← Quay lại trang sách

Chương 5 Bước Ngoặt.

Mối nguy đối với Cáp-ca-dơ. – Báo cáo đầu tiên của tôi ở Đại bản doanh. – Chuyến đi công tác ở Da-cáp-ca-dơ. – Đóng kín các đèo. – Lá chắn ở vùng ven Biển Đen. – Địch bị chặn lại. – Những điềm báo trước cuộc tấn công vào Bắc Cáp-ca-dơ. – Bộ tổng tư lệnh tối cao tập trung sự quan tâm của mình vào Cụm Biển Đen. – Không nên thành lập tập đoàn quân kỵ binh ư?- Kế hoạch “Núi” và kế hoạch “Biển” – Căn cứ bàn đạp Ta-man. – Hai cuộc đổ bộ ở Nô-vô-rô-xi-xcơ. – Nguyên soái Gh. C. Giu-cốp tới Cu-ban. – Sụ phá sản của “phòng tuyến xanh”.

Đồng chí A. M. Va-xi-lép-xki lên nhận chức Tổng tham mưu trưởng đã có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến công tác của Cục tác chiến. Trong vòng nửa năm, đã có mấy đồng chí thay nhau làm cục trưởng. Giữ chức vụ này lần lượt là các đồng chí P. I. Bô-đin, A. N. Bô-gô-liu-bôp (hai lần làm cục trưởng), V. Đ. I-va-nốp. Các đồng chí P. G. Ti-khô-mi-rốp, P. P. Vê-tsơ-nưi, S. N. Ghê-nhi-a-tu-lin tạm thời quyền cục trưởng trong những thời gian chưa có cục trưởng mới.

Vì theo lệnh của Tổng tư lệnh tối cao, đồng chí A. M. Va-xi-lép-xki đã dùng phần lớn thời gian tại các mặt trận, nên lãnh đạo Bộ tổng tham mưu trong lúc vắng đồng chí Va-xi-lép-xki là chính ủy Ph. E. Bô-côp, một con người rất tốt, một cán bộ đảng cừ khôi, nhưng không được đào tạo để thực hiện những chức năng có tính chất tác chiến thuần túy.

Việc Tổng tham mưu trưởng hay đi xuống các mặt trận trong từng thời gian dài và việc luôn luôn thay đổi cục trưởng tác chiến đã gây nên một không khí căng thẳng trong chúng tôi. Vì vậy tính xác định trong công tác thường hay bị vi phạm. Trong một-hai tháng phụ trách cục, không ai kịp đi sâu vào công việc, nắm vững tình hình và vì vậy không thể vững tâm mỗi lần lên Đại bản doanh báo cáo. Cho nên, “để phòng xa”, các đồng chí ấy đều phải đem theo bên mình các chủ nhiệm khu vực mặt trận để nhỡ khi có gì cần thiết phải báo cáo rõ thêm. Phòng khách của cục trưởng Cục tác chiến (chúng tôi thường gọi là “phòng chuẩn bị tắm”) lúc nào cũng đầy những người là người. Một số cố tìm cách làm được một việc gì đó ngồi nghiên cứu các tài liệu nào đó, còn phần lớn đều để phí thời gian vô ích …

Tình trạng đó lại càng đáng tiếc hơn khi tình hình lại trở nên cực kỳ căng thẳng, đòi hỏi tất cả chúng tôi phải có những hoạt động đặc biệt dứt khoát.

Khi đã rõ là quân phát-xít Đức nhất định sẽ tràn xuống phía Nam dọc theo ven biển Ca-xpi-en và vượt qua dãy núi Cáp-ca-dơ, một vấn đề mới không sao tránh khỏi được đặt ra rất gay gắt trước mắt chúng tôi: liệu Thổ Nhĩ Kỳ có ủng hộ chúng không? Nếu ở I-ran, mọi việc lúc này đều tương đối thuận lợi thì vấn đề Thổ Nhĩ Kỳ lại có khác. Hồi giữa năm 1942, không ai có thể cam đoan rằng Thổ Nhĩ Kỳ không đứng về phía Đức. Không phải vô cớ mà hồi đó có tới 26 sư đoàn Thổ Nhĩ Kỳ đã được tập trung ở sát biên giới Da-cáp-ca-dơ xô-viêt.

Phải khóa chặt biên giới Liên Xô – Thổ Nhĩ Kỳ và dùng lực lượng tập đoàn quân 45 bảo vệ miền biên giới, phòng mọi sự bất trắc. Để ngừa trường hợp quân Thổ đi qua I-ran tiến công vào Ba-cu, ta đã áp dụng những biện pháp đề phòng cần thiết cả trên biên giới I-ran – Thổ Nhĩ Kỳ. Thời gian này, quân đoàn kỵ binh 15 được tăng cường một sư đoàn bộ binh và một lữ đoàn xe tăng đang đóng ở đây.

Cần lưu ý rằng kế hoạch yểm hộ Da-cáp-ca-dơ đã có từ thời bình. Năm 1941, sau khi bộ đội ta tiến vào I-ran, kế hoạch này đã được chuẩn xác thêm, song vẫn chưa được coi trọng đến mức cần thiết. Tới cuối năm 1941, khi quân Đức đã chiếm được Rô-xtôp rồi và lần đầu tìm cách tràn vào Cáp-ca-dơ thì thấy cần phải cơ bản tu chỉnh lại kế hoạch này, vì phải yểm hộ chắc vùng Da-cáp-ca-dơ, không chỉ từ phía Thổ Nhĩ Kỳ mà từ cả phía Bắc nữa. Vả lại, trong những điều kiện bây giờ, hướng Bắc vẫn được coi là hướng chủ yếu.

Được thành lập từ năm 1941, biên chế phương diện quân Da-cáp-ca-dơ lúc đầu có tập đoàn quân 45, 46 và bộ đội đang đóng ở I-ran, đến tháng Sáu 1942, lại có thêm tập đoản quân 44 sau khi tập đoàn quân này đã được chấn chỉnh, bổ sung xong ở khu vực Ma-kha-trơ-ca-la. Bộ đội của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ cũng có nhiệm vụ yểm hộ cho Da-cáp-ca-dơ. Nhưng toàn bộ sồ lực lượng này rõ ràng vẫn không đủ để làm nhiệm vụ đó. Theo đề nghị của Bộ Tổng tham mưu, nhiều đơn vị bộ đội đã được cấp tốc điều từ Trung Á và các nơi khác sang miền này.

Ngày 23 tháng Sáu, Hội đồng quân sự Phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đệ trình lên Mát-xcơ-va kế hoạch phòng thủ Da-cáp-ca-dơ dưới dạng mới, đã được tu chỉnh. Ngay trong kế hoạch này, mọi thiếu sót đã bộc lộ ra còn rõ rệt hơn. Tất nhiên, tình trạng thiếu lực lượng đã có ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng bộ đội.

Bộ tư lệnh phương diện quân đã hoàn toàn đúng khi chủ trương điều tập đoàn quân 44 ra tuyến sông Tê-rếch để củng cố hướng Ba-cu, song đã để cho cả triền núi Cáp-ca-dơ chính hầu như không được bảo vệ. Nhiệm vụ này được giao cho tập đoàn quân 46 có số quân rất ít đảm nhiệm. Do đó, ở đèo ngang Ma-rúc-xki chẳng hạn, chỉ vẻn vẹn có một đại đội bộ binh cùng một trung đội súng cối và một trung đội công binh phòng giữ, còn đèo ngang Clu-kho-rơ thì được hai đại đội bộ binh và một trung đội công binh yểm hộ.

Với những lực lượng như vậy, tất nhiên không thể mong giữ được các đèo ngang. Sau khi vạch cho tư lệnh phương diện quân thấy những thiếu sót ấy trong kế hoạch, Bộ tống tham mưu liền bắt tay đi tìm những lực lượng dự bị có thể dùng để củng cố tuyến phòng thủ Da-cáp-ca-dơ. Trong tháng Tám, hai quân đoàn bộ bình cận vệ 10, 11 và mười một lữ đoàn bộ binh độc lập đã được điều thêm đến vùng này.

Để thuận tiện cho việc chỉ huy, các đơn vị phòng ngự trên các tuyến sông U-rúc và Tê-rếch đã hợp thành cái gọi là Cụm chiến dịch phía Bắc do I. I. Ma-xlen-ni-cốp làm tư lệnh, gồm có tập đoàn quân 44, cụm quân của tướng V. N. Cu-rơ-đi-u-mốp đã nhập vào tập đoàn quân 9 và sau nữa có thêm cả tập đoàn quân 37 rút từ Đôn-bát và sông Đôn về. Tướng Ma-xlen-ni-cốp được giao nhiệm vụ yểm hộ vững vàng cho hướng Ba-cu và tuyến đường chủ yếu chạy qua dãy núi Cáp-ca-dơ: tuyến đường quân sự Gru-di-a.

Nhiều biện pháp tổ chức lớn đã được tiến hành trong phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ. Ngay từ ngày 28 tháng Bảy, các tập đoàn quân của phương diện quân Nam bị giải thể và rút lui về đây được hợp nhất vào phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, ở đây thành lập ra hai cụm chiến dịch: cụm chiến dịch sông Đôn do trung tướng R. I-a. Ma-li-nôp-xki làm tư lệnh và cụm chiến dịch miền Duyên hải do thượng tướng I-a. T. Trê-rê-vi-tsen-cô chỉ huy.

Cuối tháng Bảy và suốt mười lăm ngày đầu tháng Tám đã diễn ra những trận chiến đấu phòng ngự ác liệt trên cánh đồng Cu-ban. Bộ binh Liên Xô đã anh dũng chiến đấu, nhưng địch vẫn tiến từng bước lên phía trước và trong những ngày 20 tháng Tám, chúng đã tới Tê-rếch. Tại đây, cụm chiến dịch phía Bắc của phương diện quân Dá-cáp-ca-dơ đã bước vào chiến đấu. Điểm yếu của cụm chiến dịch này là tình trạng trang bị rất kém. Ví như sư đoàn bộ binh 417, theo hiện tình ngày 10 tháng Tám, chỉ vẻn vẹn có 500 súng trường. Chỉ một nửa sô quân của sư đoàn 151 được trang bị, mà lại trang bị bằng súng trường nước ngoài. Một trong những lữ đoàn bộ binh chỉ có 30% số quân được trang bị vũ khí và hoàn toàn không có súng máy, đại bác.

Tất cả những tình hình trên đã gây nên mối lo ngại to lớn. Mà cũng phải lẽ thôi. Quân địch đã chiếm được đèo ngang Au-kho-rơ sau một trận đột phá bất ngờ và ngắn. Mãi ba ngày sau, cơ quan tham mưu của tập đoàn quân 46 mới biết tin này.

Những kỷ niệm của tôi về lần đầu tiên lên Đại bản doanh báo cáo, mật thiết gắn liền với công cuộc phòng ngự Da-cáp-ca-dơ. Chuyện ấy như sau.

Một đêm nọ, đồng chí Ph. E. Bô-cốp từ điện Crem-li gọi điện thoại đến lệnh cho đại tá K. Ph. Va-xin-tren-cô, người thay đại tá I. I. Bôi-cốp, và tôi mang ngay bản đồ công tác đến Đại bản doanh báo cáo. Có xe đến đón và chúng tôi ra xe lên đường.

Đến Crem-li, một trung tá tôi không quen ra đón và dẫn chúng tôi lên tầng hai, đến phòng khách của Xta-lin. Cả hai chúng tôi đều hồi hộp, vì biết sẽ phải trả lời về tình hình trên các khu vực mặt trận chúng tôi phụ trách. Ít phút sau, chúng tôi được triệu tập đến văn phòng của Tổng tư lệnh tối cao, ở đó, ngồi sau chiếc bàn lớn kê cạnh tường, một bên là các đồng chí Mô-lô-tốp, Ma-len-côp, Mi-côi-an và một bên là các đồng chí Ph. E. Bô-cốp, cục trưởng Cục tác chiến mới được bổ nhiệm, P. I. Bô-đin và I-a. N. Phê-đô-ren-cô. Xta-lin đi đi lại lại trong phòng. Chúng tôi trình diện.

Xta-lin hỏi chúng tôi:

- Các đồng chí có thể báo cáo tình hình ở Xta-lin-grát và ở miền Nam không?

Cả hai chúng tôi đồng thanh trả lời:

- Xin sẵn sàng!

K. Ph. Va-xin-tren-cô báo cáo trước về tình hình ở Xta-lin-grát. Tổng tư lệnh tối cao rất chú ý tới tình hình và tình trạng bộ đội: đơn vị nào rút về tuyến nào, những đơn vị đang rút lui sẽ phối thuộc vào đơn vị nào, thê đội hai bố trí ở đâu, các lực lượng dự bị ở đâu, tình hình cung cấp vật chất ra sao. Va-xin-tren-cô nắm được hết và báo cáo rất rành rọt.

Sau đến lượt tôi. Tôi mở bản đồ và báo cáo: những đơn vị nào đang phòng ngự ở Tê-rếch, còn có thể bố trí thêm những đơn vị nào nữa, hướng Ba-cu và tuyến đường quân sự Gru-di-a được yểm hộ như thế nào. Tôi không quên nói về tình trạng sức yểm hộ còn yếu ở những đèo ngang qua dãy núi Cáp-ca-dơ, chính mối nguy cơ trên các hướng Nô-vô-rô-xi-xcơ và Tu-áp-xe và về sự cần thiết phải đẩy nhanh việc xây dựng các tuyến phòng ngự.

Xta-lin lắng nghe, không ngắt lời tôi. Chỉ khi tôi báo cáo xong, đồng chí mới hỏi:

- Ở Da-cáp-ca-dơ còn có những đơn vị nào nữa?

Tôi báo cáo.

- Có thể điều thêm những đơn vị nào từ Trung Á đến đây?

- Sư đoàn bộ binh núi 83 do thiếu tướng Lu-trin-xki làm tư lệnh. – Tôi trả lời và liền nói thêm: – Bố trí sư đoàn này trên hướng Tu-áp-xe thì tốt hơn. Và, còn có thể lấy thêm một sư đoàn nữa.

- Có thể rút bao nhiêu đơn vị ở I-ran? – Tổng tư lệnh tối cao hỏi.

- Từ một đến hai sư đoàn, chứ không thể hơn. – Và tôi nói rõ tại sao.

- Phải đặc biệt chú ý hướng Ba-cu. – Xta-lin nói, quay về phía P. I. Bô-đin.

Tổng tư lệnh tối cao xử sự rất giản dị. Những lúng túng ban đầu của chúng tôi dần dần mất đi. Báo cáo gần xong, cả Va-xin-tren-cô lẫn tôi đều cảm thấy hoàn toàn thoải mái.

- Lúc đi, cần đem những đại tá này theo, – Tổng tư lệnh tối cao nói và không hướng vào ai cả.

Đến đây, mọi việc đã giải quyết xong, chúng tôi được phép ra về. Cách mấy ngày sau, kể từ hôm được triệu tập đến Đại bản doanh, đúng ngày 21 tháng Tám, P. I. Bô-đin nói với tôi:

- Đồng chỉ hãy chuẩn bị, đúng 4 giờ sáng mai chúng ta ra sân bay. Hãy mang theo một nhân viên mật mã và một số cán bộ trợ lý theo dõi các khu vực mặt trận.

Lúc này hầu như tôi không cần phải chuẩn bị gì nữa, vì mọi tin tức, tình huống của khu vực mặt trận, tôi như đã thuộc lòng: tôi đã sống và làm việc ở đây, ở phố Ki-rôp. Sáng sớm hôm sau, đúng giờ đã định, tôi lên xe của Bô-đin đi tới sân bay Trung tâm. Máy bay Xi-47 đang đợi chúng tôi ở đó. Đại tá V G. Gra-trép, người lái máy bay, tới trình diện Bô-đin.

Chúng tôi bay qua Trung Á tới Tơ-bi-li-xi. Bọn Đức đã chặn mất con đường bay thẳng tới đây. Chúng tôi hạ cánh xuống Cra-xnô-vôt-xcơ lúc chiều tối, đến khi trời tối hẳn chúng tôi vượt qua biển Ca-xpi-en tới Ba-cu, Tơ-bi-li-xi.

Chúng tôi đến Tơ-bi-li-xi lúc gần nửa đêm và từ sân bay chúng tôi đi thẳng tới cơ quan tham mưu phương diện quân. Thành phố vẫn còn chưa đi ngủ. Nhiều đường phố còn rực sáng và rất đông người.

P. I. Bô-đin lập tức nghe báo cáo của tham mưu trưởng phương diện quân A. I. Xu-bôt-tin và giải thích nhiệm vụ chúng tôi khi tới đó: chuẩn xác tình huống ngoài thực địa, định ra những biện pháp bổ sung nhằm tăng cường phòng ngự Da-cáp-ca-dơ và áp dụng những biện pháp đó, xây dựng các đội dự bị lấy từ những đơn vị đã và đang rút từ phía Bắc về Da-cáp-ca-dơ và những người của địa phương mới động viên, cuối cùng đẩy nhanh việc chuẩn bị các tuyến phòng ngự, trước hết là tuyến phòng ngự trên hướng Ba-cu.

Lúc kết luận, Bô-đin nói với tư lệnh phương diện quân:

- Các nước đồng minh đang muốn lợi dụng tình thế khó khăn của chúng ta trên các mặt trận và mưu toan bắt ta phải đồng ý để cho quân đội Anh tiến vào Da-cáp-ca-dơ. Đồng chí có biết thế không? Tất nhiên, chúng ta không thể để cho họ làm như vậy. Hội đồng quốc phòng Nhà nước coi việc bảo vệ Da-cáp-ca-dơ là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhà nước và chúng ta phải dùng mọi biện pháp nhằm đánh lui cuộc tiến công của quân địch, tiêu hao rồi tiêu diệt chúng. Phải chôn vùi mọi hy vọng của Hít-le và mọi thèm muốn của những nước đồng minh…

Hoạt động thực tiễn của chúng tôi ở đây bắt đầu từ ngày 24 tháng Tám, khi Da-cáp-ca-dơ ban bố tình trạng chiến tranh. Tát cả những đơn vị bộ đội đã rút một cách có tổ chức từ phía Bắc về đều được bố trí phòng ngự ở Tê-rếch, vùng ven dãy núi Cáp-ca-dơ, trên các hướng Tu-áp-xe và Nô-vô- rô-xi-xcơ. Còn những đơn vị và binh đoàn nào đã bị tiêu hao trong các trận chiến đấu trước đây, bị mất các cơ quan chỉ huy hoặc trang bị, thì được rút về phía sau. Trên hướng chủ yếu, hướng Ba-cu ngày 28 tháng Tám bắt đầu thành lập tập đoàn quân 58. Ở khu vực Ki-dơ-h-a-rơ đã tập trung quân đoàn kỵ binh hỗn hợp.

Sau khi chúng tôi đã tỉ mỉ nghiên cứu xong tình huống thì có quyết định xây dựng các khu phòng ngự ở những vùng trung tâm chiến dịch quan trọng. Có tất cả ba khu như vậy: đặc khu Ba-cu, khu Grô-dơ-nưi và khu Vla-đi-cáp-ca-dơ. Tư lệnh các khu phòng ngự này đồng thời làm phó tư lệnh các tập đoàn quân phòng vệ những vùng cửa ngõ của các khu trên.

Nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường quân sự Gru-di-a được hoàn toàn giao cho một sư đoàn bộ binh. Lực lượng chủ yếu của sư đoàn chôt chặt lối tiến vào khu vực Oóc-giô-ni-kít-dê. Và khu vực này còn có thêm một sư đoàn nữa điều từ Gô-ri tới.

Hướng Ba-cu đang có nhiều việc bận rộn. Khi tới nơi, chúng tôi phát hiện thấy việc xây dựng các tuyến phòng ngự đang được tiến hành rất chậm. Rõ ràng là không đủ lực lượng để đảm nhiệm công việc này. Ngày 16 tháng Chín, Hội đồng quốc phòng Nhà nước, theo đề nghị của chúng tôi, đã ra một nghị quyết đặc biệt về việc huy động mỗi ngày chín mươi nghìn dân địa phương tham gia xây dựng phòng ngự ở các khu vực Ma-kha-trơ-ca-la, Đéc-ben-tơ và Ba-cu. Sau đó, mọi việc đều hoàn toàn trôi chảy.

Suốt ngày đêm, ta đã khẩn trương xây dựng công sự, hào chống tăng và bố trí các chướng ngại chống tăng. Ngoài ra, ngày 29 tháng Chín, Đại bản doanh đã ra lệnh thực hiện ở đây một loạt biện pháp nữa nhằm củng cố phòng ngự và đã điều 100 xe tăng tới để tăng cường lực lượng phòng ngự.

Công cuộc phòng ngự trên hướng quan trọng khác, hướng Tu-áp-xe, cũng được đặc biệt chú ý. Từ đầu tháng Tám, Bộ tổng tham mưu đã luôn luôn quan tâm đến trận tuyến này. Nếu đột phá vào Tu-áp-xe, địch sẽ từ phía Bắc tiến vào hậu tuyến các đơn vị bộ đội phòng ngự Da-cáp-ca-dơ và sẽ chiếm lấy con đường tiếp cận thuận lợi nhất ở dọc ven biển Xô-tri và Su khu-mi. Địch rất kiên quyết nhưng không sao thực hiện được ý định ấy.

Ngày 5 tháng Tám, Đại bản doanh đã ra chỉ thị đặc biệt về việc này và sau đó, qua mười ngày chiến đấu ác liệt ta đã chặn đứng được quân địch trên sườn phía Bắc dãy núi Cáp-ca-dơ chính, cách Tu-áp-xe 50 ki-lô-mét. Tuy nhiên, sau đây tình hình ở đây vẫn căng thẳng đến tột độ.

Trên bán đảo Ta-man và ở Nô-vô-rô-xi-xcơ, nơi có các căn cứ của hải quân ta, tình huống cũng không kém phần nghiêm trọng. Địch có ý định từ đây góp phần đột kích vào Tu-áp-xe và chúng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng hơn. Cuối tháng Tám – đầu tháng Chín, chúng đã chiếm được bán đảo này và phần lớn miên Nô-vô-rô-xi-xcơ. Tập đoàn quân 47 và các đơn vị hải quân phòng ngự cái hải cảng lớn nhất này của vùng ven Biển Đen đã lâm vào tình the thật hiểm nghèo. Chỉ có sự kiên cường của bộ đội, nghệ thuật và lòng dũng cảm của các cấp chỉ huy, tính hợp lý của các quyết tâm cần có và thái độ kiên quyết thực hiện những quyết tâm đó mới quyết định được kết cục của trận giao tranh này.

Chúng tôi cho rằng: khu vực này trước hết cần tổ chức chỉ huy bộ đội cho thật vững. Ngày 1 tháng Chín, trên cơ sở của phương diện quân Bắc Cáp-ca-dơ, đã thành lập Cụm Biển Đen trực thuộc phương diện quân Da-cáp-ca-dơ. Mấy ngày sau, trung tướng I. E. Pê-tơ-rôp, người anh hùng của cuộc phòng thủ Xê-va-xtô-pôn, đến nhận nhiệm vụ tư lệnh cụm chiến dịch này, Hội đồng quân sự phương diện quân đề nghị cử thiếu tướng A. A. Grê-xcô làm tư lệnh tập đoàn quân 47 và toàn khu vực phòng ngự Nô-vô-rô-xi-xcơ, cử phó đô đốc hải quân X. G. Goóc-scốp Chỉ huy phòng ngự thành phố Nô-vô-rô-xi-xcơ. Đại bản doanh đã phê chuẩn đề nghị ấy. Kết quả liền được thể hiện ra ngay. Ngày 10 tháng Chín, bộ đội Liên Xô đã chặn đứng được quân địch ở phần phía Đông Nô-vô-rô-xi-xcơ, giữa các nhà máy xi-măng, và buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự.

Dãy núi Cáp-ca-dơ chính không nằm trong phạm vi hoạt động của Cụm Biển Đen và Cụm phía Bắc. Tập đoàn quân 46 phòng ngự dãy núi này đúng ra phải trực thuộc bộ tư lệnh phương diện quân. Nhưng, về sau trực thuộc cơ quan tham mưu phương diện quân đã có một cơ quan đặc biệt mang tên “cơ quan tham mưu các đơn vị phòng ngự dãy núi Cáp-ca-dơ”. Đứng đầu cơ quan này là tướng G. L. Pê-tơ-rốp trong Bộ dân ủy nội vụ. Phải nói thẳng ra rằng đây là một cấp trung gian giả tạo và hoàn toàn không cần thiết. Trong thực tế, cơ quan tham mưu này đã thay thế cơ quan chỉ huy của tập đoàn quân 46.

Việc phòng ngự dãy núi này không được tổ chức chặt chẽ. Bộ tư lệnh phương diện quân đã đánh giá quá cao tính hiểm hóc bất khả xâm phạm của miền này và vì vậy đã để mất đèo ngang Clu-kho-rơ ngày 15 tháng Tám. Trong tình hình ấy đèo ngang Ma-rúc-xki cũng có thể bị chiếm và do đó có nguy cơ quân Đức có thể tiến xuống phía Nam, tới Biển Đen.

Những sai lầm phạm phải đã được gấp rút sửa chữa. Nhiều đội quân gồm những người trèo núi và nhân dân vùng rẻo cao đã cấp tốc được thành lập và điều tới bảo vệ các đèo ngang. Ngoài ra, còn điều thêm nhiều đơn vị chính quy tới vùng này. Ở khu vực Cra-xnai-a Pô-li-a-na, sư đoàn bộ binh núi 20 do đại tá A. P. Tua-trin-xki chỉ huy, trung đoàn biên phòng 23 và trung đoàn cơ giới 33 của Bộ dân ủy nội vụ chặn đường ra biển của địch ở Xô-tri. Còn ở quá phía Đông khu vực này thì có một đơn vị lớn của đại tá I. I. Pi-ia-sép đảm nhiệm nhiệm vụ phòng ngự. Tiếp nữa là các đơn vị thuộc sư đoàn bộ binh 394 của trung tá I. G. Can-ta-ri-a và các đơn vị khác.

Nhiều đội công nhân vũ trang cũng đã được điều tới các mỏm núi. Toàn bộ đại gia đình các dân tộc miền Cáp-ca-dơ đã đứng lên chống địch. Cuộc đấu tranh sinh tử với những người khách không mời mà đến đã diễn ra quyết liệt trên các tuyến chiến đấu và ở phía sau quân địch. Tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc đã vượt qua mọi thử thách. Mọi tính toán của bọn chiếm đóng trông đợi vào sự suy yếu của mối tình hữu nghị ấy, đã hoàn toàn sụp đổ

Chính trong thời gian này đã diễn ra những sự kiện ở khu vực đèo ngang Ma-rúc-xki. Trong những điều kiện rất khó khăn, các chiến sĩ bảo vệ đèo ngang đã anh dũng đánh bại mọi mưu toan của các đơn vị miền núi Đức nhằm đánh chiếm đèo ngang và đột phá vào đây qua dãy núi Cáp-ca-dơ chính. Các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ quang vinh của những quân nhân cho đến phút cuối cùng.

Những trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra ở Tê-rếch. Tập đoàn quân xe tăng 1 bao gồm 2 quân đoàn bộ binh và 3 quân đoàn xe tăng địch tiến công ta ở đây. Mũi đột kích của chúng nhằm cùng một lúc tiến ra tới tận bờ biển Ca-xpi-en lẫn tuyến đường quân sự Gru-di-a. Song, quân Đức không hề thu được kết quả gì ở cả hai nơi trên.

Những trận chiến đấu tại những cửa ngõ vào Oóc-giô-ni-kít-dê và Grô-dơ-nưi đã hoàn toàn thất bại và làm cho chúng bị tổn thất nặng. Dù cố sức đến mấy, chúng cũng không sao tới được vùng dầu lửa Grô-dơ-nưi và Ba-cu. Và, ý đồ của địch nhằm mở đường sang Cận Đông thế là cũng tan vỡ nốt.

Quân Đức cũng thoát khỏi cảnh tượng ấy trên hướng Biển Đen, mặc dù chúng đã đặc biệt tích cực hoạt động, nhất là ở Tu-áp-xe. Từ cuối tháng Chín, sau khi đã chuyển quân tập kết nhiều binh lực lớn, chúng một lần nữa mở các cuộc tiến công, rõ ràng nhằm bao vây và tiêu diệt chủ lực của tập đoàn quân 18. Vùng ven biển lại bị uy hiếp một lần nữa. Trong điều kiện ấy, Đại bản doanh và Hội đổng quân sự phương diện quân đã điều động nhiều lực lượng mới đến tăng cường cho tập đoàn quân và đến giữa tháng Mười thì cư tướng A. A. Grê-xcô làm tư lệnh tập đoàn quân này.

Cả công tác chính trị cũng đã được đẩy mạnh. Trong quá trình chiến đấu ác liệt bộ đội xô-viết đã bị cột chặt vào dãy núi cuối cùng trên đường vào Tu-áp-xe, nhưng đã không để cho quân địch vượt qua được. Những đợt phản kích tiếp sau mới hắt được chúng sang phía bên kia sông Pơ-si-sơ.

Trên cái tuyến quan trọng này đối với chúng ta, lực lượng hai bên lúc đầu tương đương nhau, nhưng về sau chúng ta có ưu thế hơn đôi chút. Vì vậy đến giữa tháng Mười một, khi bọn Hít-le cố sức đột phá lần thứ ba vào Tu-áp-xe, thì mọi cố gắng của chúng đều phí công; hơn nữa, một phần lực lượng tiến công của quân địch lại bị bao vây rồi bị tiêu diệt hoàn toàn.

Sau đó, trên hướng Tu-áp-xe, quân đội phát-xít Đức không còn chuyển sang tiến công được nữa. Bọn chúng cũng không vượt qua được dãy núi Cáp-ca-dơ, mặc dầu đã sử dụng quân đoàn bộ binh núi thiện chiến. Còn ở sườn Bắc En-brút, quân địch chỉ chiếm được “trạm số 11” của những người leo núi, nhưng cũng không tiến được xa hơn nữa.

Khi công tác ở Da-cáp-ca-dơ, chúng tôi luôn luôn dựa chắc vào các sĩ quan trong Bộ Tổng tham mưu được đặc phái xuống bộ đội. Các đồng chí đó liên hệ mật thiết với chúng tôi trong nhiều khâu công tác, giúp chúng tôi nghiên cứu các tin tức tình huống, chuẩn bị báo cáo hàng ngày gửi về Đại bản doanh, tích cực tham gia vào những biện pháp tổ chức của chúng tôi. Đặc biệt, tôi còn giữ được nhiều kỷ niệm tốt về các đồng chí N. Đ. Xan-tư-cốp, A. N. Tam-ra-dốp và nhiều đồng chí khác.

Một tháng sau, chúng tôi trở về Mát-xcơ-va. Mặc cho bộ chỉ huy Cụm tập đoàn quân “A” của Đức tuyên bô huênh hoang rằng sức kháng cự của bộ đội xô-viết sấp bị bẻ gấy, tình hình ở Da-cáp-ca-dơ đã an định lại. Riêng trung tướng P. I. Bô-đin, tham mưu trưởng phương diện quân thì không còn nữa. Đồng chí giữ cương vị cao này chưa được bao lâu. Ngày 1 tháng Mười một, Bô-đin đã hy sinh ở khu vực Oóc-giô-ni-kít-dê. Trong một vụ oanh tạc của không quân Đức, đồng chí không chịu ẩn nấp, vì vậy đã hy sinh.

Ngay khi về Mát-xcơ-va, chúng tôi đã được đọc vở kịch “Tiền tuyến” của A. E. Coóc-nây-trúc. Vở kịch ấy đột nhiên được đăng trên báo “Sự thật” và đã làm xúc động toàn thể hàng ngũ sĩ quan trong quân đội. Tuy hồi ấy trong Bộ tổng tham mưu chúng tôi phải tính từng phút một, nhưng cả những đồng chí bận nhất cũng đã tìm đọc hết. Chúng tôi đã toàn tâm toàn ý ủng hộ anh thanh niên Ô-gơ-nhép và phản đối Gô-rơ-lap.

Nhưng, như người ta thường nói, không có nguyên tắc nào lại không có ngoại lệ. Cả ở trong lẫn ở ngoài Bộ Tổng tham mưu, thậm chí trong số những người lãnh đạo quân sự có công lao, đã có những người coi vở kịch “Tiền tuyến” là một hành động đặc biệt phá hoại Hồng quân. Có một số điện gửi về Đại bản doanh đề nghị đình chỉ việc cho in vở kịch đó trên báo “Sự thật” và cấm đem nó ra trình diễn trên sân khấu vì đó là một cái gì “tuyệt đối có hại”. Đồng chí Tổng tư lệnh tối cao đã trả lời một trong số những bức điện ấy như sau:

“Các đồng chí đã đánh giá vở kich đó không đúng. Vở kịch sẽ có một tác dụng giáo dục to lớn đối với Hồng quân và đội ngũ cán bộ chỉ huy. Vở kịch đã nêu lên một cách đúng đắn những thiếu sót của Hồng quân và nếu cứ nhắm mắt làm lơ trước những thiếu sót đó thì thật không đúng. Cần phải dũng cảm thừa nhận thiếu sót và có biện pháp trừ bỏ chúng. Đó là con đường duy nhất để cải tiến và hoàn chỉnh Hồng quân”.

Về phần mình, lớp thanh niên trong Bộ Tổng tham mưu – đều có thể gọi những cán bộ trung cấp, tuổi tác chưa nhiều như thế, chúng tôi đã coi vở “tiền tuyến) như là sự thể hiện chính sách của Đảng, là lời Đảng kêu gọi nâng cao trình độ nghệ thuật quân sự và trình độ lãnh đạo quân đội.

Ngày 2 tháng Hai 1943, cánh quân chủ yếu của quân đội Hít-le bị bao vây ở Xta-lin-grát từ ngày 23 tháng Mười một 1942 đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Hệ quả gần nhất của thắng lợi Xta-lin-grát là sự kiện giải phóng Bắc Cáp-ca-dơ mà tôi có quan hệ trực tiếp, do chức trách công tác lúc đó trong Bộ Tổng tham mưu.

Xta-lin-grát đã ràng buộc A. M. Va-xi-lép-xki trong một thời gian lâu. Cuối năm 1942 và đầu năm 1943, A. M. Va-xi-lép-xki hầu như bám sát không rời khu vực chủ yếu này của mặt trận Xô – Đức.

Vì Tổng tham mưu trưởng đi vắng nên Tổng tư lệnh tối cao thường hay gọi dây nói trực tiếp với Cục tác chiến, hỏi tình hình, đọc mệnh lệnh. Chúng tôi luôn luôn phải trực sẵn, ngày đêm không rời vị trí công tác. Vả lại, thời kỳ này, tôi cùng đang giữ chức quyền cục phó Cục tác chiến (Ngày 2 tháng Tư 1943. X. M. Stê-men-cô được cử giữ chức vụ này. BT.).

Trong một số trường hợp cá biệt, I. V. Xta-lin gọi điện cho trực ban của Bộ Tổng tham mưu là một viên tướng và truyền đạt mệnh lệnh qua đồng chí này, không có viên tướng nào chuyên trách làm việc này cả. Khi còn B. M. Sa-pô-sni-cốp ở đây thì đồng chí ấy đảm nhận việc đó. Các tướng lĩnh thuộc các cục vụ khác nhau của Bộ tổng tham mưu lần lượt thay nhau thừa hành chức trách này. Các trợ lý Bộ Tổng tham mưu lập bản danh sách đặc biệt ấn định phiên trực của từng người. Trưởng trực ban có nhiệm vụ phải ghi bản đồ và bao giờ cũng phải nắm chắc tình hình tại các phương diện quân và công việc của các cục vụ chủ yếu ở Bộ Tổng tham mưu.

Địch vẫn lồng lộn tiến quân và bộ đội Liên Xô cũng dốc toàn lực để chặn chúng lại. Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã cân nhắc kỹ những kế hoạch tiến công sắp tới, đặt nền móng cho những chiến dịch quyết định nhằm tiêu diệt quân địch ở cả Xta-lin-grát lẫn ở Bắc Cáp-ca-dơ. Tôi còn nhớ bản chỉ thị của Tổng tư lệnh tối cao ngày 15 tháng Mười năm 1942. Giữa lúc đang chiến đấu phòng ngự quyết liệt ở Tê-rếch, thì bản chỉ thị đã nhắc bộ tư lệnh phương diện quân Da-cáp ca-dơ lưu ý đến Cụm Biển Đen:

“Thấy các đồng chí hay lui tới quan sát bộ đội ở Cụm phía Bắc và dồn phần lớn binh lực cho cụm này. Đại bản doanh cho rằng các đồng chí đã đánh giá thấp ý nghĩa của Cụm Biển Đen và vai trò chiến dịch – chiến lược của bờ Biển Đen”.

Là người trực tiếp chấp hành văn kiện này, trong đó có đoạn trích dẫn trên, tôi hiểu khá rõ rằng cơ sở của nó là sự quan tâm đến cuộc tiến công sắp tới. Vào 10 ngày cuối tháng ấy tôi lại có dịp thấy rõ thêm rằng Đại bản doanh ngày càng đi sâu quan tâm đến việc này. Một đêm, Ph. E. Bô-cốp triệu tập tôi đến và lệnh cho tôi báo cáo những ý kiến có liên quan đến việc thành lập tập đoàn quân kỵ binh ở Bắc Cáp-ca-dơ.

Đồng chí nói thêm:

- Xta-lin đang chú ý theo dõi việc này.

Đề nghị cải tổ quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 thành tập đoàn quân kỵ binh là do I. V. Ti-u-lê-nép, tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ nêu lên. Dự kiến sẽ hợp nhất vào tập đoàn quân này bảy sư đoàn kỵ binh: hai sư đoàn kỵ binh cận vệ Cu ban 9 và 10, hai sư đoàn kỵ binh cận vệ sông Đôn 11 và 12 và các sư đoàn 30, 63, 110.

Xta-lin ngày càng quan tâm đến vấn đề ấy.

- Trên thực tế, lẽ nào không thành lập được tập đoàn quân kỵ binh ư?-Xta-lin hỏi Bô-cốp và liền ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu nghiên cứu vấn đề này.

Ngoài ra, Tổng tư lệnh tối cao còn đích thân hỏi ý kiến tướng N. I-a. Ki-ri-tren-cô, tư lệnh quân đoàn kỵ binh cận

Ý kiến này thật hấp dân, ở miền Bắc Cáp-ca-dơ dường như có đủ điều kiện để thực hiện ý định ấy: có ngựa, có cả những kỵ sĩ ưu tú người Cô-dắc vùng Cu-ban và vùng sông Đôn và cả một không gian rộng đủ bảo đảm cho những đội kỵ binh lớn được tự do vận động. Thêm nữa, tất cả chúng tôi vẫn nuôi dưỡng sự khâm phục sâu sắc đối với quá khứ anh hùng của kỵ binh đó.

Tuy nhiên, vì những điều kiện của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại đã căn bản khác với những điều kiện của cuộc nội chiến, nên cần phải suy tính kỹ.

Có một số quan điểm khác nhau về vai trò của kỵ binh trong chiến tranh hiện đại, về tổ chức và phương pháp sử dụng kỵ binh. Một số người cho rằng kỵ binh đã hết thời, kỵ binh không thể tiến công hiên ngang và đột nhập sâu vì nó khó chống lại hỏa lực của súng tự động, vì địch có nhiều xe tăng, vì khó tiếp tế cỏ khô cho ngựa và còn vì nhiều nguyên nhân khác. Những người này còn vạch ra rằng trong chiến tranh hiện đại thường gặp những trường hợp phải chuyển sang phòng ngự, song kỵ binh nếu không có bộ binh, xe tăng và pháo binh thì không thể tổ chức phòng ngự vững chắc được. Do đó, đòi hỏi phải tăng cường kỵ binh bằng những binh chủng khác và như vậy kỵ binh nhất định sẽ mất tính năng mạnh nhất của nó là tính cơ động. Đã thế thì, nói chung, có kỵ binh cũng chẳng có ý nghĩa gì.

Một số người khác có khuynh hướng cho rằng, nên sử dụng kỵ binh phối hợp với xe tăng và bộ đội cơ giới dưới hình thức những liên binh đoàn kỵ binh – cơ giới lâm thời trong điều kiện có không quân chi viện đầy đủ. Theo ý kiến của Bộ Tổng tham mưu, cách giải quyết vấn đề kỵ binh như vậy đúng đắn hơn. Nó cho phép sử dụng rộng rãi việc kết hợp các binh chủng một cách thích đáng hơn với tình huống thực tế.

Cuối cùng, còn có những người chủ trương xây dựng kỵ binh dưới “dạng thuần túy của nó”. Những quan điểm này mâu thuẫn với kinh nghiệm thực tiễn đã có, mà kinh nghiệm thực tiễn như mọi người đều biết, luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Nếu sử dụng kỵ binh mà không có phương tiện tăng cường cho nó thì kỵ binh sẽ bị tổn thất rất lớn và cũng chỉ thu được những kết quả hết sức hạn chế (dù có tiến hành những cuộc đột kích hết sức anh dũng). Ngoài ra, còn trường hợp phải chi viện cho kỵ binh (kể cả trường hợp phải dùng máy bay chuyển thóc cho ngựa ở vùng sau lưng địch) mà những binh đoàn kỵ binh ấy cũng không thể tự mình rút ra được.

Tất cả những điều đó đều được đem ra cân nhắc lúc xem xét vấn đề thành lập tập đoàn quân kỵ binh. Cuối cùng, Bộ Tổng tham mưu đã kết luận là không nên thành lập vì cho rằng cái tổ chức kềnh càng này sẽ rất dễ bị đánh từ hai phía: dưới đất và trên không và sẽ không đáp ứng được những hy vọng gửi gắm vào nỏ. Tổng tư lệnh tối cao đã tán thành những ý kiến của chúng tôi.

Tháng Chạp 1 942, sau khi ta đánh tan đoàn quân của tướng Man-stai-nơ, tình hình ở miền Bắc Cáp-ca-dơ đã hoàn toàn thay đổi có lợi cho chúng ta. Lúc bấy giờ, phương diện quân Nam (phương diện quân Xta-lin-grát cũ) có đủ khá năng trực tiếp tiến vào phía sau Cụm tập đoàn quân “A” của Đức đang đóng tại Tê-rếch, ở trên núi Cáp-ca-dơ và ở Nô-vô-rô-xi-xcơ và chiếm lại những con đường nhất thiết chúng sẽ phải theo khi rút lui qua sông Đôn về Đôn-bát. Ngày 29 tháng Chạp ta đã giải phóng được vùng dân cư Cô-ten-ni-cô-vô. Và từ đây trong mùa đông, có những con đường qua cánh đồng cỏ, dẫn thẳng tới Ba-tai-xcơ và Rô-xtôp. Đã đến lúc bắt đầu những chiến dịch tiến công lớn tại mặt trận Da-cáp-ca-dơ.

Dự kiến trước những sự kiện trên, Bộ Tổng tham mưu đề nghị phương diện quân Nam tập trung cố gắng chủ yếu vào hướng Rô-xtôp và có dự kiến đưa một phần lực lượng đi hoạt động ở Ti-khô-rét-xcai-a. Chiếm được Ti-khô-rét-xcai-a sẽ cắt cánh quân địch đóng ở Cáp-ca-dơ ra khỏi Rô-xtôp và sẽ đưa được bộ đội Liên Xô vào phía sau tập đoàn quân xe tăng 1 của Đức. Đại bản doanh đã thông qua đề nghị ấy. Kế hoạch hoạt động tiếp sau của bộ đội phương diện quân Nam được phê chuẩn trong đêm giao thừa sang năm mới 1943.

Cũng trong thời gian này, chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp không cho địch rút từ Bắc Cáp-ca-dơ sang bán đảo Ta-man, vì ở đây có bến vượt sang Crưm. Thực hiện ý định trên, Cụm Biển Đen của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ có nhiệm vụ đột kích vào Cra-xnô-đa, Ti-khô-rét-xcai-a rồi tiến ra gặp bộ đội của phương diện quân Nam. Cụm phía Bắc giữ vai trò đơn giản hơn: buộc địch phải giao chiến trên tuyến chúng đang chiếm lĩnh, không cho chúng thoát ra ngoài và gây trở ngại cho cuộc hành quân của ta.

Như vậy là đến đầu năm 1943, trong Đại bản doanh đã dứt khoát hình thành ý định cô lập địch ở Bắc Cáp-ca-dơ nhằm sau này sẽ tiêu diệt chúng. Những hoạt động ở đây chỉ là một trong những khâu của cả chuỗi dài những chiến dịch tiến công của các Lực lượng vũ trang Liên Xô từ Vô-rô-ne-giơ đến Mô-dơ-đôc.

Chiến thắng Xta-lin-grát đã mở ra những triển vọng rộng lớn cả cho những phương diện quân khác. Phương diện quân Vô-rô-ne-giơ được giao nhiệm vụ đánh vào Khác-cốp, Phương diện quân Tây – Nam đánh vào Li-xi-tran-xcơ, Cra-xnô-ác-mây-xcôi-ê, Ma-ri-u-pôn. Phương diện quân Nam đánh vào Sa-khơ-tư, vu hồi qua Rô-xtốp.

Chủ trương mở những trận đột kích phối hợp chặt với nhau về thời gian như vậy nhằm phá vỡ mặt trận quân địch trên nhiều khu vực, tạo nên mối uy hiếp vào phía sau các cánh quân chủ yếu của chủng, buộc bộ chỉ huy phát-xít Đức phải phân tán lực lượng và phải hành động cô lập trên nhiều hướng cùng một lúc.

Thực hiện quyết tâm của Đại bản doanh, phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã vạch các kế hoạch chiến dịch Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ của Cụm Biển Đen. Chiến dịch Cra-xnô-đa chủ yếu do lực lượng tập đoàn quân 56 tiến hành, chiến dịch Nô-vô-rô-xi-xcơ do tập đoàn quân 47 và hạm đội tiến hành.

Nhân chủ trương này, chúng tôi đã có nhiều lúc hồi hộp. Bộ Tổng tham mưu nhận được nhiều tin tức báo rằng, địch đã biết việc ta chuẩn bị chiến dịch ở Nô-vô-rô-xi-xcơ. Hình như thậm chí chúng còn biết rõ ta sẽ tấn công chủ yếu theo hướng qua đèo ngang Nhe-be-rơ-gia-ép-xki và đồng thời sẽ đổ bộ từ biển lên. Nếu quả thật như vậy thì phải cấp tốc thay đổi kế hoạch. Song, ta đã điều tra lại và khẳng định rằng ý định của ta không bị lộ và chiến dịch vẫn được tiếp tục chuẩn bị.

Nhưng, quân địch đã không chờ cho chúng ta thực hiện xong những kế hoạch ấy. Đúng vào lúc Đại bản doanh ra lệnh đột kích vào Ti-khô-rét-xcai-a, bộ chỉ huy phát-xít Đức đã cho tập đoàn quân xe tăng 1 rút từ Tê-rếch sang Tây – Bắc, vì phía sau chúng đang có nguy cơ bị Phương diện quân Nam uy hiếp. Chẳng cần phải có tài nhìn xa thấy rộng của các tướng soái cũng hiểu được những sự kiện này rồi sẽ phát triển tới đâu

Tập đoàn quân xe tăng 1 của địch cố tìm cách khép chặt sườn với tập đoàn quân xe tăng 4 thuộc cụm tập đoàn quân Man-stai-nơ, nhằm chặn đường tiến công của bộ đội phương diện quân Nam tại thung lũng Ma-nư-tsơ không để cho chúng ta tiến đến Rô-xtốp. Trên thực tế, địch đã tạo nên một chiến lũy thép bằng hai tập đoàn quân xe tăng của chúng. Và xe tăng, như ta đã biết, có thể dễ dàng cơ động trên các cánh đồng cỏ và trong một thời gian ngắn có thể tạo thành cụm cơ động mạnh và đánh những đòn đột kích mãnh liệt.

Hơn nữa là ở đây ngoài những đơn vị của tập đoàn quân xe tăng 1, hồi đó địch còn có một binh đoàn đặc chủng được đặc biệt đào tạo để tiến hành chiến tranh trên các sa mạc và đồng cỏ, gọi là quân đoàn “Ph” (Quân đoàn “Ph” do tướng Phen-mi thành lập. Chữ cái đứng đầu là tên họ của viên tướng này dược dùng làm tên gọi của quân đoàn. – Sr.). Trong biên chế của nó có ba tiểu đoàn mô-tô cơ giới, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, nhiều phân đội pháo cường kích và một đội máy bay. Lúc này, chúng ta có tương đối ít xe tăng và phải phối hợp xe tăng với kỵ binh để trong một chừng mực nào đó làm giảm ưu thế của quân địch.

Chủ lực tập đoàn quân xe tăng 1 của địch bứt được khỏi Cụm phía Bắc của chúng ta. Việc truy kích quân địch đang rút lui đã được tiến hành một cách thiếu tổ chức và chậm chạp. Các phương tiện thông tin tỏ ra chưa được chuẩn bị đầy đủ cho việc điều khiển những hành động tiến công. Do đó, ngay trong ngày truy kích đầu tiên, nhiều đơn vị đã lẫn lộn mất vị trí của mình. Các cơ quan tham mưu không biết được chính xác tình hình và trạng thái bộ đội của mình. Tập đoàn quân 58 đi sau đơn vị bạn, và dường như tiến trong thê đội hai. Quân đoàn kỵ binh cận vệ sông Đôn 5 và xe tăng không thể vượt lên trước bộ binh. Bộ tư lệnh phương diện quân ra sức duy trì trật. tự, nhưng cũng không kết quả lắm.

Song, bên phía Cụm Biển Đen lại không thấy hiện tượng địch rút chạy. Ở đây, chúng ngoan cố đề kháng, gắng sức cố thủ các tuyến chúng đang chiếm lĩnh. Chúng hiểu được nguy cơ gì sẽ đến với chúng khi bộ đội Liên Xô đột phá vào Cra-xnô-đa. Ti-khô-rét-xcai-a và bán đảo Ta-man.

Chính bộ tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã không đánh giá tình huống được thật chính xác. Các đồng chí ấy vẫn chú ý nhiều tới những hành động của Cụm phía Bắc như cũ, mặc dầu việc truy kích trên chính diện rõ ràng chỉ đẩy lùi được địch. Những triển vọng rất lớn đã hiện ra trong khu vực của Cụm Biển Đen. Song ở đây, bộ tư lệnh phương diện quân vẫn không áp dụng một biện pháp căn bản nào.

Ngày 4 tháng Giêng, lúc 13 giờ 30 phút, Xta-lin gọi dây nói tới Bộ Tổng tham mưu.

- Đồng chí ghi lại và chuyển cho phương diện quân. – Xta-lin nói với tôi và bắt đầu đọc chỉ thị. Đồng chí đọc chậm rãi, chắc là vừa đọc vừa cân nhắc nội dung:

“Một. Địch vừa rút khỏi Bắc Cáp-ca-dơ vừa đốt cháy kho tàng và phá hoại đường sá. Cụm phía Bắc của Ma-xlen-ni-côp sẽ trở thành cụm dự bị, có nhiệm vụ truy kích địch, đẩy địch ra khỏi Bắc Cáp-ca-dơ là không có lợi cho chúng ta. Kìm địch lại để cho Cụm Biển Đen thực hiện đột kích hợp vây chúng thì có lợi hơn. Do đó, trọng tâm chiến dịch của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đang chuyển sang khu vực của Cụm Biển Đen, điều này cả Ma-xlen-ni-cốp lẫn Pê-tơ-rốp đều không hiểu.

Hai. Phải điều ngay quân đoàn bộ binh 3 ra khỏi khu vực của Cụm phía Bắc và tiến nhanh về khu vực của Cụm Biển Đen. Ma-xlen-ni-cốp có thể tung tập đoàn quân 58 đang thảnh thơi làm đội dự bị ra hoạt động và khi tình hình tiến công của chúng ta có kết quả, tập đoàn quân đó có thể đem lại những lợi ích lớn.

Nhiệm vụ thứ nhất của Cụm Biển Đen: tiến tới Ti-khô-rét-xcai-a và ngăn địch không cho chúng chuyên chở khí tài về phía Tây. Tập đoàn quân 51 và có thể cả tập đoàn quân 28 sẽ chi viện cho các đồng chí làm nhiệm vụ ấy.

Nhiệm vụ thứ hai và chủ yếu của các đồng chí là tách một thê đội mạnh ra khỏi đội ngũ Cụm Biển Đen, chiếm Ba-ta-xcơ và A-dôp, rồi luồn vào Rô-xtôp từ phía Đông, và do đó bao vây chốt Cụm Bắc Cáp-ca-dơ của địch nhằm bắt chúng làm tù binh hoặc tiêu diệt chúng. Cánh trái phương diện quân Nam của Ê-ri-ô-men-cô đang có nhiệm vụ tiến ra phía Bắc Rô-xtốp sẽ chi viện cho các đồng chi làm nhiệm vụ này…”

Đến đây, Xta-lin ngừng lại khá lâu, rồi lại tiếp tục:

“Ba. Các đồng chí ra lệnh cho Pê-tơ-rốp mở đầu đợt tiến công đúng hạn, không được trì hoàn một giờ nào hết và cũng không đợi tất cả các đội dự bị phải tới đủ. Pê-tơ-rốp trước nay vẫn phòng ngự nên chưa có nhiều kinh nghiệm tiến công. Giải thích kỹ cho Pê-tơ-rốp rõ rằng phải chuyển sang hoạt động tiến công và phải biết quý từng ngày, từng giờ”.

Cuối cùng, Tổng tư lệnh tối cao bổ sung thêm một điểm, yêu cầu bộ tư lệnh phương diện quân phải rời ngay sang khu vực hoạt động của Cụm Biển Đen. Như vậy là: lại một lần nữa xác định rằng, những cố gắng chủ yếu của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ phải tập trung vào chính nơi đây. Bây giờ không còn là dự đoán nữa, chính tình huống đã gợi lên phương pháp hoạt động hợp lý nhất này.

Song, việc chuyển trọng tâm chiến dịch vào khu vực của Cụm Biển Đen tuyệt nhiên không cho phép làm giảm tính tích cực của Cụm phía Bắc. Dầu sao, cụm cũng đã tiến hành truy kích địch và tình hình cho phép ta hy vọng vào kết quả khả quan của chiến dịch.

Cánh phải của Cụm phía Bắc tiến được 20 ki-lô-mét ở trên tuyến Xô-gu-li-a-kin. Tại đây, quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 của chúng ta đang gặp sức chống cự của quân đoàn “Ph” của địch. Tập đoàn quân 44 đã đánh tan những đơn vị yểm hộ của hai sư đoàn xe tăng Đức 3 và 13, đã tiến quá phía Tây Xun-gien-xki được 20 ki-lô-mét.

Trong dải hoạt động của tập đoàn quân 44 còn có quân đoàn kỵ binh cận vệ 5 và binh đoàn xe tăng của tướng G. P. Lô-ba-nốp (3 lữ đoàn xe tăng, 1 trung đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn xe tăng độc lập, 2 trung đoàn tiêm kích chống tăng, tổng cộng có 106 xe tăng và 24 xe bọc thép).

Ở phía giữa, tập đoàn quân 58 đã đánh tan các đơn vị ở hai sư đoàn bộ binh 111 và 50 Đức, chiếm được Mô-dơ-đôc ngày 3 tháng Giêng và tiến chậm trên hướng Prô-khơ-lát-nưi. Ở bên trái, tập đoàn quân 9 đã đánh tan sư đoàn bộ binh 370 và sư đoàn dã chiến cơ động đường không 5 của địch, đã tiến được hơn 30 ki-lô-mét trong một ngày đêm.

Trong khu vực của tập đoàn quân 9 còn có binh đoàn xe tảng của V. I. Phi-líp-pốp (ba lữ đoàn xe tăng và hai tiểu đoàn xe tăng, cộng tất cả 123 xe tăng và còn có một lữ đoàn bộ binh, hai trung đoàn tiêm kích chống tăng). Bên cánh trái, trong lúc truy kích các đơn vị thuộc quân đoàn của Xtanh-bao-e-rơ, tập đoàn quân 37 đã chiếm được Nan-tríc và đang tiến công trên hướng Tây – Bắc.

Phía trước cánh phải Cụm phía Bắc là đồng cỏ, nơi các đơn vị cơ động có thể hoạt động thuận lợi. Còn ở giữa và bên cánh trái, theo ý kiến của Bộ Tổng tham mưu, có thể chia cắt địch bằng cách dùng tập đoàn quân 37 đột kích trên hướng Pi-a-ti-goóc-xcơ, đồng thời dùng tập đoàn quân 9 tiến công vào Ghê-oóc-ghi-ép-xcơ. Như vậy, sẽ tiêu diệt được lực lượng chủ yếu dùng để yểm hộ của địch, rồi đẩy nhanh được tốc độ những hoạt động tiến công tiếp sau. Việc tiến đến Ne-vin-nô-mư-xcơ đã mở ra khả năng cho Cụm phía Bắc thọc vào phía sau lưng quân Đức đang đóng trên dãy núi Cáp-ca-dơ chính.

Lúc này, chúng tôi nhận ra rằng các đơn vị cơ động của Cụm phía Bắc không đủ sức đánh quặp sườn địch và lại càng không thể tiến vào phía sau những lực lượng chủ yếu của địch. Các quân đoàn kỵ binh của ta đã bị suy yếu nhiều. Ví dụ như lúc bắt đầu truy kích, sư đoàn kỵ binh cận vệ 10 có trong biên chế: dưới 2.000 người, 2 khẩu pháo 76 mi-li-mét, 4 khẩu pháo 45 mi-li-mét và 4 khẩu đại liên. Sư đoàn kỵ binh cận vệ 9 có trong đội ngũ: 2.317 người, 7 khẩu pháo các loại, 8 khẩu đại liên. Còn các sư đoàn khác thì có khá hơn về mặt này, song ở đơn vị nào ngựa cũng bị kiệt sức, đến nỗi không thể đi quá 20-25 ki-lô-mét trong một ngày đêm. Không có xe tăng và máy bay yểm hộ: những sư đoàn đó tất nhiên không thể giữ vai trò quan trọng trong chiến đấu với tập đoàn quân xe tăng 1 và quân đoàn “Ph” của địch.

Đồng thời, chúng ta rất muốn áp dụng những biện pháp để nếu như không tiêu diệt được toàn bộ thì cũng tiêu diệt được một phần lực lượng địch và chiếm lấy những khí tài của chúng, phải tạo được một quả đấm đột kích mạnh nào đó bên sườn phải. Bộ Tổng tham mưu đề nghị tăng cường xe tăng cho quân đoàn kỵ binh và sử dụng những lực lượng này trên các đường rút của địch.

Những ý kiến trên của Bộ Tổng tham mưu đã được gửi tới Hội đồng quân sự phương diện quân, gọi là để tham khảo ý kiến trong lúc đang tìm kiếm cách giải quyết hợp lý nhất. Song, những ý kiến đó không được coi trọng đúng mức. Ý định tác chiến của Cụm phía Bắc gửi lên Đại bản doanh ngày 6 tháng Giêng mà bộ tư lệnh phương diện quân chắc đã đồng ý có nhiều thiếu sót quan trọng. Nói chung, kế hoạch ấy vẫn tiếp tục giữ đường lối đẩy lùi địch như cũ, làm phân tán những cố gắng của bộ đội ta, đặc biệt là của các quân đoàn kỵ binh, xe tăng và có tính chất cơ động quá phức tạp, do đó kìm hãm cuộc tiến quản của các đơn vị bộ đội ta.

Một kế hoạch tác chiến như vậy tất nhiên không được Đại bản doanh phê chuẩn. Bộ Tổng tham mưu được lệnh phân tích tỉ mỉ những hành động của Cụm phía Bắc, rồi gửi những bản phân tích đó tới tư lệnh Cụm phía Bắc và tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ. Chúng tôi đã làm việc này.

Trong thư ngày 7 tháng Giêng, Bộ tổng tham mưu nhận xét rằng các nhiệm vụ giao cho cụm đều rất không thực tế về chiều sâu ví như; giao cho quân đoàn kỵ binh Cu-ban nhiệm vụ đến ngày 9 tháng Giêng phải chiếm được thành phố Vô-rô-si-lốp-xcơ (Xta-vrô-pôn), ở cách xa vị trí của quân đoàn những 200 ki-lô-mét; tập đoàn quân 58 phải vừa chiến đấu vừa tiến được trên 100 ki-lô-mét trong hai ngày. Và, những nhiệm vụ của tập đoàn quân 44 cũng không thiết thực. Trong khi đó tập đoàn quân 9 có sức tiến quân nhiều nhất thì theo kế hoạch, lại bị kìm tại chỗ trong ba ngày và chuyển sang làm nhiệm vụ dự bị.

Bộ Tổng tham mưu đề nghị: tập đoàn quân 9 tiếp tục tiến công vào Ghê-oóc-ghi-ép-xcơ, Mi-ne-ran-nư-e Vô-dơ vì đang có ở phía trước ba lữ đoàn xe tăng; chủ lực của bộ đội cơ động chuyển sang hoạt động bên sườn phải và sử dụng những lực lượng ấy trên các đường địch đang rút lui ở khu vực Ne-vin-nô-mư-xcơ hoặc ở sâu hơn nữa; còn bên sườn trái chỉ để lại một lực lượng tối thiểu nhằm ghìm địch ở lại chân dãy núi Cáp-ca-dơ chính và tránh được những cuộc điều động xáo trộn thừa sau này. Tập đoàn quân 58 làm nhiệm vụ của thê đội hai.

Nhân đây, có nhấn mạnh thêm sự cần thiết phải căn cứ vào những khả năng thực tiễn mà lập kế hoạch chiến dịch, tổ chức cho hợp lý việc chỉ huy vững chắc và bảo đảm tiếp tế cho bộ đội.

Cần phải nêu lên rằng: đúng trong ngày những ý kiến của chúng tôi được gửi đi, tại sườn phải Cụm phía Bắc lại đứt liên lạc với các đơn vị xe tăng và kỵ binh. Các cơ quan tham mưu không nắm được chính xác tình hình của các đơn vị ấy

Sau khi đọc báo cáo tổng kết tác chiến ngày 7 tháng Giêng của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ, lúc 3 giờ 55 phút ngày 8 tháng Giêng, Xta-lin lại đọc một bức điện phẫn nộ gửi cho I. I. Ma-xlen-ni-cốp và đồng gửi cho I. V. Ti-u-lê-nép:

“…Các đồng chí đã xa rời và mất liên lạc với bộ đội của mình. Nếu trong đội ngũ Cụm phía Bắc vẫn cứ mất trật tự và mất liên lạc như vậy thì các đơn vị cơ động của các đồng chí sẽ bị rơi vào vòng vây …

Tình hình ấy không thể dung thứ được.

Tôi ra lệnh cho các đồng chí phải khôi phục liên lạc với các đơn vị cơ động của Cụm phía Bắc và ngày hai lần báo cáo đều đặn lên Bộ Tổng tham mưu về tình hình trên mặt trận của các đồng chí …

Trách nhiệm thuộc về các đồng chí…”

Trong những ngày sau đó, việc chỉ huy bộ đội ở Cụm phía Bắc đã được cải thiện đôi chút và việc truy kích được tiến hành có kế hoạch hơn, nhất là khi truy kích dọc theo con đường sắt tới Ác-ma-via. Tuy nhiên, ta vẫn không đạt được bước chuyển biến căn bản trong quá trình chiến dịch: quân địch không để cho ta đánh chiếm phía sườn của chúng, hoặc để cho các đơn vị cơ động của ta đột phá vào phía sau Cụm tập đoàn quân “A”. Song, địch cũng không chặn nổi cuộc tiến công của ta. Các trận đánh diễn ra hết sức ác liệt.

Phải kiên quyết chấn chỉnh bộ tư lệnh Cụm Biển Đen, hiện nay đang trở thành điểm tập trung những cố gắng chủ yếu của phương diện quân. Vấn đề là: từ khoảng giữa tháng Mười một 1942, ở đây đã chuẩn bị cho cái gọi là chiến dịch Mai-côp. Thời gian ấy, tổ chức chiến dịch này là hợp lý và Đại bản doanh đã chuẩn y.

Trên hướng Mai-cốp, ta đã triển khai công việc mở rộng đường sá, xây dựng các kho dự trữ, tập trung bộ đội. Nhưng đến tháng Giêng 1943, nhu cầu mở chiến dịch ấy không còn nữa. Tình huống đã thay đổi và đòi hỏi ta phải tiến công trên hướng Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ, điều đó buộc ta phải thay đổi tất cả và phải thay đổi rất gấp.

Theo chỉ thị của Xta-lin, bộ tư lệnh phương diện quân đã đến sở chỉ huy của Cụm Biển Đen ở Mô-lô-đe-giơ-nôi-e (gần Tu-áp-xe), cùng với I. E. Pê-tơ-rôp nghiên cứu ý định mở hai chiến dịch mới (lấy tên là “Núi”) và “Biển”. Trong lúc này, bộ đội và đặc biệt là pháo binh, đã bắt đầu kéo về hướng Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ. Việc tập trung bộ đội dọc theo những đường núi ở đây gặp nhiều khó khăn lớn.

Kế hoạch mở hai chiến dịch của Cụm Biển Đen đã được đệ trình lên Đại bản doanh và ngày 8 tháng Giêng đã được đem ta xét duyệt.

Theo kế hoạch “Núi”, thì tập đoàn quân 56 giữ vai trò chủ yếu. Quyền chỉ huy tập đoàn quân này được giao cho tướng A. A. Grê-xcô. Đồng chí đã nổi tiếng là xuất sắc khi chỉ huy khu vực phòng ngự Nô-vô-rô-xi-xcơ, rồi chỉ huy tập đoàn quân 18 ở Tu-áp-xe; tại đây địch đã bị chặn đứng trong những ngày phòng ngự ác liệt ở Cáp-ca-dơ. Tập đoàn quân 56 có một lực lượng đáng kể: 5 sư đoàn bộ binh, 7 lữ đoàn bộ binh, xe tăng và những phương tiện tăng cường khác.

Chiến dịch gồm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một (ngày 14-18 tháng Giêng), dự định đánh tan số đơn vị địch đang chống lại tập đoàn quân 56, chiếm Cra-xnô-đa và những bến vượt qua Cu-ban. Giai đoạn hai (ngày 19-30 tháng Giêng), sẽ tiến công từ khu vực Cra-xnô-đa tới Ti-khô-rét-xcai-a và chiếm tuyến Ti-khô-rét-xcai-a, Ca-nép-xcai-a. Trong kế hoạch không thấy nhắc đến việc sau đó sẽ tiến ra Ba-tai-xcơ.

“Sẽ rầy rà đây” – chúng tôi nghĩ vậy, mặc dù thành thật mà nói, chính chúng tôi cũng không tin rằng Cụm Biển Đen có thể tiến được tới Ti-khô-rét-xcai-a, chứ đừng nói tới được đến Ba-tai-xcơ, vì quân địch đang bị Cụm phía Bắc truy kích sẽ rút về đây và tất nhiên sẽ đến đây trước bộ đội ta. Nhưng, Tổng tư lệnh tối cao nói rõ Ba-tai-xcơ là mục tiêu đ?