- VII -
Đó là lời xin của kẻ khó. Vì lịch sự, Toàn đỡ xếp giấy trong tay ông, giở ra xem qua: Trên tờ giấy khổ A4 kẹp đè lên xếp pơ luya đã đánh máy là dòng chữ viết tay nắn nót:
Kính gửi Thủ Trưởng Chánh Văn Phòng.
Vì sự phồn vinh của Tổ Quốc, đề nghị Thủ Trưởng cho photocopy làm hai bản.
Kính.
Nguyễn Tiến Đạt.
Toàn phải giải thích cho khách biết anh không có quyền đưa photocopy mà phải chờ Điều.
Sang đến ngày thứ ba, Điều đã chán ông khách lắm. Điều bảo: Ông ta ăn một bữa cơm năm nghìn ở căng tin hết hơn một tiếng đồng hồ. Ngâm nga. Ngon quá. Mình thì giờ đâu mà thù tiếp ông ấy thế được. Chiều, căng tin không nấu. Đưa năm nghìn để cụ tự lo bữa chiều. Cụ tươi tỉnh hẳn lên. Thế là không ngủ nhà khách nữa. Về nhà người quen ngủ và ăn bữa chiều.
Buổi sáng hôm ấy vừa đi cơ sở về, trong lúc chờ kẻng tan tầm, ông Đạt hỏi Điều với vẻ mặt của một người năng động, rất am hiểu thời cuộc, một người đi đầu trong tư duy mới:
- Báo cáo thủ trưởng, em hỏi thủ trưởng là ta có cái hội trường nào hai trăm chỗ ngồi không nhỉ. Em có sáng kiến này.
- Chúng tôi có cái hội trường bảy trăm chỗ cơ. Nhưng nay đã rỡ hết bàn ghế đi rồi.
- Tưởng còn em sẽ tổ chức cho xí nghiệp một buổi biểu diễn ca nhạc. Mời hẳn các danh ca thành phố xuống phục vụ tại chỗ.
Giọng ông ngân nga khi bộc lộ những ý nghĩ tuyệt vời ấy. Điều gần như thở hắt ra:
- Ối giời ơi! Công nhân chúng tôi đến Thanh Hoa, Nhã Phương ra hát nó còn hét: Vào đi! Vào đi! kia kìa.
Không nản, ông Đạt lại tiếp tục gợi sang một ý khác:
- Các anh có phòng tiếp khách nước ngoài không nhỉ. Phòng ấy phải trang trí nội thất cẩn thận. Chỗ đàm phán trang trí khác. Chỗ ký kết trang trí khác.
Điều chỉ tay vào một ngôi nhà đang được đập ra, xây lại:
- Chúng tôi đang làm cái nhà kia. Tiếp khách nước ngoài ở đấy.
- Tưởng làm rồi, ông anh em làm nội thất cho. Ông ấy làm cái phù điêu gò đồng ở bệnh viện thành phố đấy.
Ông không ngờ người làm cái phù điêu gò đồng ở bệnh viện lại là bạn của Điều. Điều hỏi:
- Ông ấy tên là gì?
- Ông Bắc. Xuân Bắc.
Điều lạnh tanh:
- Tôi tưởng ông Thọ. Họa sĩ Nguyễn Thọ.
Sau buổi trò chuyện ấy, Điều luôn miệng kêu dởm, dởm. Và có một quyết định tuyệt vời: Cử Cảnh đi tháp tùng nhà khoa học. (Cũng là làm vắng mặt sếp thôi.
Sếp chánh vào thành phố Hồ Chí Minh công tác một tuần lễ).
Không thể diễn đạt được niềm vui, vẻ thỏa mãn, sự sang trọng và nghiêm túc của Cảnh. Để xứng đáng với những ngày lên tới đỉnh vinh quang, Cảnh diện bộ đồ sang trọng nhất, cũng những thứ từ hồi bao cấp, rất hợp với y phục ông khách. Áo bông xanh còn tươm, quần pho tả(V>, dép nhựa Tiền Phong trắng có quai hậu. Cả hai đều cũ kỹ lạc điệu, xanh xao má hóp trang trọng đi cạnh nhau. Chưa bao giờ Cảnh tươi tỉnh như thế. Tươi tỉnh từ nét mặt, từ dáng đi, từ cách vung tay. Hớn hở, rạng rỡ, nhìn đời khinh khỉnh, Cảnh hoàn toàn là một nhà khoa học. Qua cổng bảo vệ, qua nhà gửi xe, đến nhà cân, qua vườn hoa có hai hình thoi trồng cỏ màu cả rản, bước vào sân, cái sân láng xi măng phủ những mảnh đất nâu mỏng cong như bánh đa, dấu vết của triều cường, tới bậc tam cấp, vào văn phòng, họ ngồi ngả người trên xa lông, vẻ mệt mỏi vì làm việc trí óc căng thẳng. Chủ khách đối diện. Cảnh pha nước và rút từ trong túi áo bông ra bao Vinataba, tiêu chuẩn Cảnh được nhận để tiếp khách hằng ngay. Chủ khách hút thuốc và nâng chén sụp soạp. Ông Đạt nói về tình hình khai thác tôm và thị trường tiêu thụ tôm trên thế giới. Cảnh kéo ông ta ra xem bản thiết kế câu lạc bộ thủy thủ không bao giờ được xây dựng treo trên tường. Vốn con nhà xây dựng, Cảnh thuyết trình rất say sưa. Ông khách vẻ khinh bỉ ra mặt: [1]
[1] Vải ốc pho màu cứt ngựa, dùng để may quân phục cho sĩ quan cấp tá.
- Lạc hậu. Lạc hậu mất mười năm.
- Lẽ ra phải đấu thầu. Thiết kế cũng phải đấu thầu. Xây dựng cũng phải đấu thầu.
Hai người lại ra xa lông. Cảnh nói về cái máy gọi tôm của Nhật, gọi tất cả tôm về biển Nhật Bản khiến mình hết cả tôm. Khách rất tâm đắc điều ấy và đang định thuyết trình về một chương quan trọng trong luận án nhằm đối phó với tình trạng suy kiệt môi trường là phát triển tôm nuôi, một việc các địa phương đã làm gần chục năm nay, nhưng chủ lại chuyển sang một đề tài khác: T ính vĩnh cửu của bê tông kết hợp với tăng nhanh nguồn thủy sản xuất khẩu:
- Qua thực tế nhổ cỏ, vất cỏ xuống rãnh sẽ có tác dụng tốt.
Và lại lấy tay chấm vào nước trong chén như thói quen vẫn làm bao năm nay, vẽ trên mặt bàn nước, vừa vẽ vừa thuyết trình:
- Đây là mặt cắt của rãnh. Ớ đây có bùn, nước mưa, nước thải. Rãnh này sau một thời gian sẽ sinh ra lươn. Một năm cứ một trăm mét sẽ thu hoạh năm mươi ki lô lươn. Và sẽ nảy sinh một vấn đề tất yếu quan trọng khác: Tính vĩnh cửu của bê tông. Bê tông được ngâm nước là vĩnh cửu.
Ông khách reo lên:
- Thật tuyệt! Nếu tất cả các cống rãnh đều được nuôi lươn, chúng ta sẽ có một nguồn xuất khẩu khổng lồ! Một ý nghĩ táo bạo cần được phổ biến rộng rãi.
Mặt Cảnh dãn ra. Hai chân rung tít, châm một điếu Vina, Cảnh phát một câu mang tính triết học:
- Đúng! Không cái gì là của riêng ai. Mô da đã nói như vậy.
Ngồi ở bàn đọc báo theo dõi câu chuyện, Toàn vội bước nhanh ra ngoài, vào phòng văn thư để xả một trận cười. Ớ đó gặp Vân. Vân đang đóng dấu vào sổ một công văn gửi lên Bộ Thương mại. Toàn bảo:
- Này. Ông Đạt đang làm luận án về đề tài xuất khẩu tôm đấy.
Vân vẻ nghiêm túc:
- Luận văn của ông ấy em đọc rồi. Ông ấy định kéo giá tôm toàn thế giới xuống. Kéo làm sao được khi sản lượng tôm xuất khẩu của nước ta đối với thế giới chưa đến một phần trăm.
Những ngày oanh liệt nhất trong cuộc đời Cảnh nhanh chóng qua đi. Ông khách đã về Hà Nội, khẩn trương chuẩn bị cho buổi bảo vệ luận án trước hội đồng khoa học. Toàn cũng đã xác định: Không về hưu. Dù khó khăn gian khổ chán ngán đến đâu cũng cứ đi làm. Bây giờ khối người dôi dư. Chẳng riêng gì mình. Về hưu thu nhập giảm trăm ngàn mỗi tháng ngay. Lấy gì bù vào. Cứ đi làm. Bao giờ các ông ấy bảo về thì về. Cứ nhẫn nhục. Ai chửi cũng mặc. Hãy xác định mình là con sâu cái kiến. Bây giờ Toàn ít tụ bạ (chữ của cô Phòng) bên thư viện, sợ sếp bắt gặp. Sếp sẽ để ý. Phải cẩn thận. Thế nhưng sếp không chú ý tới Toàn mà lại hướng mũi dùi vào Cảnh.
Hôm ấy sếp Thắng chuẩn bị đi Hà Nội (Toàn cũng như nhiều người khác chỉ mong sếp đi công tác vắng thôi). Đã vào phòng phó tổng thứ nhất dặn dò công việc, đã ghé vào phòng tài vụ lấy tiền, ô tô đã đỗ ngay ở sân chỗ đặt bảng tin, từ phòng tài vụ sếp đã bước qua hành lang ra sân, ai cũng tưởng sếp lên xe, nào ngờ đâu sếp quặt lại văn phòng, mặt hầm hầm giận dữ:
- Ông Điều! Ông Nhương! Thằng Cảnh phải cho nó nghỉ! Không thể thương được thằng này!
Tiếng quát ầm ầm. Tất cả khu vực phòng ban im phăng phắc.
- Tệ hại! Tệ hại! Cái thằng...! Không chịu làm một việc gì hết! Bảo nó nhổ cỏ nó không làm.
Ông chỉ tay vào Cảnh đang thập thò ở cửa phòng văn thư. Thì ra sếp quay lại chỉ vì trông thấy nó đứng đó.
- Mày làm thế có xứng đáng với đồng lương của mày không?
- Thằng này không thể xài được. Mình thương nó, nó có thương mình đâu. Không thể hiểu được thằng này ra làm sao nữa. Cứ ngồi chơi ở phòng đọc sách.
- Ông Điều! Ông Nhương! Cho nó nghỉ từ ngày mai! Tôi không thể nhìn được mặt nó! Ngày mai nếu nó còn đi làm thì hai ông nghỉ!
- Không làm cái gì cả. Mà lương gần bằng lương ông này (sếp chỉ vào Toàn làm Toàn cũng thấy mát ruột). Có bất công không? Mình làm chết cha đi. Lo ngày lo đêm. Tôi hỏi nó: Mày làm thế có xứng đáng đồng lương mày lĩnh không?
- Cho nó nghỉ từ ngày mai! Ngày mai tôi đến đây là phải không trông thấy nó nữa!
Sếp đi. Cảnh cũng biến. Nhưng lại có Mẫn từ thư viện sang. Mẫn cười:
- Em sợ quá. Ông ấy vào thư viện xách cổ thằng Cảnh ra, túm áo xoắn tai. Như con chó. Ông ấy bảo nó nhổ chỗ cỏ trước cửa nhà ông ấy. Suốt ngày nó không nhổ được một tí.
Buổi chiều lĩnh lương. Không thấy mặt Cảnh đâu. “Công tử Nhương”, phó văn phòng nói:
- Thôi để sáng mai nó đến, truyền đạt ý kiến của sếp với nó.
Sáng hôm sau Cảnh đến. Cô Phòng phát tiền lương và động viên Cảnh:
- Thôi em ạ. Đi làm mười ba ngày mà được lương nửa tháng là tốt rồi.
Cảnh trầm ngâm:
- Vấn đề cũng khá nan giải đây.
Đó cũng là câu nói nổi tiếng của Cảnh. Như câu “dù sao trái đất cũng cứ quay” vậy.
Nhận tiền lương rồi, Cảnh vẫn cứ lờ vờ ở xí nghiệp. Mấy anh chàng “giặc lái” hỏi:
- Sao không về nhà, còn ở đây làm gì?
Cảnh đáp thản nhiên:
- Đã hết giờ đâu mà về.
Nói rồi đi ra ngồi dưới gốc cây cột điện. Và lạ là sáng hôm sau Cảnh vẫn đến. Rồi những hôm sau nữa. Đúng giờ. Như mọi cán bộ công nhân viên khác. Chỉ không xách phích ra căng tin lấy nước như mọi khi. Cũng không vào phòng làm việc. Không ra bãi cỏ. Bóng Cảnh gầy nhỏ, quần áo xám bạc xộc xệch khi ẩn khi hiện lúc ở cầu cảng, lúc ở nhà gửi xe, khi ngồi im lìm dưới gốc cây ba giăng cổ thụ trồng từ ngày thành lập xí nghiệp, gốc đã mục ruỗng.
Đến kẻng tan tầm, người ta thấy Cảnh trong đám cán bộ công nhân viên đạp xe đăm chiêu mệt mỏi ra về.
Rút kinh nghiệm Cảnh, Toàn tìm mọi cách tránh mặt sếp. Có lúc nào lỉnh được Toàn hay ra cuối cầu cảng ngồi. Chỗ ấy có một cây phi lao to gãy ngọn, cành lá tỏa rất mát. Ngồi đấy lại còn kín nữa. Gần như không bao giờ sếp đi tới. Ngồi đấy nhìn ra sông, tàu thuyền xuôi ngược, hải âu bay... Khi nước xuống bãi phù sa hiện ra thì vui mắt hơn. Những con cáy chạy lăng xăng, chui ra chui vào lỗ. Những con cá lác vùi mình trong phù sa, đột nhiên nhảy lên, phóng những bước nhảy dài theo hình ngoằn ngoèo.
Một lần đang mải mê ngắm những sinh vật bé bỏng ấy hoạt động, Toàn thấy một người đi đến chỗ mình: Cảnh quần áo bẩn thỉu, chân tay mặt mũi lem luốc, ngồi xuống cạnh Toàn, thở dài:
- Thư cháu gửi chắc bây giờ đến nơi rồi đây.
- Cháu làm đơn gửi sếp à?
Lại một tiếng thở dài nữa:
- Không.
Toàn nhớ rằng chưa bao giờ Cảnh thở dài ở xí nghiệp. Anh quay lại nhìn Cảnh. Lần đầu tiên anh thấy vẻ mặt Cảnh như vậy. Một khuôn mặt chùng hẳn lại. Tất cả sự căng thẳng hàng ngày biến đâu hết. Một khuôn mặt chảy ra chùng xuống như sụp đổ. Trên khuôn mặt lạ lẫm ấy, một nỗi đau khổ đến tột cùng hiện ra, nỗi đau đớn không có cơ cứu vãn làm Toàn hoảng sợ. Anh bỗng thấy Cảnh khác hẳn mọi ngày, gần gũi và đáng thương lạ lùng.
- Thư gửi cho ai?
- Gửi bố cháu. Cháu đem ra bưu điện gửi tối hôm qua. Chắc bây giờ đến nơi rồi. Bố cháu nhận được rồi.
Thật không còn hiểu ra sao nữa, nhưng nhìn vẻ mặt Cảnh, Toàn biết không phải chuyện điên dại mọi ngày, hẳn là một việc rất nghiêm trọng mà anh không dám hỏi.
- Không có cách nào khác, cháu phải viết thư cho bố cháu... Vợ cháu bảo cháu nói với bố cháu tiện hơn. Nhưng suy đi nghĩ lại, cháu thấy viết thư là tốt nhất, nói được đầy đủ ý mình. Thế này chú ạ. Vợ cháu ở nhà, ngoài việc trông nom cửa hàng còn cơm nước, giặt dũ, phục vụ bố cháu. Con cháu đi học, ở nhà chỉ có hai bố con. Mùa rét vừa qua, bố cháu tắm, lần nào cũng gọi vợ cháu đem thêm nước nóng vào buồng tắm cho bố cháu, lại còn bắt kỳ lưng nữa. Vợ cháu cũng không dám nói gì, không dám nói cả với cháu. Nó giấu cháu, sợ cháu làm lôi thôi. Thế rồi đến tối hôm kia. Nó mắc màn cho bố cháu. Hôm ấy lại mất điện. Bố cháu bảo nó cầm đèn dầu soi bắt muỗi trong màn. Bố cháu cũng lấy tay bắt muỗi, không biết vỗ vỗ thế nào, ôm lấy vợ cháu. Nó giằng ra, đổ cả đèn. Rồi nó xuống nhà dưới chỗ chúng cháu ngủ, nằm khóc. Hỏi mãi nó mới nói. Bực quá chú ạ. Chỉ có chú, cháu mới nói. Nó bảo cháu: “Anh nói với bố tiện hơn”. Viết thư tốt hơn chứ chú nhỉ?
Toàn hỏi:
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu vào thành phố Hồ Chí Minh với em gái cháu lấy chồng ở trong ấy gần một năm nay rồi.
Im lặng. Một lúc sau lại Cảnh:
- Bây giờ có lẽ bố cháu đã đọc thư rồi đây.
Giọng Cảnh bồn chồn. Chẳng biết nói gì, Toàn nắm chặt bàn tay Cảnh đang run rẩy. Sắp tan tầm chiều rồi. Sắp qua được một ngày rồi. Nước xuống kiệt. Những con cáy vẫn lăng xăng. Những con cá lác vẫn vùi mình trong phù sa thỉnh thoảng lại nhảy lên phóng những bước nhảy dài.
VĨ THANHSự kiện biển khơi và chim bói cá
Đó là đầu đề tập nhật ký theo bố đi đánh tôm khi học hết cấp hai của một chàng trai bạn với con tôi tên là Phong, Ngô Xuân Phong. Cập kè với Phong và con tôi còn có một thanh niên khác: Lê Chí Sỹ. Đó là những thanh niên thời @ chính hiệu: xe máy SH, mỗi người sử dụng vài chiếc điện thoại di động, chiếc dùng cho công việc, chiếc dành cho những người thân, chiếc chỉ vài người thật thân thiết mới biết số, đồng hồ Thụy Sĩ, giày da Ý, còn quần áo lại rất bình thường. Con tôi nhiều bạn, nhưng thân nhất là Phong và Sỹ. Trong bộ ba Tướng, Sỹ, Tượng (còn gọi là Lưu, Quan, Trương) ấy, con tôi lớn tuổi nhất còn Sỹ là người trẻ nhất bọn. Chúng đến nhà tôi, chuỵên với nhau về những đề tài làm ăn, về những tài sản khổng lồ của các ông to bà lớn nào đó, về những bữa nhậu, về công việc sắp tới, về những ngôi sao bóng đá, những lô đất ở Sóc Sơn, Tam Đảo, những tỉ phú còn giấu mặt, những ngôi sao âm nhạc thời thượng, những bộ phim, những đạo diễn và những diễn viên đoạt giải Oscar... Tôi nhìn chúng như nhìn một thế hệ mình không sao hiểu nổi, như khi nhìn những vi mạch, những phần mềm, bộ vi xử lý trong máy tính điện tử vậy. Thế rồi một hôm Phong cầm đến nhà đưa tôi tờ báo có in một truyện ngắn kèm theo ảnh của tôi:
- Bác là nhà văn hở bác? Thế mà thằng Tùng không nói gì với chúng cháu cả.
Thằng con tôi chỉ cười. Tùng biết chẳng vinh dự gì khi có bố là nhà văn, càng không muốn nói về bố với bạn bè khi bố đã mấy năm trong vòng lao lý. Nhưng ngược lại, việc ấy đối với Phong và Sỹ như một sự phát hiện, hai người tỏ ra rất quý mến tôi, càng quý khi tôi cho họ biết những gì tôi đã trải qua. Câu chuyện chuyển sang những vấn đề văn học, họ muốn biết sự đánh giá của tôi về những tập sách này nọ, về những tác giả già trẻ, về những nhà thơ... Té ra họ khá quan tâm đến văn chương, nghệ thuật. Phong nói:
- Thầy dạy toán của cháu một hôm nói với bọn cháu về một truyện ngắn của Nam Cao và kết luận: Anh chồng đọc nhiều sách văn học mới hiểu được vẻ đẹp của ánh trăng, còn với chị vợ, ánh trăng chỉ là để tiết kiệm được mấy xu dầu.
Và nhấn mạnh:
- Đấy là thầy dạy toán nói đấy bác ạ.
Tôi nghe mà mát lòng mát ruột cho các nhà văn và cảm ơn ông thày dạy toán nào đó của Phong. Thế rồi một hôm Phong, Sỹ lại cùng con tôi tới nhà tôi. Rất hào hứng, cởi mở, Phong trao cho tôi một quyển vở học sinh:
- Cháu ghi chép lâu lắm rồi. Vất đi thì phí. Cháu vừa soạn lại giấy tờ sổ sách, đọc lại thấy đường được. Cháu đưa bác xem có dùng vào việc gì không.
Tôi đọc. Đọc đi đọc lại. Xúc động trước một tâm hồn non trẻ đang mở ra với thế giới, với biển cả, những bài học vỡ lòng về cuộc sống, về con người. Một tâm hồn trong veo, một đôi mắt vạn hoa trước cuộc đời nhuốm bẩn. Chẳng có chút liên hệ nào giữa cậu bé học sinh ngày ấy với chàng trai cao lớn, điện thoại di động có trong các túi, đi xe SH hôm nay. Lại càng xúc động bởi Liên hợp Biển Đông với tôi cũng đã có những kỷ niệm, nơi lâu lắm rồi tôi đã đến làm việc để quay một cuộn phim tài liệu về những người đánh cá biển, đã đi theo các tàu tới Bạch Long Vĩ, đã vào tận Hòn Khoai và cũng biết một số người. Tôi bảo con tôi chuẩn bị một bữa rượu ở nhà, mời Phong, Sỹ đến nhưng con tôi gạt đi:
- Ra tiệm thôi bố ạ.
- Không. Bố muốn nói về tập nhật ký của Phong cơ mà. Ở nhà thoải mái hơn.
- Khách sạn cũng tự do thoải mái thôi bố ạ. Một phòng riêng cho bố con mình với chúng nó. Muốn ngồi đến bao giờ thì ngồi.
Chúng tôi đến khách sạn. Một khách sạn mười tầng hiện đại. Khi thang máy đưa bố con tôi lên tầng 9, một cô gái mặc đồng phục khách sạn đã đứng chờ ở cửa thang máy, đưa chúng tôi vào một buồng nhỏ, có cửa sổ mở rộng nhìn thẳng ra một khoảng trời mênh mông, Phong và Sỹ đã ngồi chờ sẵn, đứng dậy chào tôi. Tiệc rượu được bày lên bàn rất nhanh. Cửa đóng kín. Cô phục vụ bắc ghế ngồi bên ngoài cửa chờ lệnh. Rượu
John xanh đã rót. Chúng tôi chạm cốc. Ăn xong bát xúp khai vị, tôi bảo Phong:
- Cháu đi viết văn được đấy.
Phong cười thành thật:
- Cháu cám ơn bác. Nhưng nghề của các bác cháu sợ lắm. Nghèo mà chẳng được tích sự gì. Có khi còn nguy hiểm nữa. Như bác đấy.
- Bây giờ cháu làm gì? Thuyền trưởng hay đại phó?
Anh ta ngượng nghịu, không trả lời. Thằng con tôi bảo:
- Nó làm hải quan. Cả thằng này nữa - Con tôi chỉ vào Sỹ - nó cũng làm hải quan, quân của Phong.
Tôi ngạc nhiên:
- Không đi lái tàu mà lại đi khám tàu à? Thời đi học thích hàng hải thế cơ mà.
- Một thời mơ mộng bác ơi. May mà cháu tỉnh ngay khi chọn trường thi đại học. Đấy, bác xem nghề đánh cá của bố cháu có ra làm sao đâu.
Con tôi đóng vai người phản bác:
- Ông cứ nói thế' chứ. Ông Huy đấy. Khách sạn Huy Hoa mười một tầng bên kia đường kia kìa. Ông ấy còn một khách sạn nữa ở Hà Nội đấy. Cũng mười tầng chứ có xoàng đâu. Quận Hoàn Kiếm đàng hoàng.
- Cả xí nghiệp mới có một ông Huy. Có hai ông Huy đâu.
Sỹ bỗng lên tiếng:
- Bố cháu tai nạn vì nghề đánh cá đấy.
Tôi hỏi:
- Bố cháu cũng đi đánh cá à?
- Bố nó là ông Lê Mây, thuyền trưởng số một của Liên hợp Biển Đông.
Trí nhớ mụ mẫm của tôi vụt loé sáng:
- Có phải bố cháu là thuyền trưởng tàu VT250 không?
Sỹ ngạc nhiên:
- Sao bác biết?
Chuyến đi Bạch Long Vĩ làm phim cùng ông lập tức hiện về từng chi tiết. Biển nhuộm một màu hoàng hôn đỏ. Chúng tôi yêu cầu Lê Mây quay đuôi tàu về phía Tây, nơi mặt trời sắp lặn. Đụt cá phồng căng vừa cẩu lên lơ lửng trút nước ào ào. Ánh mặt trời buổi chiều tà sáng rực viền quanh đụt cá, anh thủy thủ giật dây thắt đụt, hàng tấn cá xổ ra trên boong giãy dụa. Lê Mây bước đến gần sàn dốc, cúi xuống lấy ngón tay miết vào tấm lưới xanh dính bùn đất. Rồi Lê Mây tác nghiệp hải đồ, tính toán. Và Lê Mây đứng ở mũi tàu khi biển động. Đó là cảnh quay đẹp nhất trong phim: Bóng dáng Lê Mây ngược sáng như một bức tượng đồng bất động giữa khuôn hình. Lúc những đám mây trên trời vần vụ chạy thẳng xuống, biến mất dưới chân ông, lúc biển nghiêng hẳn dâng cao đẩy bầu trời xô lệch. Tiếp đến là một đặc tả khuôn mặt ông sạm nắng gió và muối mặn, vuông vức, râu ria, mắt dữ dội nhìn thẳng trên một nền trời biển điên đảo phía sau. Và đây Lê Mây đang đứng trước boong lái, giữa trời xanh. Biển lặng trải tới chân trời. Ông thanh thản ngửa cổ đưa chai rượu lên cao...
- Bố cháu khỏe không? Tôi hỏi Lê Chí Sỹ.
- Bố cháu mất lâu rồi bác ạ. Hơn chục năm rồi. Bác có biết bác Đặng Việt, chú Thích không? Chết cả rồi. Lớp thuyền trưởng
với bố cháu ngày ấy chỉ còn vài người trong đó có bác Đáng bố anh Phong đây.
- Tại ông già em uống rượu nhiều quá. Phong bảo.
- Là thế nhưng cũng không phải thế. Khi còn đi đánh cá ông già cháu đã uống nhiều rượu. Đến lúc đi tàu nước ngoài, trắng tay, nợ đìa ra, lên bờ lại càng uống dữ. Trở về đánh cá không ăn thua, khi các tàu sắp giải bản bán sắt vụn, ông già cháu tính nước về hưu trước tuổi, được mấy chục triệu đem giả vẫn chưa hết nợ. Từ bấy ông già cháu suốt ngày rượu. Trước còn lang thang các quán, uống với người nọ người kia, hôm nay người ta trả, hôm khác mình trả, sau thấy tốn quá, quay ra uống ở nhà. Ngày nào cháu cũng phải đạp xe đi mua rượu cho bố cháu. Lúc nào bố cháu cũng say. Say rồi cứ một mình trên giường lẩm nhẩm những gì không ai biết. Cũng có khi bắc ghế ra sân ngồi im lặng suốt buổi. Đặc biệt bố cháu không thở dài bao giờ. Không làm gì cũng không đi đến đâu nữa. Tất cả lương hưu vào rượu hết. Chỉ khổ mẹ cháu. Hưu mà có được nghỉ đâu. Chần lưng ra làm. Lau nhà, dọn dẹp cho các gia đình người ta thuê. Làm theo giờ. Sáng sớm đã xách xe đi, trưa về mang theo mớ rau con cá lao vào bếp. Cháu với anh Dũng còn đi học. Bố cháu không động chân tay. Rửa nắm rau cũng không. Nhóm cái lò cũng không. Chỉ rượu. Ăn cơm xong mẹ cháu lại đạp xe đi, tối mịt mới về. Buổi tối nào có được nghỉ. Buông bát buông đũa, mẹ cháu xách can bia, con mực khô, chai chíu chương, mấy cái cốc ra ngồi ở Ngã Năm đến nửa đêm, lấy tiền nuôi hai con ăn học. Cháu cằn nhằn bố cháu với mẹ cháu thì mẹ cháu gạt đi: "Bố con khổ quá, mẹ thương lắm. Các con hãy thương lấy bố". Có một lần bố cháu đưa mười nghìn bắt cháu đi mua rượu, ngày nào cũng rượu với rượu, điên lên, cháu chỉ mua năm nghìn, rồi pha nước lã vào cho đầy chai đem về đưa cho bố cháu. Vừa uống một hớp bố cháu biết ngay. Bố cháu gọi cháu, bắt đứng ở đầu giường lấy roi đánh. Đánh như đánh quân thù. Cả đấm, cả đá. Cháu hét lên: "Bố chết đi! Chết đi cho mẹ đỡ khổ!" Bố cháu điên lên, càng đánh khỏe. Thì bác tính năm ấy cháu mới có hơn mười tuổi. Ăn trận đòn của ông già, cháu không đứng dậy được, cứ nằm ở giường khóc. Sau trận ấy, bố cháu càng uống nhiều hơn. Uống từ sáng đến trưa. Từ trưa đến tối. Thế rồi bác ạ, tự nhiên bố cháu bỏ rượu. Lại đi chơi nhà này nhà khác. Rồi mua về một chiếc mâm nhôm mới tinh. Nhà cháu có mâm đâu. Cái mâm cũ rách quá phải lấy mấy miếng gỗ thông ghép lại làm mâm. Lại mua cho hai anh em cháu mỗi người một bộ quần áo, mua cho mẹ cháu cái khăn quàng, cái áo len. Cả nhà cháu đều mừng. Vui hẳn lên. Nhưng đấy là điềm báo trước sự ra đi của bố cháu. Một hôm bố cháu gọi cháu:
- Lê Chí Sỹ. Lại đây bố bảo.
Đã lâu lắm bố cháu mới gọi cháu bằng một giọng âu yếm như thế, gọi cả họ cả tên như thế. Như ngày cháu còn bé. Ngày ấy, mỗi khi đi biển về bố cháu lại cho cháu đến xí nghiệp, hai bố con nắm tay nhau đi dung dăng dung dẻ trong sân, ra cầu tàu, tới căng tin, ai gặp cũng hỏi bố cháu: "Thằng Lê Chí Sỹ đây phải không?" Bố cháu cũng gọi cháu là Lê Chí Sỹ. Cả những lúc nằm ngủ, bố cháu cũng ôm cháu gọi Lê Chí Sỹ. Hai bố con nằm võng đu đưa. Bố cháu dạy cháu hát: "Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc. Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa..." Bố cháu chỉ biết mỗi bài hát ấy. Chỉ dạy cháu mỗi bài ấy. Quanh đi quẩn lại mỗi bài Quốc ca thôi.
Cháu bước tới chỗ bố cháu. Bố cháu nắm tay cháu:
- Hôm nào bố với con về bà ngoại đi. Thăm mộ ông ngoại, xem bà ngoại có khỏe không. Bà ngoại già lắm rồi. Lâu lắm bố không gặp...
Mẹ cháu lúc ấy cũng có mặt, rơm rớm nước mắt. Nhưng bố cháu có về bà ngoại được đâu. Tối hôm ấy vẫn ăn uống bình thường, xem hết chương trình thời sự trên tivi, kêu nhức đầu rồi mắc màn đi ngủ và không dậy nữa. Đến lúc bố cháu chết cháu mới thấy thương bố cháu, mới thấy thế nào là một đứa mồ côi. Còn cha gót đỏ như son...
Câu chuyện thật buồn. Phong bảo:
- Không phải một mình ông già em đâu. Hình như cái nghề đi biển đánh cá không ai thọ lâu hay sao ấy. Ông Thích nhé, ông Đặng Việt nhé, ông Lê Uy, ông Trần Ngọc Châu nữa. Đều đi cả. Toàn trên dưới sáu mươi. Ông Quân còn sống nhưng tai biến mạch máu não, ăn đấy, ỉa đấy, liệt giường bao nhiêu năm nay muốn chết mà không chết được. Ông Đay khá hơn, làm lại được cái nhà ở quê. Như ông già anh thôi.
Phong quay lại tôi:
- Xí nghiệp bố cháu không còn cái tàu nào. Cả xí nghiệp lụn bại. Chỉ ông Thắng và mấy sếp trên bờ giàu. Thời đánh cá, thời đi tàu nước ngoài hết rồi. Cháu đã tổng kết. Mỗi giai đoạn có một ngành nghề lên ngôi bác ạ. Bắt đầu là nghề mậu dịch viên. Rồi nghề lái xe. Đến nghề Vosco tức là nghề đi tàu nước ngoài. Rồi nghề ếch (ex), tức là nghề xuất nhập khẩu. Bây giờ là thời của các sếp. Cháu chỉ làm một suất ăn theo thôi.
- Thế là đời bố đi làm đời con đốt sách. Đúng như lời ông thuyền trưởng nào đó đã nói.
- Bố cháu! Bố cháu nói vậy. Nét mặt Sĩ đã vui lên một chút.
- Rút kinh nghiệm các cụ, chúng cháu quyết không chịu nghèo. Nghèo đi với hèn bác ạ. Vấn đề là phải tỉnh.
... Tập nhật ký của Phong gợi cho tôi biết bao kỷ niệm thôi thúc tôi đạp xe xuống Liên hợp Biển Đông. Tất cả đã thay đổi, từ cầu cảng, nhà cửa, và nhất là những con người. Không một nét mặt quen, không một con tàu cá. Hơn ba chục con tàu với hàng vạn mã lực đã biến mất không để lại một dấu vết gì. Như những người đã từng một thời làm việc nơi đây, nói cười, vui sống, yêu ghét, giận hờn, mưu toan, dối trá, trung thực... đều không còn có mặt nơi đây.
Thấy tôi lụi cụi với tập nhật ký, con tôi bảo:
- Thằng Phong "được" lắm bố ạ. Có biệt thự rồi. Ba tầng. Mười buồng. Buồng nào cũng lát gỗ lim hẳn hoi. Nội thất thì thôi rồi. Mới mua một cái BMW. Lại còn gần nghìn mét đất ở Sóc Sơn nữa. Nó nói với con: Nhìn tấm gương các cụ đấy, phải tư duy mới thôi. Nếu không sẽ bị đào thải. Nó bảo phải tàn bạo. Muốn sống được phải tàn bạo. Làm việc với nó không mặc cả bằng miệng mà bằng máy tính. Bấm số. Giơ lên. Nó xem rồi lắc hay gật. Không nói một lời...
Viết trong những ngày xót thương con gái Giáng Hương
Ngã Sáu 2005-2007