nó thế. Thấy còn là đòi. Hết thì thôi. Thế là mẹ bảo con: Mày ăn tao bán cho hộp sữa. Năm nghìn. Nó mua ngay. Rồi lại đục mời cả nhà. Bữa ăn, cả nhà chỉ có một con tôm he rim. Mẹ nhường con. Con nhường bố. Bác cười: Ai ăn thì ăn đi. Có mỗi một con tôm he, này mẹ nó vất vả nhất, ăn đi. Người ta đi đánh tôm thiếu gì. Bác gắp vào bát bác gái. Bác gái lại nhai cho dập ra rồi bón với cơm cho thằng Đô bé nhất. Phụ nữ là chúa hay nhường. Bác bảo vậy. Bác gái cũng giống mẹ tôi. Bữa cơm có miếng gì ngon lại nhường tôi, nhường cái Ngàn. Nếu bố tôi ở nhà thì nhường bố tôi. Bác Sĩ rất thương vợ. “Ngườiphụ nữ là khổ. Nam giới đã khổ nhưng phụ nữ còn khổ hơn nhiều”. Bác thương bác gái, thương thật lòng, nhưng sao bác lại đóng cửa với cô Nguyệt. Chỉ giao tiền làm gì phải đóng cửa. Chắc chắn đã có một chuyện gì xảy ra. Mọi người trên tàu đều biết. Cả bố cũng biết. Tôi nghi ngờ những điều bác Sĩ nói về tình cảm của bác với bác gái. Từ bây giờ một khoảng cách cũng đã có giữa tôi và bác. Không còn tin vào những điều bác nói như trước nữa. Bác và cả bố, không giống như tôi vẫn nghĩ.

Đại thắng, hai người tám chai rượu thuốc về nhà Lê Mây.

Nhà Lê Mây ở khu Bãi Cát, trước đây là trận địa pháo cao xạ. Bây giờ chẳng còn dấu vết gì của một thời bom đạn, của những pháo thủ đã hi sinh, của những nòng pháo ngụy trang chĩa lên trời, những ra đa quay bốn phương dò bắt tín hiệu, canh giữ vùng trời. Chiến tranh qua lâu rồi. Trên mảnh đất này, những mái nhà tranh đã mọc lên như một xóm nghèo. Nhà nọ cách nhà kia bằng một hàng rào rau ngót, rau mồng tơi, gà nhà này sang vườn nhà khác bới và đạp mái. Ngọn mướp bò cả vào cửa sổ, tay mướp xanh quấn từng vòng chấn song cửa bằng róc. Cách đây mấy năm, thời còn bao cấp cũng có một hai nhà gạch, mái ngói, niềm mơ ước của bao người. Nhưng giờ đây không phải những mái ngói nhà một tầng, những căn nhà mà ta vẫn gọi là cấp bốn như thế nữa. Nhà hai tầng, nhà ba tầng vươn cao trên trời xanh ngạo nghễ, đón gió bốn phương. Đó là những nhà có người đi tàu vận tải đông lạnh nước ngoài, nhà của những người thuộc phòng kinh doanh (một phòng mới lập ra khi ông Thắng về làm giám đốc thay ông Trần Hữu Bằng) chuyên thu mua và xuất khẩu sắt vụn, gỗ bạch đàn, những công việc chẳng liên quan gì đến con tôm con cá. Ngôi nhà to nhất khu Bãi Cát là của một người thuộc phòng này chứ không phải của người đi tàu vận tải nước ngoài. Quán. Quán Mèo. Cũng chẳng ai biết Quán Mèo từ đâu đến, vào làm xí nghiệp từ ngày nào, chuyển về phòng kinh doanh từ bao giờ, nhưng giờ đây ai cũng nể Quán Mèo. Quán Mèo như từ trên trời rơi xuống đúng lúc cần có Quán. Một cái biệt thự ba tầng, với khuôn viên bao quanh, với những con béc giê to lớn, đuôi cúp, tiếng sủa ồm ồm. Quán nuôi béc giê cho đúng mốt, cho vui thôi, bảo vệ ngôi nhà này là hai thanh niên gầy gò, lừ đừ chậm chạp, mắt long lên sòng sọc trên khuôn mặt nhò nhọ bẩn thỉu tái bủng thoạt nom cũng đã sợ rồi. Đúng là dân nghiện trăm phần trăm. Chỉ Quán mới có thể giải quyết nổi những vụ việc rắc rối khó khăn nhất trong việc xuất khẩu gỗ, xuất khẩu sắt vụn. Một đoàn người phóng xe máy ầm ầm vào sân xí nghiệp, dẫn đầu là một phụ nữ xinh đẹp, quần áo bó, hai tay áo xắn cao, bắp tay phải bị chém, vết sẹo mang hình cái lưỡi, nói cho dễ hiểu đó là một chữ V mà đầu nhọn là ở cổ tay, sát chiếc vòng ngọc, rồi xòe ra chạy lên bắp tay. Nhìn vết sẹo, người ta nghĩ đến ngay một nhát dao lóc vào thịt, sát xương róc ngược từ cổ tay lên khuỷu tay mà rùng mình. Khoác trên người cô là chiếc áo mút xơ lin hoa màu thẫm, mỏng tang tương phản với chiếc quần bò Levi’s mài bạc trắng hai đùi và phía sau mông. Tất cả bó chặt càng làm nổi thân hình chắc nịch của cô. Mặt đẹp, thân hình đẹp, quần áo đẹp, chiếc vòng ngọc bự, môi tím, móng tay nhuộm bạc, và vết sẹo được may rất khéo bám trên bắp tay trần, dấu tích của một trận thư hùng sống mái nào đấy, đẹp hơn mọi thứ trang sức cô đeo trên người, một thứ siêu trang sức, tất cả nói rằng cô là người của thời đại, không dễ gì bắt nạt, hơn thế, phải e dè kiêng nể. Cô xông vào phòng kinh doanh. Theo sau là một thanh niên lực lưỡng, vệ sĩ số một của cô, còn mấy thanh niên k