- VI -
Ông Thắng đến nhà Đại Ca vào lúc 9 giờ tối. Khoảng thời gian khách đã van vãn (nhà Đại Ca tối nào cũng đông khách). Đinh ninh món quà độc này sẽ làm đại ca bất ngờ vui vẻ và nhất là tăng thêm tình thầy trò, một chút mỏng manh còn lại của nghi thức sẽ tan vụn, từ nay hai ta là một. Như Huy đã làm với ông vậy. Phố sấu um tùm, vắng vẻ. Xe dừng lại cách nhà Đại Ca một quãng khá xa để hai thầy trò, ông và lái xe đi tiểu. Vừa bước chân xuống xe, lên vỉa hè, định đi vào sát tường, nơi có bóng tối của các cây cổ thụ ven đường và nhất là các cây leo xòe ra trên tường các ngôi biệt thự có cắm những cọc sắt nhọn hoắt “làm việc giải thoát cho cái bong bóng” thì giật thót, rụt lại. Hai người, một đàn ông, một đàn bà ăn mặc quê mùa, bụi bậm bật dậy từ vạt cỏ ngay trước mặt:
- Hai ông ơi! Nhà các ông to ở đâu. Hai ông làm ơn...
Vẫn còn kịp nhận ra những nét đau đớn mệt mỏi
trên mặt họ. Chưa kịp trả lời thì đã rùng rùng những người xuất hiện từ bóng tối sát tường bao những ngôi biệt thự dọc phố như những âm binh. Ông Thắng lắc đầu quầy quậy:
- Tôi không biết. Tôi cũng là khách đến đây. Đang hỏi thăm.
Ông biết đấy là những người dân từ các tỉnh cơm đùm cơm gói kéo nhau lên Hà Nội ăn chực nằm chờ, vạ vật vỉa hè quán chợ đưa đơn khiếu kiện. Nín đái, hai người bước vội lên xe ô tô phóng thẳng đến nhà Đại Ca, ngoặt lên vỉa hè dừng trước hai cánh cửa sắt đóng im ỉm. Người lính từ bốt gác bước ra, thấy ông Thắng ló sau cửa xe, nhận ra người quen, anh ta gật đầu, ấn nút chuông trên trụ cổng.
Cửa mở. Xe từ từ lăn bánh trên những hòn sỏi nhỏ rào rạo của khuôn viên ngôi biệt thự và dừng cạnh hai chiếc xe ô tô khác.
Đại Ca thân ra tiền sảnh đón khách. Bước vào phòng khách, ông Thắng ngạc nhiên khi thấy Quán Mèo và một người nữa. Ông phó giám đốc công an thành phố Hải Triều! Bố thằng Khương thủy thủ tàu 19. Người đã nhiều lần ông tiếp xúc và đang ầm lên khắp thành phố là sẽ bị khởi tố về chuyện bảo lãnh cho một đường dây buôn ma túy. Báo đã đưa tin. Rồi chính một trưởng phòng thuộc sở công an cũng nói với ông như vậy. Rằng nếu ông giám đốc công an thành phố về hưu thì hồ sơ Trần Thạc được giở ra ngay. Còn nói chắc như đinh đóng cột:
- Sẽ xử Trần Thạc. Nhưng chầm chậm mới xử. Để tách ra khỏi vụ Xuân Trường cho khỏi ầm ĩ.
Câu chuyện giữa chủ và khách, giữa khách và khách gượng gạo. Ông Thắng hiểu ngay sự có mặt của mình là không đúng lúc. Ông biết Đại Ca đang dở dang công việc. Nhìn thái độ tự tin của Quán, ông hiểu giờ đây trong quan hệ với Đại Ca, Quán Mèo đã đứng trước ông, sát gần Đại Ca hơn ông, cái thằng ông vẫn khinh bỉ cứt chó bón vườn hành ấy; còn ông chỉ là kẻ đứng ngoài rìa. Nhưng sao lại là Quán Mèo? Sao lại là Trần Thạc? Ông lờ mờ hiểu. Và biết mình phải làm gì.
- Thủ trưởng cứ tiếp khách đi. Em vào trong này xem con chó Rockefeller [1] của thủ trưởng mới mua. Tí nữa em ra.
Không biết là giống chó gì. Cứ nói đại là Rockefeller như nghe Đại Ca trong điện thoại. Tháng trước, ông điện hỏi Đại Ca có muốn nuôi chó cảnh không thì được Đại Ca trả lời là anh em trong thành phố Hồ Chí Minh vừa gửi ra cho con chó Rockefeller nặng tám mươi ki lô, cái giống này ăn khỏe lắm, mỗi ngày cân thịt, giá những bốn nghìn đô, nhưng một mình nó bằng cả một tiểu đội bảo vệ, giống chó này xé xác cả trẻ con, người lớn, đêm thả ra là cực yên tâm... May mà nghĩ ra con chó ấy để lánh đi. Suốt lúc ngắm con chó như con bê trong chuồng rồi vẩn vơ ngoài vườn nhìn cây cối um tùm, ông suy nghĩ và đã lý giải được sự có mặt của Quán và Thạc.
Suy luận được thời gian chứng minh là đúng khi Quán xây cái biệt thự lớn ngay tại quê, sát con đường liên tỉnh mới mở. Có cả ga ra ô tô. Có bốn toa lét. Có cả máy fax. Có cả máy lạnh, máy phun sương. Và Trần Thạc sau một thời gian bị đình chỉ công tác lại được giữ nguyên chức vụ cũ dù phải chuyển từ thủ trưởng cơ quan điều tra sang thủ trưởng cảnh sát hình sự.
Suy luận càng được củng cố khi Cứt chó bón vườn hành nói với ông vừa đi dự khánh thành hai khách sạn mười tầng của Thạc, một chiếc ở Hà Nội, một ở Quảng Ninh. Rồi một hôm giáp Tết, Quán bảo ông:
- Sáng mai cả gia đình Đại Ca về nhà em ăn cơm với vợ chồng em đấy. Sếp sang nhà em nhé. Chỉ có ba anh em mình thôi. Em hỏi Đại Ca có mời mấy ông thành phố không thì Đại Ca bảo không. Đại Ca bảo chỉ mời một mình sếp thôi.
Ông Hoàng Quốc Thắng nhìn Quán từ đầu đến chân như nhìn một con cóc bỗng biến thành hoàng tử. Ông biết giờ đây, Quán là người ông phải nể sợ, phải coi chừng kể cả phải nhờ vả. Quán không còn là Quán vẫn “kính biếu” ông như trước nữa. Hiểu được cái nhìn của tổng giám đốc, mặt tỉnh bơ, Quán tiếp:
- Mai sếp đến nhé. Khoảng mười giờ. Nhà em dưới quê chứ không phải ở khu Bãi Cát đâu.
Ông tin. Bây giờ ông tin ngày mai Đại Ca sẽ về nhà Quán. Ông hiểu cái sợi dây tình thâm thắt chặt giữa Đại Ca và Quán là sợi dây gì. Những ngày giáp tết thế này là những ngày gặt hái. Đại Ca bỏ hẳn một ngày gặt hái để xuống đây với Quán. Một ngày gặt hái của Đại Ca đâu phải là một ngày gặt hái bình thường? Xuống Hải Triều nhưng không gặp bất kỳ một chức sắc nào trong thành phố. Ông nghĩ đến Trần Thạc. Đến Quán. Đến chuyện bất kỳ xe ô tô nào chạy trên đương 5 bị giữ cứ nói là đàn em của Quán là xong hết. Đến chuyện Trần Thạc vẫn vững như bàn thạch, dù báo đã đăng tin, dù đã có lúc bị đình chỉ công tác. Rồi nghĩ đến tình thân của Đại Ca với Quán vượt cả tình thân với ông. Giờ thì ông khẳng định những suy luận của mình là đúng. Chỉ không hiểu Quán quen Đại Ca từ khi nào. Làm thế nào
Quán quen Đại Ca? Những người như Quán thật đáng kính nể và đáng sợ. Muốn là được. Dù khó khăn đến thế nào chăng nữa.
Khi tổng giám đốc giao cho các tàu tự tìm hàng đi hàng về, tự kinh doanh tự trang trải, ai nấy đều biết xí nghiệp sắp đến hồi kết rồi. Tất nhiên là khó khăn hơn nhưng anh em thuyền viên đều biết mình phải làm gì để vượt qua khó khăn ấy. Và càng phải khẩn trương vì thời gian đâu có đợi. Dễ thôi. Đó là việc bóc lột con tàu, bắt con tàu phải làm việc đến rã rời thân xác, vắt kiệt nó, hạn chế thấp nhất việc sửa chữa. Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy, được chuyến nào biết chuyến ấy, nay ở mai lên, hơi đâu tính chuyện lâu dài. Dăm mười tấn hàng cũng tách bến đi. Có khi đi tàu không. Đem tiền, đem đô la đi. Mua hàng từ Nhật về bán ở Hong Kong. Mua hàng từ Nhật về Việt Nam. Muốn có lãi sau khi trừ các khoản chi phí cống nộp phải là hàng cấm, hàng lậu thuế. Lại được lựa chọn cập cảng nào ngon nhất, không bắt buộc phải về một cảng nhất định nếu không có hàng về. Tổng giám đốc không phải không biết điều ấy. Nhưng đây là tình huống bất khả kháng, chẳng còn cách nào khác, ông tự nhủ. Với lại chỉ còn năm, hơn năm nữa thôi là ông đến tuổi hưu. Sẽ có người khác lo. Lại còn điều này: Các tàu đông lạnh đều sắp đến ngày giải bản cả rồi! Hơn nữa cả nước này như thế, đâu phải mình ông.
Chuyến đầu tiên thực hiện chính sách mới, các tàu đại thắng. Ây là nhờ một trận động đất 7,5 độ Richter ở Nhật Bản. Không phải mua. Cứ việc lên bãi mà khuân mà vác, mà thuê xe chở về tàu. Hàng chất cao như núi. Tủ lạnh, tivi, xe máy, máy giặt, bàn ghế, xa lông, máy điều hòa không khí, nồi cơm điện. Không chở về Việt Nam mà chở về Hong Kong. Khỏi phải khai báo, khỏi phải chịu thuế, dù giá bán chỉ được già nửa so với chở về nhà. Cái quan trọng nhất là an toàn, không lo dính dáng đến pháp luật. Cũng chỉ được một chuyến ấy. Những chuyến sau lại phải tính bài. Lại cậy vách cabin. Lại cho đồng hồ Seiko 5 vào túi ni lông bó chặt thả xuống hầm dầu. Lại cho thuốc con nhộng xà phòng thơm, máy tính bỏ túi, đồng hồ điện tử, quạt bàn xuống hầm máy, vặn lại ốc vít rồi rẩy nước muối lên trên để tất cả là một màu rỉ sét mà chẳng hề mảy may xót máy xót tàu.
Lê Mây được xuống tàu HL12 với chức danh thuyền phó 3 trong thời kỳ khó khăn mà cũng là vàng son ấy. Ba chuyến đầu thắng lợi. Những tưởng sẽ mang lại cho vợ con một cuộc sống khá giả hơn. Những tưởng sẽ làm nên một cuộc đổi đời. Ông thuyền trưởng già nóng tính, say cá, say biển, giờ đây là ông thuyền phó 3 một tàu vận tải nước ngoài, nghĩa là phó gạo, chuyên trông nom sinh hoạt ăn uống cơm áo gạo tiền, học cách buôn lậu và cúc cung tận tụy phục vụ cánh hải quan trẻ chỉ bằng tuổi con ông. Không chỉ giờ chính quyền, nửa đêm họ đập cửa cabin ông:
- Mây ơi! Dậy bảo cái này.
Họ vào phòng ông kiếm tô mì, lon bia để ra câu lạc bộ đánh bạc. Đang ngủ ông choàng dậy. Cố nén sự bực bội khó chịu và sau này là sự kinh tởm, ông nhẫn nhục nặn ra một bộ mặt tươi cười chào đón họ. Một đêm, hai đêm. Một chuyến, hai chuyến. Cho đến khi không chịu được tiếng đập cửa thình thình, tiếng “Mây ơi! Mây ơi!” xách mé, láo xược ấy nữa, ông mở cửa quát vào mặt họ:
- Mây mây cái gì cũng phải để sáng mai nhá! Cũng phải để người ta ngủ nhá!
Rồi ông đóng sập cửa lại.
Ông bị giết. Hai chuyến liền ông bị giết. Cả tàu thắng, chỉ mình ông bị giết. Tịch thu sạch. Một thùng thuốc con nhộng. Năm chục cái Seiko. Xà phòng thơm bị thu hết, chỉ còn một “đố” và một bánh đang dùng dở. Tivi, cassette không còn cái nào. Cái quạt ghẻ cũng thu. Suốt đêm ông đứng vịn lan can nhìn xuống dòng sông nước chảy. Dòng sông cứ miệt mài chảy mãi, chảy mãi. Ông nghĩ đến vợ con, đến món nợ ông vay để đi buôn bao giờ trả được?
Câu chuyện Lê Mây cùng với nhiều thuyền viên bị giết càng lâm ly khi chính An kể lại. (An đã lên bờ sau khi đi tàu vận tải ngoại thương mấy năm ròng). Kể lại cho mọi người nghe ở thư viện. Kể lại khi tàu HL02 đang bị khám ở cầu cảng. Câu chuyện bắt đầu từ những thông tin của Lập về tàu 02.
- Tàu đã làm việc với hải quan đâu vào đấy rồi. Đã đưa cho thằng Cam thiếu tá công an mười triệu rồi. Nhưng nó chê ít. Nó cho quân phục kích rình bắt được một thủy thủ mang lên một cái tivi. Thế là kết luận tàu có hàng lậu. Bố trí canh gác tàu ngay. Đầu tiên là làm tự khai, mỗi người 5 máy (cassette, tivi) đem ra câu lạc bộ. Nhưng không khám. Cứ án ngữ. Lơ lửng con cá vàng. Vỏ bia ngập câu lạc bộ. Ăn. Uống. Hút. Vẫn không khám. Cứ treo. Thế mới chết. Ba hôm sau mới khám. Khám cả ống khói. Ra hàng trăm cassette, tivi, đầu video. Khám mấy hôm rồi. Hôm nay vẫn còn đang khám. Các ông có biết mấy đứa con gái Chùa Đỏ vẫn ăn cướp dầu không? Chúng nó nhanh lắm. Có tàu xuống dầu nó biết ngay. Làm mấy xô ngay. Tôi gọi là phượng hoàng vồ mồi. Nó đã ngoáy bảo vệ đấy. Ngoáy xong vẫn ngang nhiên ra vào xí nghiệp. Một con phượng hoàng bay đứng nhìn khám tàu hai. Tay công an đuổi. Nó bảo: Tàu không phải của các anh. Xí nghiệp không phải của các anh. Đuổi cái đéo gì. Người ta không đuổi thì thôi. Việc đéo gì đến các anh. Rồi nó cứ vừa đi vừa nói một mình: Địt mẹ. Người ta đi vất vả, sông nước kiếm miếng ăn, lại kéo đến ăn hớt tay trên của người ta, cướp miếng cơm của con người ta.
Rồi Lập cười:
- Nó cứ nói thế mà không dám làm gì nó đấy. Mình nói thế bỏ mẹ ngay. Nó đang đứng ngoài kia kìa!
Toàn hỏi:
- Hôm nay vẫn còn khám cơ à? Tưởng xong rồi.
- Kia kìa. Hải quan đứng dạt ra kia kìa. Đang khám đấy. Hạ Long là chùm khế ngọt. Công an, hải quan trèo hái suốt ngày...
- Hôm qua ô tô chở hàng thu được về sở công an. Hải quan không cho đi. Bắt phải dừng xe kiểm tra. Công an đưa giấy viết tay. Hải quan không nghe. Phải đếm từng chiếc. Đếm xong thừa ra mấy chục cái tivi cassette. Lập biên bản, ký vào rồi mới cho đi.
Lập reo:
- Đúng. Đúng. Hàng từ tàu lên phải qua hải quan.
An cười:
- Dạo tôi còn đi tàu, hàng hóa công an thu mang lên, hải quan yêu cầu đếm từng bánh xà phòng. Nhiều xà phòng quá. Công an không nghe. Hải quan kiên quyết không cho lên.
- Sau rồi sao?
- Công an đem vào câu lạc bộ. Đầy nửa câu lạc bộ. Khóa cửa niêm phong. Công an cắt người gác. Hải quan cũng gác. Hai bên cùng gác. Một tuần lễ liền. Chỉ chết mình. Các ông bảo còn làm ăn gì được nữa. Anh em thì cũng còn tí tỉnh phải bông hoa nhỏ chứ. Hôm nào cũng phải nấu thêm một nồi cơm cho các ông ấy. Bia. Rượu. Thịt. Nhìn nhau muốn chết.
- Sau rồi sao?
- Công an đem ra. Không phải kiểm tra gì.
Tất cả ngớ ra. An giải thích:
- Hội công an bên trên dàn xếp với hội hải quan bên trên. Các sếp. Các sếp ra tay là xong thôi. Chỉ anh em chết. Tôi nhớ xong xuôi rồi có người không ăn được.
Nhiều người. Nhiều người đứng suốt đêm trên boong, vịn lan can nhìn sông Sài Gòn, như ông Mây này này. Ông Mây cũng khổ. Đứng từ tối đến sáng. Mưa ướt áo không biết. Nghiện rượu như thế mà mấy ngày liền không đụng một giọt. Cơm không ăn. Mưa không biết. Nắng không hay. Như người chết rồi. Ông Mây nợ nhiều lắm. Có làm đến cả đời cũng không trả hết nợ. Thấy bảo ông ấy đang xin lên bờ về đánh cá. Đánh cá bây giờ có ăn thua gì nữa đâu...
Nói rồi chỉ tay vào Đay đang ngồi lật lật mấy tờ báo ở bàn bên cạnh:
- Ông Đay đây này, chuyến ấy cũng mất gần hết.
Thấy nói đến mình, Đay, Pha Ra Đay rời tờ báo ngẩng
lên, lúc lắc cái đầu:
- Mình thì được nó nuôi béo rồi mới giết. Còn ông Thuấn thanh tra, ông Mây, nó giết ngay lúc còn gầy. Nguyên tắc chung là nuôi béo rồi mới giết. Ông Thuấn thì vạ lây. Còn ông thuyền trưởng cũ của tôi quên mất nguyên tắc tối cao: Hải quan là bố mẹ.
Ngừng một lát rồi vung tay:
- Ây thế mà có lần tớ dọa bọn hải quan chúng nó sợ đấy. Tớ chỉ bông hoa nhỏ năm đôi giày, hai cái máy tính bỏ túi mà chúng nó phạt hai bìa. Xách hàng đi qua chỗ chúng nó ngồi ở đầu cầu gần băng chuyền cá. Nó bảo anh có giày cho em mua một đôi. Nó nắn giày, thấy có máy tính. Thế là nó bắt quay lại phòng, không cho lên bờ nữa. Ngồi một mình trong phòng, nghĩ lo quá, không biết rồi ra làm sao đây. Thì có tiếng đập cửa. Tớ không mở. Bên ngoài cứ đập. Hóa ra ông Hồ, thuyền trưởng. Ông Hồ vẫy ra cửa dặn dò: Chúng nó vừa vào gặp tôi. Bao nhiêu ông cũng phải chiều chúng nó. Chúng nó mà lập biên bản khám tàu, ông phải lên, chết cả nút. Một lúc sau hai thằng ấy vào phòng đòi bốn vé chứ không phải hai như trước nữa. Tớ bảo: Tao nói cho chúng mày tao chỉ mua hai mươi cái máy tính thôi. “Ai biết anh mua bao nhiêu. Anh muốn nói hai cái, hai mươi cái, hai trăm cái, hai nghìn cái cũng kệ anh. Bốn vé là bốn vé”. Tớ nhất định chỉ hai vé. “Anh không chịu bốn vé thì thôi. Cũng được. Chúng tôi lập biên bản, khám tàu. Anh em tàu sẽ giết anh. Anh phải lên bờ mà cũng chẳng còn gì nữa”. Tớ vẫn cứng: Cũng được. Các chú cứ lập biên bản đi. Lên thì lên. Khám thì khám. Các chú không thương tao đành chịu. Chết cũng được. Một thằng bảo tùy ông anh thôi. Đừng oán chúng tôi. Một thằng viết biên bản. Mình ngồi mở bia hộp uống, không mời. Hai thằng kia cũng vớ lấy bia, bật nắp uống. Tớ thấy mừng. Lúc chúng nó mới vào mình mời bia, chúng nó không uống. Bây giờ uống là có vẻ êm rồi đây. Mình dấn thêm: Các chú nhớ mặt tao. Các chú cướp bát cơm của con tao. Tao chẳng chịu chết mà không làm được việc gì. Một thằng hỏi: Anh làm gì? Ít nhất tao cũng nói với cấp trên của các chú là các chú đòi bốn vé, tao chỉ có hai, nên các chú mới làm biên bản, khám phòng. Việc ấy tao làm được. Thế là thằng ngồi hút thuốc lá nói với thằng làm biên bản: Thôi anh ấy đã nói thế thì...
Tất cả cười ầm:
- Xoa đấy. Xoa đấy.
Đay gật đầu:
- Xoa. Thằng đấm, thằng xoa. Nó đồng ý hai vé, bắt đưa ngay. Mình chơi bài rắn, không đưa: Tao làm gì có tiền. Tàu vừa về. Tao vừa bông hoa nhỏ thì chúng mày bắt. Chúng nó nhất định không nghe. Cứ đòi đưa ngay. Mình móc túi đưa hai nghìn Hong Kong. Nó bảo tiền gì thế này. Mình bảo tiền Hong Kong. Tờ bạc đỏ đấy. Đổi tiền nhưng không mua hết đấy. Buôn bán gì. Có thật không đấy. Tiền thật hở. Anh chịu trách nhiệm nhé. Hóa ra chúng nó chẳng biết tiền gì vào tiền gì. Mình bảo nhận tiền làm tin, chiều tao giao hai vé ở hàng nước Ngã ba Đông Dương. Nói vậy nhưng buổi chiều mình không ra. Chúng nó đón. Gọi. Mình bảo làm gì đã có. Phải để tao bồng hết máy tính bán mới có chứ. Chúng nó nhất định không nghe. Mình đưa, nhưng từ bấy cho đến hết chuyến, những bông hoa nhỏ mình không đưa cho hai thằng một đồng nào nữa.
Lập hỏi:
- Vẫn hai thằng ấy à?
- Vẫn hai thằng ấy. Sếp của nó chơi trò hai thằng một tàu từ đầu chuyến đến cuối chuyến. Vì ca kíp đổi nhau thì ca này bảo ca em ít người lên bờ, không có mấy, ca sau cũng thế. Sếp phèo.
Lập cười:
- Tức là khoán gọn. Chơi trò khoán gọn.
- Hai thằng ấy đánh bạc mới khiếp. Đánh với thủy thủ. Trong câu lạc bộ. Có lúc thằng đánh, thằng gác. Có lúc hai thằng cùng đánh. Chúng nó thua hết. Đến khi về lại tay trắng.
Lập vẫn đầy ấn tượng về cách quản lý của các sếp hải quan, xuýt xoa:
- Khoán gọn. Hay. Công nhận.
Đay bảo:
- Khoán gọn là không chạy đi đâu được với sếp. Vì thế chúng nó rất dễ tính, để anh em mang hàng lên nhiều. Càng mang lên nhiều càng thu nhập nhiều. Mô nô hai mươi nghìn. Xít te bốn mươi nghìn. Tivi: tám mươi nghìn. Đầu video một trăm nghìn. Hoa nhỏ thì một bánh xà phòng cộng một bao thuốc, hay một lọ dầu xanh cộng một lọ dầu gội đầu. Mà làm rất thô. Đi qua chỗ chúng nó gác cứ tự giác bỏ vào túi du lịch của chúng nó mở toang hoác để ngay bên.
Lập vẫn gật gù khen khoán gọn hay. Đay bảo:
- Ngày hải quan còn chia ca kíp gác, đến tối chúng nó chia nhau ở câu lạc bộ mới buồn cười. Anh nọ bảo anh kia thăn thiến, suýt đánh nhau. Chúng tớ đi qua vẫn đù mẹ đù cha chẳng ý tứ gì.
Chuyện van vãn, Lập kéo Toàn đi ra cầu cảng xem khám tàu HL02. Đay cũng ra theo. Nước xuống. Trên boong tàu không một bóng thủy thủ. Boong lái rộng lọt thỏm mấy chiếc tủ lạnh, máy giặt, tivi (đều có ghi tên người, viết bằng mực tím) một chiếc đi văng bọc da nhàu nát bạc phếch ố loang. Toàn hàng tầm tầm. Chỗ cầu thang bắc từ cầu cảng xuống tàu, một anh công an quân hàm nghiêm chỉnh, ngồi trên ghế dựa, khuôn mặt tròn căng, bình thản. Một anh công an khác từ trong hành lang giữa tàu bước ra xách hai cái cassette, một chiếc quạt bàn đã tháo rời cánh và bảo hiểm trông càng thảm hại. Lập bảo Toàn:
- Cassette kia là cassette mô nô đời 1951. Quạt kia là Mitsubishi từ thời Napoléon cởi truồng.
Đay hỏi:
- Các ông có biết vì sao nó làm lâu thế không? Năm hôm rồi chưa xong.
Lập lắc đầu. Toàn đáp:
- Chịu. Về mặt này tôi rất dốt.
- Vì chưa có bấu đít.
Thấy Toàn đứng ngây ra, Đay bấu mạnh vào mông Toàn:
- Tức là thế. Bấu đít mà. Ông không hiểu à. Một cái mặt bích. Sáu con bu lông. Tháo năm rồi, còn một con nữa. Nhưng anh xuống bấu đít một cái. “Anh Cam đấy à?” “À. Anh Thích”. “Các anh cứ làm đi. Làm triệt để vào”. “Các cậu làm đi nhé. Bảo đảm nhé”. Nhưng cái bu lông thứ sáu ấy không tháo đâu. Bấu đít rồi. Xong rồi. Ngã giá rồi.
- Tàu vẫn còn hàng cơ à? Tưởng hết rồi.
- Còn. Còn nhiều.
Và chỉ tay sang chiếc tàu HL12 đỗ gần đó, vắng tanh vắng ngắt không một bóng người, như một con tàu hoang, một con tàu chết, chỉ một anh hải quan ngồi gác ở đầu cầu thang bắc xuống mặt cầu:
- Thằng Mười hai mới khốn nạn. Về ba hôm rồi. Chưa làm thủ tục. Cứ nhìn thằng bên này bị khám bị thu. Hàng thì đấy ắp. Quá ôm một quả bom nổ chậm.
- Tưởng tàu nào cũng có đóng góp và làm việc rồi.
- Làm việc với quận thì thành phố khám. Làm việc với thành phố thì trung ương khám. Làm việc với hải quan thì công an khám. Sao cho xuể được.
Toàn như ngộ ra được một điều, nghĩ thầm: Nguy hiểm căng thẳng như thế, nó chẳng cho mình cái gì cũng phải thôi. Đó là xương là máu.
Anh bảo Lập vẻ tuyệt vọng:
- Chẳng hy vọng gì. Hết sạch tình thương rồi Lập ạ.
Có nhiều người nữa bước ra cầu cảng, Thám, Cảnh,
Nhạn, Liễu, Vinh, Thu. Xem. Nhìn. Ngắm. Cả hai phượng hoàng bay... Nhiều người đứng ở ban công phía sau dãy nhà làm việc nhìn ra. Một lúc lại vào. Cầu tàu vắng ngắt.
Cuộc sống cứ như vậy trôi theo dòng thời gian. Tàu về, tàu đi. Người đại thắng, người bị giết. Những người rách việc trên bờ cũng vậy. Người gặt hái. Người trều. Cũng có những biến đổi quan trọng với một vài người.
Chẳng hạn như Vân đã chuyển sang phòng xuất nhập khẩu, mua xe máy, trong túi lúc nào cũng có Capstan, ba số, thỉnh thoảng lại đưa văn phòng phô tô hoặc đánh máy những vận đơn, những quota, những công văn mở LC. Còn bà Phương vẫn chẳng già đi vì tuổi bà đã đứng lại rồi. Bà vẫn tuyên bố: “Hai năm nữa tao hưu. Quá một ngày cũng không ở lại. Nhường cho lớp trẻ”. Và thỉnh thoảng bà vẫn đi công tác xa, tới những vùng có tiếng kèn đám ma và mùi hoa huệ. Thấm nhuần câu “Cả đời phấn đấu không bằng cơ cấu một giây”, Xuân trố lại mở một đợt phấn đấu mới, vì đại hội công đoàn vừa qua, Xuân vẫn chưa được cơ cấu, đứng trong hàng ngũ kế cận, chưa được giới thiệu vào chấp hành. Và vẫn tiếp tục chiêu độc: Ngoài báo và những chuyện thời sự, chuyện lạ đó đây ra, là những buổi chiếu phim video hẹp. Chỉ những cán bộ chủ chốt mới được xem. Đóng cửa. Nội bất xuất. Ngoại bất nhập. Rời phòng kín bước ra trước mặt đám nhân viên lặng lẽ nhìn một cách tò mò, ai cũng thấy mình là người quan trọng. Triển vọng Xuân là cán bộ kế cận thật nhỡn tiền.
Cánh văn phòng, ngoài hội xin đểu vẫn tiếp tục hoạt động (nhưng ngày một ít hiệu quả) đã mở thêm hội nấu rượu lậu, có cả nhóm phụ nữ phòng tài vụ cùng tham gia. Chả là một hôm Toàn thấy trên ghi đông xe đạp mình có treo một túi quần áo ướt đã giặt (phòng văn thư rộng nên xe đạp của anh chị em văn phòng được để cả vào đấy dù đã có quy định tất cả các xe đạp, xe máy phải gửi ở nhà xe), Toàn kêu to:
- Đứa nào ném bã rượu lậu vào nhà tao thế này?
Cô Phòng cười:
- Em đấy. Rượu của nhà em đấy.
Thế là danh từ cất mẻ rượu được khai sinh và trở nên thông dụng.
- Khiếp. Hôm nay em cất mẻ rượu to quá.
- Con mụ Thúy một mất một còn, mẻ rượu nhà nó mới ghê chứ. Hai cái màn. Một cái vỏ chăn.
Nước hiếm, cánh phụ nữ ngày nào cũng có vài ba người cất rượu. Được cái phòng toa lét nữ có chữ Lady, thấy cửa đóng là chả ai dám vào, kể cả chánh tổng và phó tổng.
Toàn cũng đã hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao: Làm xong việc đề nghị tặng thưởng huân chương độc lập hạng ba và tổ chức lễ đón nhận huân chương. Nhưng chính vì việc ấy mà Toàn buồn. Ý định về hưu non cũng nảy sinh từ đó. Xin được huân chương cho xí nghiệp, Toàn đã vượt qua bao khó khăn với bao nhiêu cố gắng. Lên Bộ. Lên Hội đồng thi đua thành phố. Lên Viện Huân chương. Lúc đầu đến đâu cũng suông thôi. Nghe chừng có những hứa hẹn rồi phải có tí quà. Mà quà gì? Toàn thì có thể dám xin mua quà gì. Công việc thi đua bây giờ lạc lõng. Chạy vạy mãi và cũng là có áp lực, có giấy của chủ tịch công đoàn, Toàn mới mua được hai cái phích Đại Thủy Nông Trung Quốc, và xuống tàu đi nước ngoài xách lên được một hộp bát sứ Giang Tây, những thứ hàng đặc biệt giá trị mà hoàn toàn không phải chuyện đút lót biếu xén, mang lên Viện huân chương. Còn anh thi đua Bộ, các chiến hữu ở Hội đồng thi đua khen thưởng thành phố lại phải có cách khác. Ai cũng muốn xuống nghe báo cáo và trực tiếp làm việc, xem xét. Cái thứ nhất là được đi dã ngoại, thay đổi nếp sinh hoạt hàng ngày, thoát khỏi không khí tù đọng giữa bốn bức tường, ngồi nhìn nhau mà chẳng có việc gì làm, thứ hai là được tham gia vào một cuộc tham quan, rồi còn được nghe báo cáo, thăm cơ sở, xuống phân xưởng, xuống tàu, được tiếp xúc với người lạ, cảnh lạ rồi ăn uống bia bọt, và thế nào mỗi người chẳng được một cái phong bì bằng cả tháng lương. Khoản tiền này, Toàn viết giấy đề nghị nhưng cũng không dám đưa tổng giám đốc ký, mà đưa cho chủ tịch công đoàn. Chủ tịch công đoàn không chỉ duyệt chi trích từ quỹ khen thưởng mà còn thân hành cùng Toàn xuống phòng tài vụ gặp cô Thúy một mất một còn để cô lệnh cho nhân viên viết phiếu chi. Đã xong đâu. Thủ quỹ hết tiền. Lại phải chờ...
Cũng phải nói thêm không phải cứ mời là trên Ban(2) xuống ngay đâu. Cả thành phố nhiều nơi mời lắm. Ban chỉ xuống những nơi trọng điểm, những nơi có máu mặt, có chiến hữu, gặt hái kha khá một tí. Đã từng một thời gian công tác ở Sở công nghiệp nên Toàn quen biết gần hết mọi người trên Ban và được coi là chiến hữu. Tấm huân chương Độc Lập hạng Ba coi như tiết mục không thể thiếu trong dịp kỷ niệm bốn mươi năm thành lập xí nghiệp. Toàn biết trách nhiệm của mình. Anh đã lên Ban, và được các chiến hữu trên ấy nhận lời về nghe lãnh đạo xí nghiệp báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm. Nhưng phải chờ tổng giám đốc đi Thái Lan về đã. Khi tổng giám đốc về đã được một tuần, đã họp hành, đã trao đổi, đã chuyện vui, đã nắm tình hình xí nghiệp đâu ra đấy, lựa lúc sếp ngồi xa lông chỉ có một mình, Toàn mới khẽ khọt:
- Báo cáo anh, về việc đề nghị huân chương Độc Lập của xí nghiệp, các anh Hội đồng thi đua thành phố muốn nghe tình hình thực hiện kế hoạch năm. Các anh ấy đã xuống xí nghiệp từ trước khi anh đi Thái Lan. Anh Điều chánh văn phòng có hẹn họ để đợi anh về. Còn cái công văn hiệp ý của Bộ gửi Hội đồng Nhà nước thì Bộ không gửi cho ta mà chỉ gửi thành phố. Tôi mượn được trên Ban Thi đua thành phố để biết và để báo cáo với các anh. Thưa anh, các anh trên Ban đề nghị thứ bảy tới sẽ xuống làm việc với ta. Nghe báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch cả năm của xí nghiệp, kết hợp giải quyết trường hợp huân chương lao động cho anh Thu, bí thư luôn thể.
Đó là bài bản của Ban. Làm như vậy là có thể dứt điểm được ngay việc tặng huân chương vì Bộ đã có công văn hiệp ý với Viện Huân chương rồi. Kết quả của bao nhiêu cố gắng, sự quen biết để đi thẳng tới đích, những tưởng được sếp khen, chí ít cũng gật đầu ngay tắp lự, không ngờ sếp nổi giận đùng đùng:
- Sao việc gì anh cũng dồn đến tôi? Trăm thứ việc đều vào tôi cả. Tôi đã đề ra hướng. Các anh ở nhà cứ thế mà làm. Lại phải chờ tôi về. Anh làm việc hay không làm việc? Các anh chẳng chịu tự động làm một việc gì cả!
- Thưa anh. Đến bây giờ ta vẫn chưa làm báo cáo tổng kết xong. Tình hình chung cả năm phải là tổng giám đốc mới phát biểu được.
Toàn định nói: Tổng giám đốc là chủ tịch Hội đồng thi đua xí nghiệp nhưng không dám vì nó có vẻ quy trách nhiệm cho sếp.
Tổng giám đốc càng tức giận. Chưa bao giờ Toàn thấy sếp như vậy:
- Anh lúc nào cũng lễ phép. Thưa anh. Thưa anh. Gặp tôi là thưa anh thưa anh. Công việc thì cứ chờ tôi. Tôi ốm, tôi chết ai làm. Ăn chia có gọi tôi không? Tôi đi vắng đã có phó chứ!
- Vâng. Nếu anh ủy nhiệm thì để anh Phiên gặp các anh trên Ban.
Phiên là phó tổng giám đốc thứ nhất. Toàn đã gặp Phiên khi sếp còn đang ở Thái Lan, và Phiên đã cho Toàn một trận tơi bời: “Ông chẳng hiểu gì cả. Thi đua là tổng giám đốc chứ không phải tôi. Tổng giám đốc đi vắng thì chủ tịch công đoàn chịu trách nhiệm. Ông làm thi đua bao năm mà không biết à?” Toàn gãi đầu gãi tai: “Thưa anh, anh Liêu chủ tịch công đoàn nói báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch cả năm phải là tổng giám đốc”. “Thế thì anh gặp tổng giám đốc chứ sao lại gặp tôi?” Toàn cứng họng.
Sếp chánh tiếp tục trận lôi đình:
- Anh có mỗi việc lên Bộ lấy cái giấy cũng không được. Quá vô trách nhiệm!
- Thưa anh. Về nguyên tắc, công văn hiệp ý họ không gửi cho mình. Mà chỉ gửi cho Uy Ban nhân dân thành phố. Tôi đã ghi số công văn, ngày gửi. Các anh trên Ban thi đua bảo đảm với tôi thế là được.
Sau cuộc gặp ấy, Toàn ngồi ngay ở bàn làm việc ghi vào quyển sổ công tác những cảm xúc ập đến đầy ắp trong lòng. Nhục quả. Thật đau khổ và nhục nhã cho tôi. Bản rẻ nhân cách để có thêm cái phần mềm. Thêm được năm chục nghìn một thảng. Thì đã vào mồm mình ba mươi nghìn rồi. Vì phải ăn sảng. Vợ con phải hầu hạ. ơ nhà thì chỉ cơm rang. Quần ảo đỡ hại. Đỡ tốn xà phòng hơn. Chỗ hai chục dôi ra cũng có còn nguyên đâu. Vậy mà phải chịu nhục. Tôi cứ đối thoại một mình với sếp: Tôi và anh cùng là sản phẩm của cải cơ chế này. Nó đẻ ra anh và sinh ra tôi. Tuy hai cực nhưng cùng phản ảnh một bức tranh, một thực trạng. Tôi bị đẩy xuống đảy vì tôi trung thực vì số tôi nó thế. Anh lên chót vót vì anh dối trả và cũng vì số của anh. Tôi có gì mà ăn chia. Xã hội là thế đấy. Thằng ăn chia bẫm lại bảo thằng đói rạc: An chia anh có gọi tôi không? Cải đặc điểm chung của bọn làm sếp này là không biết xấu hổ. Là vô liêm sỉ.
Toàn cười nhạt và một ý nghĩ đến bất chợt: Hôm nào xin được cân cá sẽ gọi Thắng vào ăn chia. Thế là cu cậu từ nay hết đường nói mình.
Quăng quật, nhục nhã thế mà cuối cùng khi đã được huân chương, khi Toàn đã lên nhận huân chương trên Ban mang về xí nghiệp và đã đến ngày lễ trao huân chương sếp lại nổi cơn thịnh nộ.
Có lẽ chỉ vì cái lớp học tiếng Anh ban đêm. Hội trường đã được quét dọn, bàn ghế đã được kê từ buổi chiều. Nhưng buổi tối, lớp học tiếng Anh do phòng xuất nhập khẩu tổ chức đã làm hỏng hết cả. Bàn ghế xô lệch. Đầu mẩu thuốc lá vung vãi. Buổi sáng phát huân chương, tổng giám đốc xô vào bắt gặp Toàn và Điều đang ngồi xa lông. Thế là:
- Các ông lên mà xem. Nhà cửa bẩn quá. Không khác gì một cái chuồng lợn. Tí nữa khách đến rồi. Lẽ ra các ông phải cho thằng Cảnh quét từ hôm qua. Các ông làm cái gì tôi không hiểu được. Đúng là thợ nói. Làm ăn như vậy! Bây giờ nó mới quét bụi mù lên.
Việc tổ chức buổi lễ, quét dọn hội trường, kê bàn ghế, giải khăn rồi ấm chén uống nước và sau đó cỗ bàn ăn uống là trách nhiệm của Điều. Nhưng Toàn cũng giật thót người. Toàn và Điều cùng đứng dậy. Tổng giám đốc lắc đầu chán nản:
- Thôi. Bây giờ còn lên làm gì. Nó đang quét rồi.
Còn ai có thể ngồi xa lông được nữa. Thế nhưng vẫn cứ phải ngồi mà chịu trận thôi.
- Khay đâu? Không cái khay, để huân chương lên đâu? Phải có khăn phủ lên khay nữa. Ông Điều về nhà tôi lấy cái khăn nhung lên đây.
Nhà sếp vẫn ở đấy, tầng hai cái biệt thự dùng làm nhà khách ấy. Mấy năm nay nhà sếp có sếp bà. Sếp bà làm văn thư một cơ quan ở Hà Nội đã về hưu non đưa cả cô con gái về ở Hải Triều. Và tất nhiên Hoa được trả về phòng đời sống. Việc cơm nước, giặt giũ phục vụ sếp ông đã có sếp bà và cô con gái đang học lớp bảy. Những ngày sếp bà mổ khối u buồng trứng nằm bệnh viện, Hoa cũng không đến phục vụ mà là căng tin mang cơm đến tận nhà. Chà! Những ngày sếp bà nằm bệnh viện gần như cả xí nghiệp trên bờ dưới nước đến thăm cùng với hàng núi quà. Toàn cũng đến. Đến tay không. Lại được đi xe ô tô cùng với sếp và Điều. Lẽ ra cô Phòng cũng ngồi ô tô đến bệnh viện nhưng lại phải đi xe đạp vì cái con Ky nhảy lên xe và cứ nhất định ngồi yên trên đó, chễm chện, đương nhiên, cái đuôi ve vẩy, lưỡi thè ra dài và đỏ. Đó là một con béc giê to lớn, ngồi chống chân, thẳng lưng ở ghế ngay phía sau lưng sếp. Sếp quát:
- Ky! Xuống!
Đáp lại lệnh sếp, nó chỉ vẫy đuôi. Mấy lần như vậy, sếp cười:
- Nó biết chúng mình đi đến bệnh viện thăm bà ấy nên nhất định không xuống. Cái con này ghê thế. Thôi cô Phòng đi sau vậy.
Toàn toan xuống nhường chỗ cho Phòng nhưng cô Phòng bảo Toàn cứ đi vì cô sợ chó lắm. Thế là Toàn được đi. Điều ngồi một bên. Con Ky một bên. Toàn ngồi giữa. Đầu nó cao hơn đầu Toàn. Thì cái giống chó ngồi cao đứng thấp, đứng thấp ngồi cao mà lại.
Trong khi Điều đạp xe đến nhà sếp lấy khay, Toàn hứng đủ cơn lôi đình của sếp:
- Không có khay ông định để huân chương lên đâu?
Toàn khẽ khàng:
- Báo cáo anh, để tất cả lên bàn. Huân chương phát cho xí nghiệp, không gắn vào người nên tôi đã cho vào khung kính, cùng với bằng khen luôn...
Tổng giám đốc càng tức giận:
- Các ông không hiểu ý tôi. Hết sức vô trách nhiệm. Thật xấu hổ’.
Toàn ngồi ngây người cố tìm ra ý sếp để hiểu mà không được. Điều về mang theo cái khăn nhung, chưa kịp nói gì, sếp đã gắt:
- Ông Điều ra ngay phòng đời sống xem họ làm ăn đến đâu rồi. Gượm. Bảo cái Tám mang ra đây mười chai sâm banh và toàn bộ ly cốc.
Cũng may các quan khách kẻ trước người sau đã đến. Nếu không chẳng biết sự việc sẽ ra sao. Khi thấy đông đủ các vị quan chức trong thành phố, các xí nghiệp bạn và vị thứ trưởng trên Bộ đã về, Điều định bước lên bục nói mấy lời mào đầu như thường lệ thì sếp đã đứng dậy, không lên bục mà nói tại chỗ, thân mật cám ơn sự chỉ đạo giúp đỡ của bộ, của thành ủy, các ngành và sâm banh được mở. Nâng cốc. Chuyện trò thật vui vẻ. Toàn thở phào, cứ lo phải đứng lên hô nghiêm khi chánh văn phòng đọc quyết định theo đúng nghi thức như văn bản hướng dẫn, nhưng sếp đã bỏ qua tất cả.
Bữa ăn tại căng tin cũng thật ngon. Gồm toàn cán bộ đầu ngành, bộ tứ các đơn vị và quan khách. Còn công nhân viên, đơn vị nào ăn tại đơn vị ấy.
Sau lễ và tiệc đón huân chương, những tưởng cơn giận của sếp sẽ dịu đi nhưng hóa ra lại có phần tăng thêm ít độ.
- Tại sao có một việc như thế mà các anh không làm từ hôm qua. Tôi không muốn nói cũng phải nói. Anh đưa cho tôi xem bản chính quyết định tặng thưởng huân chương chứ không phải bản sao anh đưa cho tôi đâu.
Toàn rụt rè giải thích với tổng giám đốc rằng mình không nhận quyết định. Hôm qua cô Phòng đã tra lại sổ văn thư, quyết định gửi về trao cho anh Thám công văn. Anh Thám đưa cho cái Tám. Cái Tám không nhớ đã đưa cho phó tổng nào. “Tôi có báo cáo anh Điều tôi làm quyết định theo “gốt” cũ. Ngày, tháng, số và người ký thì căn cứ chữ ghi trong bằng huân chương mà điền vào. Đành phải làm như thế. Nhưng báo cáo thủ trưởng là tôi làm rất chính xác, không sai một chữ”. Toàn cứ tưởng mình đã lập công chữa cháy cho xí nghiệp. Thì quyết định tặng thưởng huân chương nào chẳng bắt đầu bằng câu: Điều I: Căn cứ vào điều 100D của Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chệch đi đâu được!
Thật không ngờ:
- Thế mà sao y bản chính à? Đấy là giả mạo. Có thể bị truy tố về tội giả mạo giấy tờ.
Toàn cố vét kiệt sự kiên nhẫn, bình tĩnh và nhẫn nhục:
- Tôi không nhận quyết định. Thời gian đó tôi nghỉ phép. Quyết định cô Phòng chuyển cho anh Thám, anh Thám chuyển cho cái Tám. Tôi đã báo cáo anh Điều căn cứ nội dung ghi trên bằng, viết lại theo mẫu cũ.
- Anh viết thế mà được à? Tôi sẽ có quyết định chính thức và lúc ấy anh sẽ thấy anh làm láo. Anh phải biết xấu hổ chứ!
Toàn đột ngột đứng lên, ép hai tay vào đùi như kiểu người lính đứng nghiêm:
- Báo cáo tổng giám đốc. Tôi hoàn thành mọi nhiệm vụ do chánh văn phòng giao.
- Về điều ấy, tôi, anh, anh Điều sẽ phải ngồi lại với nhau. Tôi yêu cầu anh thu thập hết huân chương, bằng khen kể cả huân chương kháng chiến của xí nghiệp đưa cho tôi.
- Tất cả đều có. Riêng huân chương chiến công tôi không biết vì anh Tín thi đua cũ không bàn giao.
Tổng giám đốc cười nhạt:
- Đấy, anh thấy không? Nói đến huân chương kháng chiến, anh bảo anh T ín không bàn giao. Rồi nay mai huân chương lao động anh cũng bảo không được bàn giao.
- Thưa anh khi xí nghiệp nhận huân chương chiến công tôi đang nằm bệnh viện ở Trường Sơn.
Toàn quyết không lùi nữa. Không chịu nhục hơn được nữa. Đến đấy là giới hạn rồi. Thà về hưu ngay. Nhưng sau đó anh buồn. Anh làm tổng kết cuộc đời mình mà thấy sao nó buồn đến thế. Cũng may lũ con anh đã lớn. Hai đứa đã đi làm... Anh đem chuyện cáu giận gần đây của sếp ra hỏi Điều. Điều là người anh có thể tâm sự, trò chuyện, dò hỏi. Điều là chánh văn phòng. Biết nhiều chuyện thâm cung bí sử.
Điều bảo:
- Ông còn bị ít đấy. Tôi mới lĩnh đủ. Chẳng qua là cái ghế. Ông hiểu không? Ghế của sếp lung lay rồi. Bắt đầu là từ vụ tàu Ba (HL03) ông biết rồi chứ gì. Hoàng Quốc Thắng cho thằng Robert Lee thuê hẳn tàu Ba chở hàng cho nó từ Hong Kong, từ Singapore về Trung Quốc. (Thằng Robert Lee cũng chỉ là thằng làm thuê cho một thằng chủ Mỹ thôi. Thằng chủ này sang Hà Nội đéo thèm đi máy bay chở khách. Nó đi máy bay riêng của hãng. Chuyên cơ hẳn hoi. Một trăm năm mươi nghìn đô chứ ít đâu). Mọi chuyến không sao. Chuyến vừa rồi Trung Quốc giở trò khám tàu. Lộ ra hàng lậu. Nó giữ tàu. Nguy cơ mất tàu là cái chắc. Rồi còn vụ cá thối tàu bảy. Lỗ hơn tỉ. Rồi đánh cá đá xuất thẳng với thầy trò ông Robert Lee. Xuất được đâu. Muốn xuất được phải có tàu mẹ ở ngay ngư trường. Các tàu con đánh được đến đâu thì chuyển sang cho tàu mẹ. Được vài chục tấn là đi luôn. Đằng này tàu nào đánh tàu ấy xuất, ít nhất cũng phải mười ngày trở lên. Cá vỡ bụng quá nửa. Cái thằng gì to béo dự bị bạn với Robert Lee lên giồng bảng tin với ông nhỉ.
- Thuyền.
- Chỉ thằng ấy là bở. Đi được hai chuyến Sing. Nhưng đi Sing cũng chẳng ăn thua gì. Sing rất ít đồ cũ. Toàn đồ mới. Mà đồ mới đắt quá Việt Nam. Xàng xê mãi mua được cái xe máy lượn vè vè. Mà xe máy cũng là mua lại của mấy thằng tàu 19 đi Nhật. Xí nghiệp sắp vỡ rồi.
Toàn bảo:
- Xí nghiệp mình dù sao cũng vẫn còn đỡ. Vốn liếng tiền tỉ. Xí nghiệp bên vợ tôi mới gay go. Nghỉ năm mươi phần trăm. Mà bên ấy nó quản ác lắm. Ai không buôn bán làm ăn được thì nó cho nghỉ. Ai buôn bán được, có cửa, có thu nhập nó bắt đi làm.
Điều bật cười:
- Địt mẹ. Quản lý kiểu Pol Pot như thế quá bằng giết người ta.
Toàn không cười được. Toàn đã định xin nghỉ không ăn lương một thời gian nhưng vợ anh thuộc diện về nhà có thể mở hàng nước chè chén kiếm ăn nên vẫn phải đi làm. Và vẫn phải đèo cân thay lương về nhà rồi đem ra chợ bán tống bán tháo lấy tiền chi dụng. Không. Phải cắn răng mà chịu thôi. Sức dài vai rộng ăn bám vợ là điều không thể chấp nhận. Đã mấy năm sống nhờ vợ rồi. Nhưng Toàn gặng hỏi để cái hy vọng vẫn le lói không tắt hẳn:
- Anh bảo ghế sếp lung lay à. Lung lay làm sao được. Sếp có đại ca to như thế ai làm gì được sếp.
Điều xùy:
- Đại Ca của sếp cũng đang gay. Sau vụ duyệt bán cầu cảng bán tàu ở trong kia, Đại Ca cũng sắp toi rồi. Một con tàu của người ta tiền tỉ, duyệt bán ba trăm triệu. Rẻ hơn sắt vụn. Với lại ông ơi! Không hy vọng gì đâu. Sếp này về sếp khác lên. Quan phủ đi quan tri nhậm. Y chang cả thôi.
Có vẻ là như thế thật. Thôi, cứ được đến đâu hay đến đó. Còn đang nẫu người thì gặp Cảnh giữa lúc đang
ngồi xổm ở hành lang phía sau nhìn ra cầu cảng. Cảnh reo lên, kéo Toàn vào phòng văn thư:
- Chú vào đây. Chú vào cháu hỏi cái này.
Hai người lại ngồi bên cái bàn uống nước ở phía sau tủ, gần bàn đánh máy của cái Nhạn. Cảnh chấm tay vào cặn nước trong chén và lại vẽ:
- Chú biết cái ô này chứ gì? Sân bóng chuyền ở trước vườn hoa, đầu xưởng đá vẩy Đan Mạch. Đây là lối ra cổng cảng. Cháu nghĩ ra cái này, cháu nói chú nghe xem thế nào nhé.
Lại trò gì nữa đây? Nhưng chắc là rất thú vị. Ôi. Giá anh cũng có những ý nghĩ như nó. Không biết có lúc nào nó chán đời như mình bây giờ không? Anh cảm thấy quý Cảnh vì lúc nào Cảnh cũng tin cậy anh. Và chắc chắn anh là người đầu tiên được nghe những điều Cảnh sắp thổ lộ.
Cảnh vẽ tiếp lên bàn với vẻ mặt nghiêm túc nhất trên đời:
- Chỗ này là chỗ vẫn ngồi xem đấu bóng chuyền. Sẽ làm một cái ghế dài ở đây. Đây chỉ là vẽ thôi. Nhưng trên thực tế là giồng bốn cây. Bạch đàn cũng được. Phi lao cũng được. Trên ghế là hai người ngồi. Một đàn ông. Một đàn bà. Hay hai đàn bà cả cũng được. Đắp bằng đất xong đem nung. Hai người ngồi xem. Đắp từ chân đắp lên. Phải có cốt xương sống. Làm bằng cây que thôi. Căn bản là mái tóc phải xõa xuống chạm đến ghế. Như vậy ở cổng vào cũng trông thấy ngay mà dưới bến lên cũng trông thấy ngay. Rất đẹp. Nó toát ra một hình ảnh
không gian Liên hợp Hải Sản. Rồi đắp một con tàu đặt ở chỗ cây dâm bụt.
Câu chuyện có vẻ mới mẻ và hấp dẫn đến nỗi Nhạn cũng ngừng công việc, bước ra nhìn vào sơ đồ loằng ngoằng trên bàn. Và khác hẳn mọi lần, không cáu gắt, dè bỉu còn hỏi Cảnh:
- Tàu cũng làm bằng đất à?
- Vật liệu gì cho rẻ. Cái này phải hỏi ông Kích kiến thiết cơ bản cũ, chuyên sâu về vấn đề này. Tượng thì phải tìm mẫu là một bà ở Cảng, không phải bà Mít đâu.
Nhạn vẫn chăm chú lắng nghe và hỏi:
- Cái bà vẫn vào xin nước gạo á?
Cảnh reo lên:
- Đúng. Đấy. Má nhăn. Căn bản là má phải nhăn. Tóc xõa chạm đến ghế.
Nhạn lắc đầu:
- Ai lại làm tượng thế. Lưng còng gãy gập. Chí ít thì cũng phải như tớ này này. Hay như cái Tám.
- Không. Phải bà già. (Mắt Cảnh lại long lanh. Môi lại dẩu ra trước khi phát âm chứng tỏ Cảnh đã suy nghĩ rất lung, rất chín rồi). Thế mới thấy được quá khứ. Và thấy tương lai. Còn bể bơi làm ở bãi sắt vụn.
Nhạn như tham gia vào cuộc thảo luận nghiêm túc:
- Nó để đổ sắt vụn. Ai cho ông xây.
Cảnh xùy:
- Hết sắt vụn từ bao giờ rồi còn đâu.
- Tất cả các tàu trong xí nghiệp sắp thành sắt vụn hết kia kìa.
Toàn thấy cần nói cho Cảnh biết sự thật:
- Con Nhạn nó trêu mày đấy.
Cảnh cười độ lượng:
- Vừa rồi lau ghế mây. Nhạn làm ầm lên, có tiếng nói không hay. Và cả trong tương lai cũng không có gì xấu xa cả.
- Cái gì xấu xa? Nhạn hỏi.
Cảnh ngẩng đầu, chỉ ra phía cửa:
- Con đường kia kìa tốt đẹp biết bao! Từ nhà ông Thắng tới cổng xí nghiệp. Từ cổng xí nghiệp tới nhà ông Thắng. Tốt đẹp biết bao!
Vẻ mặt Cảnh mơ màng như đắm chìm vào một tương lai. Có lẽ vẻ lãng mạn cách mạng của Cảnh quyến rũ quá khiến Nhạn bỗng bật ra một ý nghĩ. Nhạn đặt một tay lên vai Cảnh, rủ rê:
- Tớ với mình bắt bồ với nhau đi.
Cảnh ngơ ngác vì thấy đề tài thảo luận chuyển quá nhanh, trả lời rất nghiêm túc:
- Cám ơn cậu. Nhưng tớ không có tiền. Bắt bồ phải có tiền. Bây giờ đồng tiền quyết định. Xã hội đồng tiền mà.
Toàn, Nhạn cùng cười. Cảnh cũng cười theo. Cảnh cười mà không biết mình sắp bước vào những ngày vinh quang tột đỉnh, những ngày Cảnh tự thấy mình là quan trọng, những ngày Cảnh ở một tầm cao mới và có thể khinh khỉnh nhìn đời. Ây là khi có một vị khách mới
xuất hiện ở xí nghiệp. Một nhà khoa học. Một chuyên gia về kinh tế, một cán bộ giảng dạy tại một trường đại học lớn về hoàn chỉnh luận án phó tiến sĩ. Ông về đây là do một vị hàm bộ trưởng giới thiệu với sếp. Toàn biết vậy vì Điều gọi điện đi các nơi báo trước với các đơn vị chương trình làm việc của khách. Tiếng Điều oang oang:
- Anh ấy sẽ giúp chúng ta về giá tôm xuất khẩu đấy. Anh Đạt là một nhà khoa học. Anh ấy đang nghiên cứu về tôm đông lạnh. Tổng giám đốc đã nói với anh rồi. Hôm nay chỉ nhắc lại thôi. Sáng nay anh ấy làm việc ở ngoài này với phòng xuất nhập khẩu. Đầu giờ chiều anh Đạt sẽ vào trong ấy.
Gặp một cán bộ xí nghiệp lạnh đông, Điều dặn đi dặn lại:
- Về nói với các thủ trưởng chuẩn bị nhé. Anh ấy sắp vào. Giám đốc đi vắng thì bố trí phó giám đốc tiếp nhé. Anh Đạt là một nhà khoa học, bạn thân với chủ nhiệm Ủy ban vật giá nhà nước đấy.
Những ngày đầu ông Đạt được đón tiếp rất chu đáo, nồng hậu. Nhưng sự đón tiếp ấy chuyển rất nhanh sang hướng ngược lại. Có lẽ bởi hình thức bên ngoài. Và cả những gì thuộc về bên trong nữa.
Những thứ ông mang trên người, tức y phục của ông là những gì quý giá nhất thời bao cấp ngày xưa mà ông được hưởng và còn giữ tận tới hôm nay: Cái mũ len đan hết tuyết xác xơ có lưỡi chai và có thể trùm xuống tới cổ, áo vét tông cũ nhàu và không thể đoán được màu sắc ban đầu của nó, cái sơ mi cũng cũ nhàu như vậy, cái áo len màu tím than xác xơ như cái mũ, đôi giày đen có cổ từ đời nảo đời nào mà người ta vẫn gọi là giày Kosygin(3). Râu ria lởm chởm, da mặt xám ngả vàng, xách cái túi giả da hai quai chéo đã sờn mòn lộ cốt vải luôm nhuôm, cái túi oanh liệt một thời phân phối hoặc tặng phẩm trong một hội nghị long trọng nào đó, một thứ nửa túi nửa cặp, trông ông thật thảm hại và gầy quá, gầy đến mức cái ống quần may hẹp thế mà cũng chẳng nhìn thấy cẳng chân đâu.
Ông nói với Điều:
- Em nghiên cứu giá tôm. Tôm của mình tốt. Không có chất độc mà giá rẻ quá. Tháng sau em bảo vệ đề tài trước hội đồng.
Một hôm ông Đạt đến trước bàn Toàn lễ phép:
- Thủ trưởng làm việc ở đây ạ?
Đang lúi húi đọc báo, Toàn không ngẩng lên. Lần đầu tiên trong đời được gọi như vậy, bằng một giọng cung kính như vậy, Toàn nghĩ rằng người ta đang nói cùng ai đó chứ không phải với mình. Ông Đạt mở cái túi phồng căng, rút ra một xếp giấy, lễ phép, khúm núm, nhờ cậy:
- Báo cáo thủ trưởng. Thủ trưởng photo cho em một bản để thủ trưởng đọc và một bản nhờ thủ trưởng chuyển cho tổng giám đốc.
Chú thích:
[1] Thực ra là giống chó Rottweiler. Rất hung dữ. Thích xé xác trẻ con vì coi trẻ con
cũng là một động vật. Ở Úc có thời gian có bang đã cấm nhập.
[2] Ban thi đua khen thưởng thành phố.
[3] Giày Kosygin: Giày da do Liên Xô viện trợ thời chống Mỹ. Dành cho các sĩ quan quân đội. Kosygin là tên thủ tướng Liên Xô lúc đó.