← Quay lại trang sách

Chương 4 Ngay Trước Trận Xta:Lin:Grát.

Dự tính địch sẽ tấn công chủ yếu ở đâu? – Tình hình trung lưu sông Đôn ngày càng trở nên trầm trọng. – Tổng tư lệnh tối cao ngừa trước nguy cơ ở sườn bên phải mặt trận. – A. M. Va-xi-lép-xki tại các đơn vị bộ đội. – Lệnh không được lùi một bước. – Các nhà chiến lược của Hít-le phân đôi lực lượng. – Dự thảo chỉ thị về nguyên nhân thất bại ở miền Nam không được thông qua. – Sĩ quan Bộ tổng tham mưu báo cáo tình hình Xta-lin-grát. – Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu phân tích tình hình. – “cần đi tìm một giải pháp khác” – Ý đồ diệt địch ở Xta-lin-grát hình thành như thế nào. – Ý đồ chiến dịch.

Tiết trời tháng Bảy 1942 thật là oi bức, khô hanh. Tôi có cảm tưởng như thép và đá đang nóng chảy dưới nắng mặt trời thiêu đốt. Khắp nơi bao trùm một không khí nóng nực không chịu nổi, thế nhưng trong các bản tin chiến sự của các mặt trận chỉ cho biết ngắn gọn khi đề cập đến tình hình chiến sự thôi vì điều chủ yếu không phải là thời tiết. Các sự kiện tại mặt trận Xô – Đức vẫn diễn biến bất lợi cho ta như trước.

Tại miền Nam, địch đã xông lên phía trước. Cần phải tìm ra những biện pháp để phá vỡ các mưu đồ của địch và diệt tan các đơn vị của chúng. Văn phòng Đại bản doanh của ta lẫn đại bản doanh của Hít-le phần nào cũng là chiến trường đọ trí giữa các nhà chiến lược của hai bên. Nhiều điều không chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của các lực lượng cũng như các phương tiện của mỗi bên, mà còn phụ thuộc vào việc bên nào tìm ra được những phương pháp và hình thức chiến đấu tốt nhất, rốt cuộc có thể tạo ra bước ngoặt trong quá trình chiến tranh. Tất cả các cán bộ trong Bộ tổng tham mưu xô-viết đều hiểu điều đó và làm việc tận tụy theo hết khả năng của con người.

Tổng tư lệnh tối cao không nghi ngờ gì rằng nhiệm vụ chủ yếu của quân Đức vẫn như cũ: đánh chiếm Mát-xcơ-va. Tháng Bảy 1942, Bộ tổng tham mưu cũng tính đến điều đó khi phân tích tình huống tác chiến-chiến lược chung và những sự kiện trên sườn phía Nam mặt trận Xô – Đức. Cần phải quyết định hướng nào là hướng chính trong hai hướng – Cáp-ca-dơ hay Xta-lin-grát.

Việc phân bổ các đơn vị bộ đội vả các phương tiện vật chất, việc sử dụng các lực lượng dự trữ chiến lược, các hình thức hiệp đồng tác chiến giữa các phương diện quân, tính chất những biện pháp đã được chuẩn bị và nhiều điều khác nữa đều tùy thuộc vào sự quyết định đó.

Trong Bộ tổng tham mưu, các đồng chí cân nhắc rằng đối với địch, hướng Cáp-ca-dơ gắn liền với sự cần thiết phải vượt qua chướng ngại lớn là núi với một hệ thống đường sá thuận lợi tương đối kém phát triển. Muốn chọc thủng được phòng tuyến của ta trên núi thì các lực lượng hiện có phải lớn và sau này phải bổ sung thêm nhiều quân và trang bị kỹ thuật.

Phương tiện tấn công chủ yếu của địch là rất nhiều xe tăng, chúng chi có thể tung hoành trên các cánh đồng Cu-ban, còn trong điều kiện núi non thì chúng bị mất một phần đáng kể khả năng chiến đấu của chúng. Tình hình quân đội Hít-le ở Cáp ca-dơ sẽ trở nên khó khăn thêm nhiều do chỗ phương diện quân Xta-lin-grát của ta và các đơn vị tập trung ở vùng phía Nam Vô-rô-ne-giơ có thể đe dọa bên sườn và sau lưng chúng trong điều kiện thuận lợi.

Nhìn chung, Bộ tổng tham mưu cho rằng quân đội Hít-le khó có thể triển khai các hoạt động chủ yếu của chúng ở Cáp-ca-dơ. Theo nhận định của các cán bộ Bộ tổng tham mưu, địch có triển vọng chọn hướng Xta-lin-grát hơn. Ở đây, địa hình thuận lợi cho tất cả các binh chủng tiến hành những hoạt động chiến đấu rộng lớn, và cho tới sát sông Vôn-ga thì ngoài sông Đôn ra, không có những chướng ngại sông ngòi ao hồ gì lớn cả. Nếu địch tiên được đến sông Vôn-ga thì tình binh các phương diện quân Liên Xô sẽ trở nên hết sức gay go, và đất nước sẽ bị cắt khỏi các nguồn dầu mỏ ở Cáp-ca-dơ, các tuyến đường mà quân đồng minh cung cấp cho chúng ta qua I-ran cũng sẽ bị phá hoại.

Cộng tác chặt chẽ với các trợ lý tác chiến, với các đồng chí quân báo và với các cán bộ khác của Bộ tổng tham mưu, A. M. Va-xi-lép-xki trực tiếp phân tích tình hình tại các mặt trận và báo cáo tất cả những sự suy tính đó lên Tổng tư lệnh tối cao. Xta-lin xem xét những ý kiến ấy trên tình thế Mát- xcơ-va bị đe dọa và đồng ý rằng cần phải thừa nhận hướng Xta-lin-grát là hướng chủ yếu.

Nhưng, như sau này mọi người đều biết, các nhà chiến lược phát-xít Đức lại coi hướng cố gắng chủ yếu của chúng là Cáp-ca-dơ. Chúng dự định lúc đầu nhanh chóng ập vào Bắc Cáp-ca-dơ để dùng xe tăng đánh bọc và chia cắt phương diện quân Nam tại vùng hạ lưu sông Đôn, tại khu vực phía Nam và phía Đông – Nam Rô-xtôp.

Theo sự tính toán của chúng, trong khi quân bộ binh tiêu diệt các đơn vị bộ đội Liên Xô đang bị chui vào thòng lọng thì các lực lượng cơ động của quân Đức sẽ nhanh chóng tràn vào vùng trước núi Cáp-ca-dơ và theo các con đường chính qua núi tiến tới vùng ven Biển Đen, Ba-cu và vào Da-cáp-ca-dơ. Hỗ trợ cho các lực lượng cơ động đó từ phía eo Kéc-tsơ sẽ có các binh đoàn thuộc tập đoàn quân 11 được điều từ Crưm sang. Chúng cho rằng trên các con đường hiểm trở qua triền núi Cáp-ca-dơ chính, các binh đoàn núi được huấn luyện đặc biệt sẽ đảm bảo thắng lợi.

Còn ở bên kia Cáp-ca-dơ… ở bên kia Cáp-ca-dơ thì bọn Hít-le đã hình dung thấy những triển vọng hấp dẫn của cuộc hành binh thắng lợi vào Cận Đông để hợp nhất với Rôm-men và vào Ấn Độ. Địh định dùng các lực lượng chủ yếu của Cụm tập đoàn quân “A”, trong đó có tập đoàn quân xe tăng 1, nhiều máy bay và bộ binh cơ giới, để tiến tới Bắc Cáp-ca-dơ và đánh bọc sâu phương diện quân Nam.

Ngày 22 tháng Bảy, tại khu vực Nô-vô-tséc-cát-xcơ và Rô-xtốp, địch đã tìm cách cắt đôi phòng tuyến của tập đoàn quân 56 và của các đơn vị bộ đội khác thuộc phương diện quân Nam của ta, vượt sông Đôn trước, trực tiếp đánh bọc từ phía Đông, bao vây và tiêu diệt các đơn vị này. Tại khu vực mặt trận lớn từ Txim-li-an-xcai-a (địch đã chiếm được nơi này) cho tới Rô-xtốp đã hình thành một vị trí xuất phát thuận lợi cho quân Đức tiến vào Cáp-ca-dơ.

Đồng thời với cuộc hành binh vào Cáp-ca-dơ, đại bản doanh Hít-le dự định mở một cuộc tấn công rộng lớn tại vùng trung lưu sông Đôn và hạ lưu sông Vôn-ga. Tại khu vực mặt trận Xta-lin-grát, dưới sự yểm trợ của một số lượng lớn xe tăng thuộc tập đoàn quân xe tăng 4 và của không quân cũng như của quân chư hầu, Cụm tập đoàn quân “B” mà thành phần bao gồm cả tập đoàn quân Đức 6, có nhiệm vụ phải lập các trận địa phòng thủ trên sông Đôn và đồng thời đánh vào Xta-lin-grát, diệt tan các đơn vị bộ đội Liên Xô, chiếm thành phố và phá vỡ việc vận chuyển của ta dọc sông Vôn-ga.

Nhiệm vụ dường như là tổng hợp: một mặt, chuẩn bị các trận địa phòng thủ có thể đảm bảo cho bên sườn và sau lưng quân Hít-le trên hướng Cáp-ca-dơ; mặt khác, đánh chiếm Xta-lin-grát.

Để thực hiện nhiệm vụ đó, bộ chỉ huy quân Đức dự tính lúc đầu sẽ bao vây và bứt tập đoàn quân 62 ra khỏi đội hình chung của bộ đội Liên Xô. Việc đó sẽ đưa tới chỗ hình thành một chỗ thủng lớn trên phòng tuyến của phương diện quân Xta-lin-grát và sẽ cho phép địch tiến tới sông Vôn-ga phía Bắc Xta-lin-grát. Đồng thời cũng sẽ chuẩn bị một của đột phá như vậy ở phía Nam Xta-lin-grát.

Tất cả những cuộc tấn công đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho địch bao vây các đơn vị bộ đội Liên Xô trên quy mô lớn hơn nữa. Vì trong trường hợp địch đột phá được tới sông Vôn-ga thì tất cả các lực lượng của ta trên hướng đó sẽ có nguy cơ bị quân địch từ phía Bắc và phía Nam đánh vào sau lưng. Bọn Hít-le thực sự hy vọng sẽ giành được những kết quả hết sức to lớn vì các đơn vị bộ đội Liên Xô sẽ bị diệt tan và toàn bộ vùng hạ lưu sông Vôn-ga sẽ nằm trong tay chúng. Những ý đồ của bộ máy lãnh đạo chiến lược phát-xít Đức là như vậy.

Tôi xin nói trước rằng các sự kiện ở miền Nam nước ta đã diễn ra không như kẻ địch mong muốn. Giới tinh hoa quân sự tụ tập xung quanh Hít-le đã tỏ ra quá tự tin. Các tướng lĩnh Đức cho rằng không những việc quân Đức bao vây và tiêu diệt các đơn vị bộ đội Liên Xô rút ra ngoài Rô-xtốp tới các vùng thảo nguyên Bắc Cáp-ca-dơ, mà cả việc chiếm vùng ven Biển Đen, khu vực Ba-cu và Da-cáp-ca-dơ, – cũng đều là tiền định.

Tụi Hít-le mong sẽ nổ ra một cuộc tương tàn giữa các dân tộc thuộc vùng Cáp-ca-dơ gồm nhiều dân tộc, nêu chúng không hy vọng vào sự giúp đỡ của các dân tộc đó thì cũng hy vọng vào sự đồng tình của họ. Theo suy nghĩ của các chính khách phát-xít, điều đó sẽ mở ra một “đường phố xanh” cho quân chiếm đóng và do đó sẽ đưa tới chỗ tách Cáp-ca-dơ ra khỏi đất nước xô-viết. Trên đoàn xe quân địch thất thểu một số tên vương hầu và quan lại thuộc bọn bạch vệ còn sống sót. Tụi này sẽ giúp cho Đế chế Đức thiết lập chính quyền ở Cáp-ca-dơ. Vị tất cần phải nói rằng những hy vọng đó ngay từ đầu đã không tránh khỏi bị phá sản.

Các nhà chiến lược Đức cũng cho rằng bộ chỉ huy Liên Xô không thể kịp thời tổ chức phòng thủ Cáp-ca-dơ một cách vững chắc được và lại càng không thể tập trung một khối lượng lớn quân đội tại khu vực mặt trận Xta-lin-grát để tạo ra nguy cơ sau lưng cánh quân Cáp-ca-dơ của chúng.

Đón trước các sự kiện, đại bản doanh Hít-le quyết định: các lực lượng hiện có ở đây là hoàn toàn đủ để giải quyết các nhiệm vụ quân sự ở miền Nam. Vì vậy, chúng điều tập đoàn quân 11 từ Crưm không phải sang Cáp-ca-dơ mà là tới gần Lê-nin-grát. Tại đây, tập đoàn quân này đã bị các đơn vị bộ đội phương diện quân Vôn-khôp đánh cho tơi bời vào tháng Tám 1942.

Rốt cuộc, những ý đồ của địch ở miền Nam không được đảm bảo những lực lượng và phương tiện cần thiết cho nên đã bị thất bại. Song địch vẫn liều lĩnh cố sức thực hiện những mưu đồ đó và gây cho ta nhiều sự phiền toái.

Lợi dụng thế chủ động nắm trong tay, từ 17-22 tháng Bảy, tập đoàn quân Đức 6 của tên tướng Pao-lút đã tấn công tại khu vực mặt trận Xta-lin-grát. Chúng đã đánh bại được các đội quân tiên phong của ta tại sông Tsi-rơ và sông Txim-la tiến sát tới tiền duyên phòng thủ của các lực lượng chủ yếu ở tuyến Clét-xcai-a, Xu-rô-vi-ki-nô, Véc-khơ-ne – Cuốc-mô-i-ác-xcai-a. Lúc này, trên thực tế, địch đã bắt đầu thực hiện ý đồ bao vây và tiêu diệt tập đoàn quân 62 thuộc phương điện quân Xta-lin-grát do thiếu tướng V. I-a, Côn-pác-tsi chỉ huy. Nhằm mục đích đó, từ ngày 22 tháng Bảy, chúng tập trung đánh dữ dội ở vùng Ca-la-trơ vào hai bên sườn của tập đoàn quân 62.

Các cán bộ Bộ tổng tham mưu xô-viết biết trước tương đối rõ tập đoàn quân của Pao-lút sẽ tấn công như thế nào, ở đâu và nhằm mục đích gì. Việc phân tích các trận đánh của các đội quân Đức đi trước và những hoạt động chiến đấu tiếp theo cho thấy rằng địch đang cố sức đột phá tới sông Vôn-ga. Bộ tổng tham mưu không hề nghi ngờ rằng bộ chỉ huy Hít-le sẽ hành động theo các quy tắc của nghệ thuật quân sự cổ điển và tiến hành mưu toan kẹp tập đoàn quân 62 vào gọng kìm, đồng thời từ phía Bắc – từ vùng Bô-cốp-xcai-a – và từ phía Nam – từ vùng Mô-rô-dôp-xcai-a – đánh vào các khu vực mặt trận tiếp giáp nhau ở gần Ca-la-trơ. Sự khống chế trên không sẽ đảm bảo cho quân địch những ưu thế hết sức quan trọng.

Thấy trước được các sự kiện có tính chất quyết định và để nhằm chống phá ý đồ của bộ chỉ huy Hít-le, phương diện quân Xta-lin-grát được giao nhiệm vụ hết sức gấp rút tổ chức các tập đoàn quân xe tăng 4 và 1 ở các vùng I-lô-vli-a và Ca-la-trơ. Thiếu tướng V. Đ. Cri-u-tren-kin được chỉ định làm tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 4, còn thiếu tướng C. X. Mô-xca-len-cô làm tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 1.

Ngày 23 tháng Bảy, các lực lượng lớn xe tăng và bộ binh địch đánh thọc sâu vào phòng tuyến của ta ở sườn bên phải tập đoàn quân 62. Từ trên không, chúng được sự yểm trợ của một lực lượng không quân rất mạnh.

Kết quả cuộc tấn công ồ ạt của quân địch ở những khu vực khác nhau của sườn Nam mặt trận Xô – Đức đã được xem xét tỉ mỉ tại Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao Liên Xô. Khu vực mặt trận Xta-lin-grát được thừa nhận là khu vực đặc biệt nguy hiểm.

Vào chiều tối, I. V. Xta-lin liên lạc bằng máy điện báo với Hội đồng quân sự phương diện quân. Tư lệnh phương diện quân, tướng V. N. Goóc-dốp, báo cáo rằng trong số 150 xe tăng Đức tham chiến thì có 35 xe tăng bị diệt, tuy vậy địch vẫn không bị chặn lại. Không còn nghi ngờ gì rằng bọn Hít-le đang xông tới Xta-lin-grát.

Tổng tư lệnh tối cao đánh điện cho Goóc-đốp: “Cái chính hiện nay không phải là chỗ qua sông ở Txim-li-an-xcai-a… mà là sườn bên phải của phương diện quân. Địch tung các đơn vị của chúng vào khu vực Txim-la để đánh lạc hướng chú ý của ta về phía Nam, giữa lúc đó thì chúng lén lút đưa các lực lượng chủ yếu vào sườn bên phải của phương diện quân. Sở dĩ kế nghi binh đó của địch thành công là vì trinh sát của ta không vững. Cần lưu ý vấn đề này và cần phải bằng mọi cách tăng cường sườn bên phải của phương diện quân”.

I. V. Xta-lin yêu cầu phải tập trung chín phần mười tổng số lực lượng không quân ở sườn bên phải. “Không cần chú ý tới sự nghi binh và những trò ảo thuật của địch ở khu vực Txim-la và phải chuyển toàn bộ lực lượng chiến đấu, tôi xin nhắc lại sang sườn bên phải của phương diện quân”, – đồng chí ra lệnh và cho biết về những lực lượng và phương tiện mà Đại bản doanh cấp cho phương diện quân, về việc duyệt y phương án tổ chức các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 của ta.

“Xin đồng chí lưu ý rằng, -Tổng tư lệnh tối cao ngừa trước Goóc-đốp, – nếu địch chọc thủng được sườn phải, tới gần sông Đôn đến vùng Gum-rắc hoặc quá về phía Bắc thì chúng sẽ cắt đứt các tuyên giao thông đường sắt của ta với phía Bắc. Vì vậy, lúc này tôi coi sườn bên phải phương diện quân của đồng chí là có tính chất quyết định”.

Tổng tư lệnh tối cao còn giao cho phương diện quân một nhiệm vụ quan trọng nữa, có ảnh hưởng đáng kể tới tiến trình tiếp sau của trận đánh Xta-lin-grát:

“Tôi yêu cầu phải tuyệt đối giữ vững tuyến phòng thủ phía Tây sông Đôn, từ Cli-ốt-xcai-a qua Rô-giơ-côp-xcai-a cho tới Hạ Ca-li-nôp-ca.

Bằng bất kỳ giá nào, phải tiêu diệt địch đang thọc sâu vào tuyến đó thuộc khu vực hoạt động của sư đoàn cận vệ (ý muốn nói tới sư đoàn bộ binh cận vệ 33. – X. S.). Các đồng chí có lực lượng để làm việc đó và các đồng chí phải thực hiện được việc ấy. Tôi kiên quyết cấm không được rút khỏi phòng tuyến đã định…”

V. N. Goóc-dốp đã hiểu rõ mọi việc. Song I. V. Xta-lin còn giải thích rõ thêm về tướng V. I-a. Côn-pác-tsi, tư lệnh tập đoàn quân 62: “xin lưu ý rằng Côn-pác-tsi là một người nóng tính và dễ xúc cảm. Nếu điều được một đồng chí nào đó cương nghị hơn một chút tới củng cố tinh thần cho Côn-pác-tsi thì sẽ rất tốt, còn nếu bản thân Goóc-dốp tới chỗ đồng chí ấy được thì lại càng hay”.

Thấy nước rằng các sự kiện quan trọng đang chín muồi, Tổng tư lệnh tối cao phái đại diện Đại bản doanh là A. M. Va-xi-lép-xki cùng một tổ sĩ quan tới phương diện quân Xta-lin-grát với nhiệm vụ xem xét tình hình và giúp bộ tư lệnh phương diện quân.

Dưới con mắt của Tổng tham mưu trưởng, tình hình tại khu vực tập đoàn quân 62 quả là ngày càng trở nên nghiêm trọng, địch vẫn tiếp tục gây áp lực cả ở khu vực Cli-ốt-xcai-a, Ép-xtơ-ra-tốp-xki có khả năng giành được thắng lợi trông thấy: đột phá vào sâu trong phòng tuyến và bao vây hai sư đoàn của ta. Đánh bọc các lực lượng chủ yếu của tập đoàn quân 62, địch đã tiền gần tới sông Đôn. Việc đó khiến ta có nguy cơ bị những thất bại mới, nặng nề hơn và quân Hít-le có thể đột phá được vào Xta-lin-grát.

A. M. Va-xỉ-lép-xki cùng với bộ tư lệnh phương diện quân đành phải chấp nhận một giải pháp miễn cưỡng nhưng lại là duy nhất đúng đắn trong tình huống đó: lập tức dùng các lực lượng chưa được phiên chế xong của các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 để mở một cuộc phản công. Thời gian quý giá hơn hết thảy. Nêu chậm trễ và bỏ lỡ thời cơ thì địch sẽ vượt qua sông Đôn và chốt lại ở tuyến đã giành được. Lúc đó mà đẩy chúng lui trở lại sẽ là một việc cực kỳ khó khăn.

Các tư lệnh các tập đoàn quân xe tăng được lệnh hành động không chậm trễ bằng những lực lượng hiện có, diệt tan quân địch đang thọc sâu vào đội hình chiến đấu của ta và lập lại phòng tuyến. Nhiệm vụ là ở chỗ tấn công từ hướng Bắc và hướng Nam để nhổ tận gốc mũi thọc sâu của quân đội phát-xít.

Ngay từ 10 giờ ngày 25 tháng Bảy, một quân đoàn thuộc tập đoàn quân xe tăng 1 của C. X. Mô-xca-len-cô đã bước vào tấn công. Tiếp theo đó là các lực lượng khác của tập đoàn quân này. Các đơn vị của tập đoàn quân chiến đấu rất kiên cường, buộc địch phải chuyển sang phòng ngự và sau đó phải rút lui.

Rạng sáng ngày 27 tháng Bảy, được sự hỗ trợ đắc lực của bộ binh và pháo binh các tập đoàn quân 62 và 64, tập đoàn quân xe tăng 4 của V. Đ. Cri-u-tren-kin cũng bắt đầu tấn công…

Những ngày này đối với Bộ tổng tham mưu, vả chăng cũng như mọi ngày khác, thật cực kỳ căng thắng. Bây giờ tôi đang vùi đầu vào công việc chính của mình. Địch đã đến ngưỡng cửa Bắc Cáp-ca-dơ. Ngày 24 tháng Bảy, quân ta rời bỏ Rô-xtốp. Các đơn vị bộ đội phương diện quân Nam và phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ bắt đầu phòng thủ tại vùng hạ lưu sông Đôn. Ở đây, địch có ưu thế hơn bộ đội ta về xe tăng và máy bay và do đó cả về tính cơ động. Chúng ta không có phòng tuyến nào đáng kể ở phía Nam Rô-xtốp, đã được chuẩn bị để sẵn sàng chiến đấu.

Ở Bộ tổng tham mưu còn lại tướng P. G. Ti-khô-mi-rốp thay người phụ trách chính. Tổng tư lệnh tối cao yêu cầu Ti-khô-mi-rốp cho biết ý kiến xem nên lập tuyến phòng thủ Cáp-ca-dơ ở đâu và bằng cách nào. Sau khi tính toán cân nhắc mọi điều, Cục tác chiến chúng tôi đi tới kết luận rằng sẽ khó đánh xe tăng địch trên các vùng thảo nguyên Cu-ban, hơn nữa, ở Bắc Cáp-ca-dơ chúng ta có nhiều kỵ binh và có ít phương tiện chống tăng, các chướng ngại thiên nhiên thích hợp để tổ chức phòng thủ ở gần đó lại không có. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần lập phòng tuyến dọc theo sông Tê-rếch và các miền trước dãy núi Cáp-ca-dơ.

I. V. Xta-lin ra lệnh hỏi ý kiến tư lệnh phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ là X. M. Bu-đi-on-nưi và ủy viên Hội đồng quân sự là đô đốc I. X. I-xa-côp. Hai người trả lời rằng: “Phòng tuyến chủ yếu và cơ bản phải là con sông Tê-rếch và dãy núi Cáp-ca-dơ. Về phương diện tác chiến thì cần đặt tập đoàn quân 47 cùng quân đoàn bộ binh độc lập dưới quyền Hạm đội Biển Đen để phòng thủ các căn cứ hải quân Nô-vô-rô-xi-xcơ A-na-pa, Tu-áp-xe”. Như vậy, các quan điểm là trùng hợp nhau.

Ngoài ra, chúng tôi còn đề nghị một loạt biện pháp gắn liền với việc tổ chức các lực lượng dự bị ở Cáp-ca-dơ, tổ chức việc cung cấp cho bộ đội qua biển Ca-xpi-en và bằng đường bộ, với việc cấp máy bay cho phương diện quân, cũng như với các công việc khác thiết yếu cho việc phòng thủ.

Sau khi tổ chức cho các tập đoàn quân xe tăng phản công ở sông Đôn, A. M. Va-xi-lép-xki bay về Mát-xcơ-va để báo cáo với Đại bản doanh những kết luận và đề nghị của mình về phương diện quân Xta-lin-grát. Nhưng trong khi đồng chí đang bay thì ở dưới đất đã xảy ra những biến đổi: địch hạn chế diễn biến cuộc phản công của ta trong một phạm vị nhất định.

Đêm 25 rạng ngày 26 tháng Bảy, I. V. Xta-lin ra lệnh cho A-lếch-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích phải đích thân liên lạc với phương diện quân Xta-lin-grát và truyền đạt lời cảnh cáo nghiêm khắc sau đây: “Đại bản doanh dứt khoát yêu cầu Hội đồng quân sự phương diện quân… phải làm mọi việc để lập tức tiêu diệt địch đang đột phá và khôi phục lại tình hình”.

Ngày 26 tháng Bảy, Tổng tư lệnh tối cao hạ lệnh cho Va-xi-lép-xki truyền đạt cho phương diện quân một chỉ thị còn gay gắt hơn:

“Hoạt động của bộ tư lệnh phương diện quân Xta-lin-grát khiến cho Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao rất bực mình… Đại bản doanh yêu cầu rằng trong những ngày sắp tới, tuyệt đối phải lập lại tuyến Xta-lin-grát, phòng tuyến từ Cli-ốt-xcai-a cho tới Can-mư-cốp và đuổi địch sang bên kia tuyến sông Tsi-rơ. Nếu như Hội đồng quân sự phương diện quân không thể làm được việc đó thì xin hay nói thẳng và nói thật.

Đại bản doanh yêu cấu bộ tư lệnh phương diện quân Xta-lin-grát trả lời rõ về việc sẵn sàng thi hành chỉ thị này”.

A. M. Va-xi-lép-xki đứng hồi lâu bên máy để đợi câu trả lời của bộ tư lệnh phương diện quân, nhưng người ta không thể nào tìm ngay được tướng V. N. Goóc-dôp vì lúc ấy đồng chí đang ở các đơn vị tập đoàn quân 62. Câu trả lời đến hơi chậm một chút: bộ tư lệnh đoan chắc sẽ hoàn thành mọi chỉ thị của Đại bản doanh.

Cần nói rằng có lẽ Tổng tư lệnh tối cao cũng nhận thấy giọng nói cực kỳ gay gắt của chỉ thị đó là thiếu lý do xác đáng. Vấn đề là ngay trên chiến trường, địch đã chiếm ưu thế hơn ta, nhất là về xe tăng và máy bay. Biên chế phương diện quân Xta-lin-grát lúc đó gồm 38 sư đoàn. Trong một nửa số này thì mỗi sư đoàn có từ 6-8 nghìn quân, các sư đoàn còn lại thì mỗi sư đoàn chỉ có 1-3 nghìn quân. Với một lực lượng yếu như vậy mà phải chiến đấu trên một độ dài mặt trận 530 km.

Phương diện quân tất cả có 187 nghìn quân, 360 xe tăng, 337 máy bay chiến đấu còn hoạt động tốt, khoảng 7.900 pháo và súng cối; còn địch thì có 250 nghìn quân, gần 740 xe tăng, 1.200 máy bay, 7.500 pháo và súng cối. Như vậy, tương quan lực lượng có lợi cho địch: về người thì theo tỷ lệ 1,4: 1, về pháo và súng cối – 1:1, về xe tăng – 2:1, về máy bay – 3,6:1. Do đó, để thực hiện những nhiệm vụ giao cho phương diện quân, mỗi chiến sĩ đòi hỏi phải nỗ lực hết sức.

Tổng tư lệnh tối cao tuy biết rõ Hội đồng quân sự phương diện quân Xta-lin-grát đã đoan chắc rằng sẽ hoàn thành được những chỉ thị của Đại bản doanh, song đồng chí vẫn thấy cần phải lại cử A-lếch-xan-đrơ Mi-khai-lô-vích tới nơi nóng bỏng nhất của mặt trận Xô – Đức: tình hình đòi hỏi phải như vậy. Vào 1 giờ đêm ngày 27 thảng Bảy 1942, Tổng tham mưu trưởng đã có mặt tại sở chỉ huy phương diện quân Xta-lin-grát.

Sau đó, Tổng tư lệnh tối cao ra lệnh chuẩn bị một mệnh lệnh đặc biệt nghiêm ngặt: yêu cầu các đơn vị bộ đội tuyệt đối phải giữ vững các tuyến đang chiếm giữ. Theo đồng chí, nếu rút nữa về phía Đông thì đất nước có nguy cơ bị những tai họa nặng nề. I. V. Xta-lin quy định những điều cơ bản của bản mệnh lệnh và truyền lệnh cho Bộ tổng tham mưu phải thẩm tra kỹ lưỡng việc các đơn vị nhất thiết phải thi hành mệnh lệnh đó.

Theo tôi, mệnh lệnh này là một trong những văn kiện đáng chú ý nhất và quan trọng nhất của cuộc chiến tranh. Nó vẽ nên bức tranh chân thực về tình hình chung tại các mặt trận, tình trạng quân địch, đặt ra cho các đơn vị bộ đội Liên Xô những nhiệm vụ cấp bách.

Tình hình chung của đất nước được đánh giá một cách ngắn gọn và cô đọng như sau: “Tổ quoc ta đang trải qua những ngày gay go”. Mệnh lệnh yêu cầu rằng:

“…phải chấm dứt hẳn những lời nói trống rỗng rằng… chúng ta có nhiều đất đai, đất nước ta vĩ đại và giàu có, dân ta đông, lúa mì bao giờ cũng thừa thãi. Những lời nói như vậy là giả dối và có hại, chúng sẽ làm cho ta yếu đi và kẻ địch mạnh lên, bởi vì nều chúng ta không đình chỉ việc rút lui thì chúng ta sẽ không có lúa mì, không có nhiên liệu, không có kim loại, không có nguyên liệu, không có nhà máy và công xưởng, không có đường sắt… Đã đến lúc phải chấm dứt việc rút lui. Không được lùi một bước! Khẩu hiệu chủ yếu của chúng ta lúc này phải là như vậy”.

Tiếp nữa, chỉ thị còn nói rằng các đơn vị bộ đội phải chốt lại ở các tuyến đã chiếm giữ, sau đó phải đánh lui và diệt tan quân địch bằng bất cứ giá nào (do tôi gạch dưới – X. S.).

Việc nhận định tình hình quân địch và tính chất của giai đoạn chiến tranh trước mắt quả là hết sức nhìn xa thấy rộng. Nhận định đó có thể được coi là mẫu mực của tài tiên đoán chiến lược sâu sắc:

“Quân Đức không đến nỗi mạnh như những người hay hoang mang vẫn tưởng. Chúng đang dốc những lực lượng cuối cùng. Chống đỡ được cuộc tấn công của chúng trong một vài tháng tới có nghĩa là đảm bảo được thắng lợi cho chúng ta … Chúng ta có thể chống đỡ được cuộc tấn công đó không và sau đó đánh lùi kẻ địch về phía Tây được không? Được, chúng ta có thể làm được, bởi vì các nhà máy và công xưởng của chúng ta ở hậu phương hiện đang hoạt động rất cừ và tiền tuyến chúng ta ngày càng nhận được nhiều máy bay, xe tăng, pháo, súng cối”.

Dĩ nhiên, những thất bại ở mặt trận trong mỗi trường hợp cụ thể đều có nguyên nhân riêng của nó. Song bản mệnh lệnh nêu bật tình trạng chung có liên quan đến tất cả mọi chiến sĩ, nhấn mạnh điều cấp thiết nhất: “Chúng ta còn thiếu gì nữa? Thiếu trật tự và kỷ luật trong đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, ở các đơn vị xe tăng, các phi đội không quân. Đó là thiếu sót chính của chúng ta lúc này. Chúng ta phải lập lại trật tự hết sức nghiêm ngặt và kỷ luật sắt trong quân đội ta, nếu như chúng ta muốn cứu vãn tình thế và bảo vệ Tổ quốc chúng ta…”.

Bản mệnh lệnh chứa đựng nhiều yêu cầu thực tiễn. Tôi xin dẫn ra một yêu cầu trong số đó mà tôi thiết nghĩ là hết sức cơ bản: “Từ nay trở đi, yêu cấu không được lùi một bước nếu không có lệnh của bộ tư lệnh tối cao, – phải là kỷ luật sắt đối với mỗi cán bộ chỉ huy, mỗi chiến sĩ Hồng quân và mỗi cán bộ chính trị”.

Ngày 28 tháng Bảy 1942, với tư cách là bộ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, I. V. Xta-lin đã ký lệnh đỏ mang số 227. Nguyên văn được sao thành nhiều bản, gửi xuống các đơn vị bộ đội đang tác chiến và đọc cho toàn thể các chiến sĩ nghe. Sang ngày hôm sau, 29 tháng Bảy, Tổng cục chính trị Hồng quân ra chỉ thị giải thích bản mệnh lệnh đó cho các chiến sĩ và cán bộ chỉ huy. Toàn bộ ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ của các đảng viên cộng sản trong quân đội đều tập trung vào việc thực hiện tuyệt đối yêu cầu “Không được lùi một bước!”. Bộ tổng tham mưu giao trách nhiệm cho các sĩ quan của mình tại các đơn vị phải kiểm tra tại chỗ việc thi hành bản mệnh lệnh đó.

Ban chấp hành trung ương Đảng và Tổng cục chính trị đã tổ chức việc giải thích rộng rãi ý nghĩa của bản mệnh lệnh đỏ tại các đơn vị bộ đội, tầm quan trọng của việc kiên cường phòng thủ mọi tuyến trên mánh đất thân yêu. Các ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng, trong đó có Đ. D. Ma-nu-in-xki và Ê. M. I-a-rô-xláp-xki, nhiều nhà văn và nhà hoạt động xã hội đã đi ra mặt trận, trực tiếp xuống các đơn vị bộ đội.

Tất cả các cán bộ chính tri, tất cả các tổ chức Đảng đều thực hiện việc giải thích bản mệnh lệnh đó. Và không lấy gì làm lạ rằng bản mệnh lệnh số 227 đã có ảnh hưởng đặc biệt tốt tới sức chiến đấu của các đơn vị. Mỗi người đều thấm sâu tư tưởng về sự cần thiết phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và làm tất cả những gì có thể làm được để giành thắng lợi. Và trước hết là ở nơi mà tình hình đang đặc biệt nghiêm trọng: khu vực mặt trận Xta-lin-grát.

Cuộc phản công của các tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 thuộc phương diện quân Xta-lin-grát mặc dù chưa diệt tan được tập đoàn quân 6 của quân Đức, nhưng cũng đã làm rối loạn đáng kể hoạt động của địch và tạm thời làm mất khả năng tấn công của chúng. Chúng không bao vây được tập đoàn quân 62 của ta. Đồng thời, mưu toan của địch định lập tức chiếm các bến qua sông Đôn và tiến tới Xta-lin-grát, cũng bị phá sản. Bộ chỉ huy Hít-le biết rõ rằng: nếu chỉ tấn công bằng lực lượng của tập đoàn quân 6 thôi thì sẽ không thể chọc thủng được tới sông Vôn-ga. Và điều gì sẽ xảy ra nếu như bộ đội Liên Xô lại đánh lui được tập đoàn quân này?

Đối với đại bản doanh quân đội phát-xít Đức, giờ phút quyết định quan trọng đã đến. Phải xác định xem trong điều kiện tình hình ngày càng trở nên phức tạp ở vùng sông Đôn, các lực lượng quân chủ yếu phải đánh vào đâu ở sườn phía Nam: vào Cáp-ca-dơ hay tới sông Vôn-ga? Các nhà chiến lược Hít-le quyết định: đánh vào Xta-lin-grát! Kết quả lô-gích của quyết định đó là: tập đoàn quân xe tăng Đức 4, trước đây đang nhằm vào hướng Cáp-ca-dơ, từ bàn đạp quân sự ở Txim-li-an-xcai-a đột ngột quay ngoặt vào Xta-lin-grát.

Nhiều nhà sử học tư sản và nhất là các tướng lĩnh cũ của quân đội Hít-le coi quyết định đó là sai lầm riêng của “kẻ ngu dốt” là Hít-le. Song vấn đề hoàn toàn không phải là như vậy. Bộ chỉ huy Hít-le lúc này phải đền tội vì đã đánh giá quá cao những khả năng của mình, vì đã quá coi thường một đối thủ mạnh như Quân đội Liên Xô, vì đã không thấy trước khả năng ban lãnh đạo chiến lược Liên Xô có thể tạo ra được một cánh quân mạnh ở khu vực mặt trận Xta-lin-grát, gây nên nguy cơ bị diệt vong đối với các tập đoàn quân của quân đội phát-xít Đức đang nhằm hướng Cáp-ca-dơ.

Tình hình xuất hiện hồi cuối tháng Bảy ở sườn Nam mặt trận Xô – Đức có nghĩa là trong mọi điều kiện, đồng thời với các chiến dịch ở Cáp-ca-dơ, địch sẽ phá vỡ tuyến phòng thủ của ta ở khu vực mặt trận Xta-lin-grát. Mặc dù kẻ địch quá tự tin cho rằng ta không thể nào ngăn chặn được việc chúng chiếm Cáp-ca-dơ, nhưng chúng không thể không nhận rõ rằng để phương diện quân Xta-lin-grát bên sườn Cụm tập đoàn quân “A” thì khá nguy hiểm.

Chúng ta nhận thấy rằng quyết định dùng những lực lượng hiện có để vừa tấn công vào Cáp-ca-dơ, vừa tấn công vào Xta-lin-grát, hẳn là sai lầm của kẻ địch. Kết quả cho thấy khá rõ: hình thành một sự biến chuyển đột ngột có lợi cho ta trong quá trình của cuộc chiến tranh. Nhưng, để cho biến chuyển đột ngột đó trở thành một sự kiện, quân đội ta đã phải vượt qua nhiều thử thách gay go.

Kế hoạch sử dụng quân đội phát-xít Đức ở khu vực mặt trận Xta-lin-grát, – như viên tướng Đức G. Đuê-rơ đã viết trong cuốn sách “Chiến dịch Xta-lin-grát”, – “là đơn giản và rõ ràng”: hai tập đoàn quân (tập đoàn quân xe tăng 4 ở phía Nam và tập đoàn quân 6 ở phía Bắc Xta-lin-grát) tấn công theo hướng sông Vôn-ga, đến sông thì một tập đoàn quân quặt sang trái, một quặt sang phải và kẹp toàn bộ khu vực Xta-lin-grát cùng với các đơn vị phòng thủ của nó vào gọng kìm …

Thế nhưng thực hiện kế hoạch đó hóa ra không “đơn giản” như vậy!

Tại khúc ngoặt lớn của sông Đôn đã diễn ra những trận chiến đấu ngoan cường. Trong một thời gian nhất định, ta đã ổn định được phòng tuyến của các tập đoàn quân 62 và 64 thuộc phương diện quân Xta-lin-grát. Ta đã tranh thủ được thời gian cực kỳ quan trọng. Bộ tổng tham mưu đã thi hành mọi biện pháp để tập trung các đơn vị quân dự bị ở khu vực Xta-lin-grát – 10 sư đoàn bộ binh được điều tới đó. Tại các cửa ngõ xa gần của thành phố đã xây dựng các công sự bố phòng dã chiến.

Là người am hiểu rõ địa hình vùng này trong nội chiến, I. V. Xta-lin đích thân vạch các tuyến phòng thủ cho Bộ tổng tham mưu. Tổ chức Đảng ở Xta-lin-grát đã huy động nhân dân tham gia các công việc bố phòng. Hàng nghìn người dân thành phố đào hầm hào, hố chống tăng, xây dựng các cứ điểm phòng thủ bao quanh Xta-lin-grát. Mọi người làm việc khẩn trương, vội vã vì quân báo cho biết những tin đáng lo ngại: các binh đoàn thuộc tập đoàn quân Đức 6 trước đây đang phòng thủ tại khu vực Pa-vlôp-xcơ, Vê-sen-xcai-a, nay được thay bằng các đơn vị của tập đoàn quân I-ta-li-a 8 và được tập trung về khu vực mặt trận Xta-lin-grát. Bộ tổg tham mưu báo cáo với Đại bản doanh rằng trong thời gian sắp tới, đích sẽ bắt đầu ráo riết hoạt động gần Xta-lin-grát.

Bộ tổng tham mưu ước tính khả năng chỉ huy bộ đội ở khu vực Xta-lin-grát. Tuyến trận ở đây khá dài, địch có thể triển khai hoạt động không những sang Xta-lin-grát, mà còn xuống phía Nam nữa. Biên chế phương diện quân Xta-lin-grát bao gồm thêm cả tập đoàn quân 51 là tập đoàn quân phòng thủ ở bên kia sông Đôn, phía Nam Txim-li-an-xcai-a. Các đồng chí cho rằng nếu có hai binh đoàn mặt trận, chứ không phải một, hoạt động ở khu vực mặt trận Xta-lin-grát thì sẽ tốt hơn. Ý nghi đó càng được củng cố thêm khi người ta nhận thấy rằng tập đoàn quân xe tăng 4 của địch đang ngoặt sang phía Đông.

Ngày 5 tháng Tám, Đại bản doanh ra chỉ thị chia phương diện quân Xta-lin-grát thành hai phương diện quân – Xta-lín-grát và Đông – Nam. Tuyến phân định ranh giới chạy dọc theo chỗ nối giữa tập đoàn quân 62 và tập đoàn quân 64, từ Mô-rô-dôp-xcai-a qua Véc-khơ-ne – Tsi-rơ-xcai-a sang Xta-lin-grát (kể cả vị trí cuối cùng của phương diện quân Đông – Nam).

Ngày 6 tháng Tám, sau khi đã tập hợp và bố trí lại lực lượng, địch chuyển sang tấn công. Các mũi tiến công nhằm vào các sườn phía Bắc và phía Nam của các tập đoàn quân phòng thủ ở phía Tây sông Đôn. Bộ tổng tham mưu biết rõ ý đồ của bộ chỉ huy phát-xít Đức là cắt tập đoàn quân 62 và 64 khỏi Xta-lin-grát, nhưng trước mắt không có gì để đối phó với địch cả: các lực lượng dự bị chưa tới. Tại khu vực mặt trận Xta-lin-grát xuất hiện một tình thế đáng lo ngại, địch đã chiếm các bến qua sông Đôn. Bộ tư lệnh phương diện quân tỏ ra lo ngại thực sự về tính vững chắc của phòng tuyến.

Ngày 9 tháng Tám 1942, khi P. G. Ti-khô-mi-rốp từ mặt trận báo cáo tình hình cho I. V. Xta-lin thì Xta-lin ra lệnh truyền đạt rằng: “tôi lấy làm kinh ngạc về sự thiển cận và bối rối của đồng chí. Lực lượng đồng chí có nhiều, nhưng đồng chí thiếu nghị lực để khắc phục tình hình. Tôi đợi đồng chí cho biết về việc thủ tiêu tình thế đáng lo ngại ở mặt trận đồng chí”.

Sau đó cũng không thấy có một thông báo nào đáng lạc quan từ mặt trận cả. Địch tăng cường gây sức ép. Các chiến sĩ xô viết quyết tử song tình hình vẫn ngày một nghiêm trọng hơn. Xta-lin-grát sắp phải trở thành một chiến trường trực tiếp. Sau khi trở về Bộ tổng tham mưu được một thời gian ngắn, A. M. Va-xi-lép-xki lại được Tổng tư lệnh tối cao cử đi Xta-lin-grát.

Ở Bộ tổng tham mưu thay cục trưởng Cục tác chiến mới. Việc đó xảy ra như sau. Vào khoảng những ngày chuẩn bị bản mệnh lệnh số 227, Tổng tư lệnh tối cao đề nghị tướng P. G. Ti-khô-mi-rốp suy nghĩ về những nguyên nhân thất bại ở Khác-cốp. Đồng chí nói thêm rằng lúc đó ban chỉ huy tất cả các cấp đã phạm những sai lầm và cần phải làm sao cho những người khác không lặp lại những sai lầm ấy.

Ti-khô-mi-rốp ngồi chuẩn bị dự thảo chỉ thị. Cùng với các sĩ quan khác, tôi cũng phải báo cáo với đồng chí ấy những số liệu về phương diện quân Nam mà các đơn vị của nó lúc này đã nhập vào biên chế của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ và tiến hành những hoạt động phòng thủ gay go ở phía Nam Rô-xtôp trên khu vực mặt trận có thể nói là do tôi phụ trách. Các báo cáo của các phương diện quân, những số liệu về sự thiệt hại, các băng ghi các cuộc trao đổi ý kiến bằng điện báo và những tài liệu khác, được dùng làm tài liệu cho bản chỉ thị.

Chúng tôi không biết I. V. Xta-lin muốn có một dự thảo chỉ thị như thế nào về những nguyên nhân thất bại của chúng ta ở miền Nam vào mùa hè 1942. Song đồng chí ấy không những không hài lòng với bản dự án đó, mà còn coi nó là có hại. Tổng tư lệnh tối cao không chấp nhận dự án này, còn tác giả của nó thì cho thôi giữ chức cục trưởng Cục tác chiến và sau đó được điều hẳn khỏi Bộ tổng tham mưu. Tháng Chín 1942, Pi-ốt Gê-oóc-ghi-ê-vích được chỉ định làm phó tư lệnh tập đoàn quân 42 thuộc phương diện quân Lê-nin-grát. Thiếu tướng V. Đ. I-va-nốp đảm nhận chức trách cục trưởng Cục tác chiến.

Để tiến công tới sông Vôn-ga, địch lợi dụng những khoảng trống nhỏ nhất trong đội hình tác chiến của các đơn vị bộ đội Liên Xô và lập tức tung xe tăng vào đó với sự yểm trợ mạnh mẽ của máy bay ném bom và máy bay cường kích oanh tạc dữ dội từ trên không. Sau xe tăng là bộ binh. Các trận đánh diễn ra ác liệt và cứ ngày một tới gần Xta-lin-grát.

Bộ tổng tham mưu buộc phải suy nghĩ đến tình hình ngay trong thành phố là nơi đã trở thành hậu tuyến gần nhất của bộ đội và có nguy cơ trở thành mặt trận. Từ nơi đó đã truyền về những tin bất lọi. Dân sơ tán từ phía Tây về sống định cư ở đó đang trong tình cảnh gay go dưới những trận oanh tạc của máy bay phát-xít. Các sĩ quan Bộ tổng tham mưu tại phương diện quân Đông – Nam đứng đầu là N. V. Rê-dơ-nhi-cốp được giao nhiệm vụ kiểm tra tình hình trong thành phố. Đúng 2-3 ngày sau, ngày 20 tháng Tám, nhận được báo cáo từ Xta-lin-grát gửi về.

Rê-dơ-nhi-cốp viết:

“Dân cư trú ở thành phố quá đông. Thậm chí tới mức người ta sống dưới bờ rào, trong vườn, trên bờ sông Vôn-ga, trên thuyền v. v.. Việc sơ tán khỏi thành phố diễn ra quá chậm chạp do không có đủ phương tiện vận chuyển và do ban sơ tán hoạt động tồi: những người chờ phương tiện vận chuyển phải nằm lại ở trạm sơ tán từ 5-6 ngày đêm.

Tất cả các trường học và câu lạc bộ đều chật ních những người bị thương. Các bệnh viện vẫn ở lại trong thành phố. Việc che chắn ánh sáng rất tồi…

Về phía mình, tôi thấy cần phải làm những việc sau đây:

1. Chuyển thành phố sang tình trạng giới nghiêm.

2. Đẩy nhanh việc sơ tán khỏi thành phố. Trước hết sơ tán các bệnh viện và sau đó là sơ tán dân cư thành phố. Chỉ để lại trong thành phố những người dân làm việc tại các xí nghiệp và có thể giúp được bộ đội phòng thủ thành phố. Chỉ để lại những tài sản nào cần thiết cho việc phòng thủ thành phố mà thôi.

3. Lập lại trật tự lý tưởng trong thành phố; để làm việc đó cần cử một đồng chí có tính nghiêm khắc cao làm tư lệnh quân quản thành phố Xta-lin-grát.

4. Để giữ gìn trật tự cách mạng trong thành phố, nhất thiết phải đặt các đơn vị của Bộ dân ủy nội vụ và công an dưới quyền người phụ trách bộ đội đóng ở đây, hoạt động và rút lui hoàn toàn theo lệnh của đồng chí này.

5. Khi bắt đầu trận đánh, không cho phép các cơ quan hậu cần hay các đơn vị bộ đội khác đi qua thành phố, mà phải đi vòng phía Bắc Xta-lin-grát”.

Công việc đòi hỏi phải có sự can thiệp cấp bách của các cơ quan lãnh đạo cao nhất. Vla-đi-mia Đmi-tơ-ri-ê-vích I-va-nôp, bây giờ phụ trách Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu, gửi cho tư lệnh phương diện quân Đông – Nam một bản hướng dẫn việc chấn chỉnh lại trật tự trong thành phố. Một bản sao gửi cho N. M. Svéc-nich “để thi hành các biện pháp”. Bây giờ N. M. Svéc-ních là trưởng ban sơ tán các xí nghiệp và tài sản quốc gia khác ra khỏi vùng chiến sự vào sâu trong đất nước. Ngày 22 tháng Tám, trong báo cáo N. V. Rê-dơ-nhi-cốp có nêu thêm vấn đề cần ra chỉ thị của Đại bản doanh và hướng dẫn của Tổng tham mưu trưởng cho ai, và đã hình thành một quyết nghị thích ứng về Xta-lin-grát.

Những biện pháp đó thật vô cùng đúng lúc. Ngày 23 tháng Tám 1942, triển khai mũi tấn công vào sườn phải tập đoàn quân 62 của ta, các đơn vị xe tăng và cơ giới của địch vọt tiến tới sông Vôn-ga sát vùng ngoại ô phía Bắc Xta-lin-grát. Tập đoàn quân 62 bị cắt đứt khỏi các lực lượng cơ bản của phương diện quân Xta-lin-grát. Đồng thời, chi đội không quân 4 của Đức cũng ném bom bắn phá dữ dội xuống thành phố và gây nên những sự hủy hoại lớn, mặc dù bản thân chúng kiểm lại thấy mất 90 máy bay bị phi công Liên Xô và pháo cao xạ bắn rơi.

Đường dây liên lạc bằng điện thoại và điện báo với Xta-lin-grát bị cắt đứt. Thủ trưởng cũ của chúng tôi A. M. Va-xi-lép-xki, nằm ở các đơn vị tập đoàn quân 62 buộc phải báo cáo với Tổng tư lệnh tối cao qua các sóng ngắn của ra-đi-ô. Các điện thoại viên và điện báo viên tiến hành mọi biện pháp để khôi phục đường dây liên lạc. Chật vật lắm họ mới chuyển được cho chúng tôi thông báo của Hội đồng quân sự phương diện quân Đông – Nam về việc địch đã tiến tới sông Vôn-ga. Đến đêm khuya, đường dây mới được ổn định và Đại bản doanh mới trực tiếp nhận được của A. M. Va-xi-lép-xki ý kiến nhận định tỷ mỉ đặc điểm tình hình khu vực Xta-lin-grát.

Lỗ đột phá của địch tới sông Vôn-ga phía Bắc Xta-lin-grát bị hạn chế trong phạm vị nhất định. Địch không thể lập tức chiếm được thành phố, các tập đoàn quân 62 và 64 vẫn vững vàng mặc dù tình hình cực kỳ gay go. Bộ đội thành phố anh hùng kháng cự dũng cảm và một thời gian dài chôn chân cánh quân xung kích lớn của quân đội phát-xít Đức. Các lực lượng bổ sung cơ bản của địch và các tập đoàn quân chư hầu của nó đã được điều tới chính nơi đây. Khu vực Xta-lin-grát đã trở thành nơi quyết định nhiệm vụ chiến lược cơ bản trong giai đoạn đó của cuộc chiến tranh.

Vào đầu tháng Chín, tình hình các tập đoàn quân 62 và 64 tiếp tục xấu đi Ta không tiêu diệt được số quân địch đã đột phá tới sông Vôn-ga. Đại diện Hội đồng quốc phòng Nhà nước Gh. M. Ma-len-cốp và đại diện Đại bản doanh – đại tướng Gh. C. Giu-cốp, cùng thượng tướng A. M. Va-xi-lép xki đã có mặt tận nơi. Nhiệm vụ cơ bản của họ là tìm ra các biện pháp tiêu diệt số quân địch đã đột phá tới sông Vôn-ga và đảm báo thắng lợi cho sự phòng thủ của ta ở Xta-lin-grát.

Hai bên tham chiến gần Xta-lin-grát lúc đó đều tìm cách giải quyết các nhiệm vụ mà không thay đổi một cách căn bản cánh quân đã hình thành vào cuối tháng Tám. Cánh quân Liên Xô không có một sự tập trung lực lượng rõ ràng, kể cả ở phía Bắc Xta-lin-grát. Đó chính là một trong những nguyên nhân khiến cho mọi cố gắng tiêu diệt số quân địch đã đột phá tới sông Vôn-ga, – bị thất bại. Ngoài ra, tên tướng Pao-lút, tư lệnh tập đoàn quân Đức 6, ước đoán rằng Hồng quân sẽ giáng những đòn phản công ở chính phía Bắc thành phố, cho nên đã tập trung ở đây những lực lượng và phương tiện hết sức lớn.

Các đơn vỉ quân phát-xít Đức có thể bám chắc được hành lang tới sông Vôn-ga do chúng tạo ra, còn lực lượng các tập đoàn quân của ta – tập đoàn quân xe tăng 4, các tập đoàn quân cận vệ 24 và 1 cũng như tập đoàn quân 66 – thì đã bị giảm sút rõ rệt qua các trận chiến đấu liên tục. Địch ngày một tăng cường cố gắng của chúng ở ngay Xta-lin-grát. Không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, không đánh lạc các lực lượng địch sang các hướng khác thì không thể nào giữ được Xta-lin-grát. Vì vậy, do sự cần thiết cho nên các cuộc tấn công của các tập đoàn quân Liên Xô nói trên được lặp đi lặp lại nhiều lần

Ta cũng có những thiếu sót trong việc chỉ huy bộ đội Liên Xô ở khu vực Xta-lin-grát. Bộ tổng tham mưu nhanh chóng nhận thấy điều đó, vì vào giai đoạn cực kỳ quan trọng của cuộc chiến đấu giữ Xta-lin-grát thì bỗng nhiên những báo cáo chiến sự tới Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao từ đó gửi về rất chậm. Ph. E. Bô-cốp lúc đó ở lại thay Tổng tham mưu trưởng, có lẽ sau khi bị I. V. Xta-lin khiển trách về việc thông báo từ mặt trận thường xuyên đến chậm, cho nên đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng Chín 1942, đồng chí liên lạc bằng máy điện báo với tham mưu trưởng phương diện quân Xta-lin-grát là tướng Đ. N. Ni-ki-sép. Sau đây là cuốn băng ghi cuộc nói chuyện giữa hai người:

“— Đồng chí Ni-ki-sép, tại sao bao giờ đồng chí cũng chậm gửi báo cáo tình hình chiến sự cho đồng chí Xta-lin như vậy?

- Xin báo cáo: Một là, tình hình chỉ huy (liên lạc) giữa chúng tôi với các tập đoàn quân và nhất là trong các tập đoàn quân, – không được tốt. Hai là, ban tác chiến và nói chung là cơ quan tham mưu làm việc ở bốn địa điểm: Xta-lin-grát, Cra-xnai-a Xlô-bô-đa, I-va-nôp-ca và Ôn-khôp-ca. Xin báo cáo thật là tôi đang bận quá nhiều việc. Trên thực tế, tôi vừa thực hiện chức trách trưởng ban, vừa thực hiện tất cá các chức trách khác… Đó là lý do tại sao báo cáo được gửi đến chậm. Vấn đề này sẽ được điều chỉnh, vào những ngày sắp tới cơ quan tham mưu sẽ họp. Còn bây giờ xin báo cáo tình hình …

- Đồng chí hãy cố gắng thu xếp rành mạch hoạt động của cơ quan tham mưu. Cần thực hiện các chỉ thị của Đại bản doanh và những hướng dẫn của Bộ tổng tham mưu đúng thời hạn quy định. Hết.

- Vâng, sẽ cố gắng. Tôi sẽ thu xếp trong thời gian sắp tới. Rõ. Sẽ thực hiện đúng như đồng chí chỉ thị”.

Thật vẻ vang cho cơ quan tham mưu phương diện quân, cần phải nói rằng chẳng bao lâu, việc chỉ huy bộ đội trên thực tế đã được cải thiện: góp phần không nhỏ vào việc này có sự hỗ trợ kiên quyết của các đại diện Đại bản doanh.

Tình trạng kiệt lực của một số tập đoàn quân thuộc phương diện quân Xta-lin-grát khi thực hiện những ý đồ kiên quyết lấp lỗ thủng địch chọc vào tới sông Vôn-ga và hợp nhất với tập đoàn quân 62, – không thoát khỏi sự quan tâm chú ý của Gh. C. Giu-cốp và A. M. Va-xi-lép-xki. Để trả lời câu hỏi của I. V. Xta-lin ngày 7 tháng Chín 1942 – liệu các phương diện quân của ta có đủ lực lượng để hoàn toàn diệt tan quân đội phát-xít Đức ở Xta-lin-grát hay không – đại diện Đại bản doanh và đại diện Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã nói rõ như sau: “Hiển nhiên là những lực lượng mà hai phương diện quân hiện có ở Xta-lin-grát không đủ để hoàn toàn diệt tan quân địch ở đây. Cần phải tập trung một cụm quân bổ sung để trong một thời hạn ngắn nhất, giáng một đòn mạnh hơn vào kẻ địch”.

Các đại diện Đại bản doanh, các bộ tư lệnh phương diện quân và tập đoàn quân đồng thời cũng không từ bỏ ý định cải thiện tình hình ở Xta-lin-grát bằng những lực lượng hiện có. Hơn nữa, bộ chỉ huy Liên Xô rất lo ngại rằng việc bố trí thành tuyến các đơn vị bộ đội ta ở khu vực Xta-lin-grát không phù hợp với những nhiệm vụ đặt ra trước họ.

Trong lúc báo cáo tình hình tại các mặt trận vào đêm ngày 9 rạng ngày 10 tháng Chín 1942, Tổng tư lệnh tối cao tỏ ý hết sức không hài lòng về việc các tập đoàn quân của ta ở phía Bắc Xta-lin-grát vẫn giậm chân tại chỗ và tỏ ý rất lo ngại về việc tình hình ngay trong thành phố tiếp tục trở nên trầm trọng hơn.

Vào lúc 4 giờ 30 phút, đại tá I. I. Bôi-cốp (chủ nhiệm khu vực mặt trận Xta-lin-grát) bắt liên lạc với cục trưởng tác chiến phương diện quân 1. N. Ru-khơ-le và hỏi: liệu sẽ tốt hơn không nếu như tập trung cả “cụm lực lượng” tại mặt trận của một tập đoàn quân (nêu rõ là tập đoàn quân cận vệ 1) để đánh thọc sâu vào phòng tuyến địch nhằm giảm nhẹ tình hình ở Xta-lin-grát, khống chế sườn cụm quân địch và sau đó chính nó sẽ mở một cuộc tấn công vào sườn địch. Ru-khơ-le trả lời rằng mọi sự bố trí lại quân đều sẽ làm mất thời gian và làm giảm sút sức ép đối với quân địch, điều này sẽ rất bất lợi cho Xta-lin-grát. Tình hình đòi hỏi phải tăng cường gây sức ép và bố trí lại quân để tấn công.

Chúng ta cũng đã làm như vậy, song trong điều kiện tình hình cực kỳ gay go, cuộc tấn công này không thành công. Ngày 10 tháng Chín 1942, ý định mới của bộ chỉ huy Liên Xô nhằm khôi phục lại đường liên lạc với tập đoàn quân 62 bằng cách tấn công từ phía Bắc, cũng lại không thành công.

Còn tình hình phe địch thì ra sao? Bộ chỉ huy phát-xít không giải quyết được nhiệm vụ chủ yếu của nó là chiếm Xta-lin-grat. Cuộc tấn công của quân Đức đến đây bị dừng lại. Thêm vào đó, các đơn vị quân đội phát-xít Đức có khả năng chiến đấu nhất, được trang bị và chỉ huy tốt, thì nằm thành cụm đông đặc ở khu vực quyết định của trung tâm mặt trận, còn hai bên cánh nó thì chỉ có các tập đoàn quân Hung-ga-ri, I-ta-li-a và Ru-ma-ni với khả năng chiến đấu kém hơn nhiều và được trang bị tồi hơn nhiều.

Chiến dịch ở Cáp-ca-dơ dù rằng đã đem lại những kết quả rõ rệt về đất đai, nhưng vẫn chưa hoàn tất: các đơn vị quân Hít-le vẫn không thể tới được Ba-cu và vùng ven Biển Đen. Các binh đoàn tinh nhuệ của quân đội phát-xít Đức bị mắc kẹt ở sông Tê-rếch và các đèo trên dãy núi Cáp-ca-dơ.

Ngày 11 tháng Chín 1942, tư lệnh Cụm tập đoàn quân “B” Phôn Vai-khơ-xtơ và tư lệnh tập đoàn quân 6 Pao-lút được gọi về đại bản doanh Hít-le gần Vin-ni-txa để báo cáo tình hình khu vực Xta-lin-grát. Nhìn chung, tình hình được đánh giá là hoàn toàn thuận lợi. Ngay trước lúc họp bàn với Phôn Vai-khơ-xtơ và Pao-lút, Tổng tham mưu trưởng lục quân Đức, tướng Han-đe, đã ghi trong cuốn nhật ký chiến tranh của mình một đoạn ngắn như sau: “Ở Xta-lin-grát đã có những kết quả đáng phấn khởi trong tấn công, tại khu vực phía Bắc đã đẩy lùi được các cuộc tấn công của kẻ địch”.

Tuy vậy theo nhận xét của Han-đe, các báo cáo ở chỗ quốc trưởng vẫn “diễn ra trong một bầu không khílạnh ngắt” Người ta yêu cầu các tướng lĩnh phải hết sức nhanh chóng đánh chiếm thành phố. Người ta cho rằng 10 ngày là đủ để làm việc đó và hạ lệnh phải chuyển sang tấn công Xta-lin-grát vào ngày 14 hoặc 15 tháng Chín. Các tướng lĩnh cho làm như vậy là không thực tế và đưa ra những luận cứ để chứng minh rằng đang tồn tại một nguy cơ thực sự đối với quân đội Hít-le ở khu vực Xta-lin-grát.

Pao-lút chỉ rõ rằng mặt trận quân Đức ở Xta-lin-grát bị yếu. Nguy cơ lớn nhất là ở sườn trái tập đoàn quân 6, nơi bố trí các đơn vị quân đồng minh I-ta-li-a và quân các đồng minh khác của Đức. Theo Pao-lút, đã hình thành sự cần thiết phải sử dụng các binh đoàn Đức ở khu vực quân đồng minh và giữ họ ở đó làm lực lượng dự bị cho cụm tập đoàn quân.

Cuộc họp bàn kéo dài hai ngày. Các ý kiến bất đồng về kết cục hành động. Hai viên tư lệnh theo “giải pháp trung bình”: tính đến sức kháng cự mạnh mẽ của quân đội Liên Xô, không nên mưu toan chiếm hẳn thành phố, mà nên làm sao cho Xta-lin-grát bị mất hết ý nghĩa của nó là một trung tâm công nghiệp quân sự và đầu mối giao thông liên lạc. Họ nói rằng có thể làm được việc đó bằng cách sử dụng vũ khí hạng nặng. Tư lệnh tập đoàn quân 6 đặc biệt khăng khăng một mực giữ ý kiến đó.

Là người tham dự cuộc bàn luận, Han-đe chỉ bày tỏ cảm tưởng của mình khi viết vào cuốn nhật ký ngày 12 tháng Chín 1942 bằng một lời như sau: “Pao-lút!”. Sang ngày hôm sau, 13 tháng Chín, Hít-le ký chỉ thị. Cụm tập đoàn quân “B” được lệnh chuẩn bị “giải pháp trung bình” cho vấn đề vạch tuyến trận. Đồng thời ở đây cũng nói rõ là: “nếu cuộc tấn công gặp phải sức kháng cự giảm sút của quân địch thì cần phải tăng cường cố gắng tiêu diệt địch bằng cách cho các ?