Chương 2 Đạo quán
Một người một heo tiêu dao tự tại dạo bước, tới thăm một đạo quán. Trên sơn môn có ba chữ “Huyền Diệu Quán”, đượm vẻ cổ kính, không biết là thuộc triều đại nào, do ai viết ra. Nơi này tuy rộng nhưng xem ra rách nát đã lâu. Cỏ cây cực kỳ rậm rạp, bởi không có ai quản lý nên mặc sức sinh trưởng, dường như muôn chiêm hết sinh cơ mùa xuân. Ven cạnh tường viện loang lổ là từng đóa từng đóa bìm bìm, hoa xen san sát, cây leo thì bám tường mà lên, rợp bức tường trắng sắc lục thăm thẳm. Trong tường ngoài tường, đào hoa ngút tầm mắt, muôn trắng ngàn hồng, um tùm tới mức có cảm giác kiều diễm tới yêu mị, nơi nơi đều trắng phân thắm hồng, mỹ lệ phủ khắp. Không biết vì sao cảnh sắc yêu kiều nhường ây lại khiên người ta không dưng dấy mối phiền muộn, giông như ánh chiều tàn nơi chân trời, biến đổi chỉ trong khoảnh khắc, muôn ngàn cảnh sắc đẹp đẽ cuối cùng trở về trầm tịch.
Một người một heo tiêu dao tự tại dạo bước, tới thăm một đạo quán. Trên sơn môn có ba chữ “Huyền Diệu Quán”, đượm vẻ cổ kính, không biết là thuộc triều đại nào, do ai viết ra. Nơi này tuy rộng nhưng xem ra rách nát đã lâu. Cỏ cây cực kỳ rậm rạp, bởi không có ai quản lý nên mặc sức sinh trưởng, dường như muốn chiếm hết sinh cơ mùa xuân. Ven cạnh tường viện loang lổ là từng đóa từng đóa bìm bìm, hoa xen san sát, cây leo thì bám tường mà lên, rợp bức tường trắng sắc lục thăm thẳm. Trong tường ngoài tường, đào hoa ngút tầm mắt, muôn trắng ngàn hồng, um tùm tới mức có cảm giác kiều diễm tới yêu mị, nơi nơi đều trắng phấn thắm hồng, mỹ lệ phủ khắp. Không biết vì sao cảnh sắc yêu kiều nhường ấy lại khiến người ta không dưng dấy mối phiền muộn, giống như ánh chiều tàn nơi chân trời, biến đổi chỉ trong khoảnh khắc, muôn ngàn cảnh sắc đẹp đẽ cuối cùng trở về trầm tịch.
Người vừa tới đây lại chẳng có ý thương xuân tiếc thu, bước chân chẳng ngừng, việc mình mình lo mà tiến tới, thẳng đến khi từ xa xa vọng lại tiếng gọi trong trẻo: “Này!”
Người áo xanh bây giờ mới đứng lại, ngẩng mặt lên. Một bóng trắng hệt như sao băng len lỏi xuyên qua các ngọn cây, chớp mắt đã tới trước mặt rồi buông mình nhảy xuống. Đó là một thiếu nữ mười lăm đến mười sáu tuổi, chân trần, đôi mắt long lanh, trong vẻ trẻ con lộ ra nét bướng bỉnh, mái tóc dài vậy mà lại trắng hệt như tuyết. Vì chạy nhanh nên có hơi hổn hển, đôi gò má hây hây hồng đỏ.
“Tiểu Hầu Nhi.” Người áo xanh đưa bánh đường lên, đung đưa trước mũi đối phương, thiếu nữ chớp chớp mắt, tựa hồ như muốn xác nhận thân phận người mới tới, rồi bỗng toét miệng, tròn tròn nơi gò má trái là một lúm đồng tiền, cất tiếng gọi lớn phấn khởi bừng bừng: “Lão đạo sĩ, mau ra đây! Tiên sinh nhà Đầu Gỗ tới này!”
Níu chặt lấy tay áo nam tử áo xanh, quơ một cái đoạt lấy bánh đường trong tay hắn, gần như không thấy được động tác của cô bé, rồi cô bé lại nhanh nhẹn mà uyển chuyển đu lên cây đào, ngồi trên một cành ngang mà chăm chú gặm món ăn trong tay. Đôi chân đung đưa, thần thái bộ dạng đúng thật là giống một chú khỉ trắng.
Màn tiếp theo mới khiến người ta không dám tin vào mắt mình: Hai cây hoa đào giống hệt như vật sống từ từ di động, tránh sang hai bên, lập tức trong rừng đào rậm rạp xuất hiện một con đường thông. Vị khách tựa như đã thấy nhiều thành quen, thẳng đường tiến tới, một mạch đi vào nơi sâu nhất trong rừng đào, nơi đó có một đám ánh sáng trắng phập phù bất định, nhìn kỹ, hóa ra là một người múa kiếm, thân hình màu trắng bị bao bọc trong kiếm quang chói mắt, phiêu hốt bất định, đang thấy trước mắt bỗng hóa sau lưng. Mũi kiếm vạch không trung, đột nhiên ngân vang một tiếng, bảo kiếm hệt như điện chớp, thế như muôn vàn sấm sét phi vọt về nam tử áo xanh.
Một hồi này thình lình chẳng kịp đề phòng, cái mau lẹ của thế kiếm, cái hung mãnh của lực đạo, đơn giản là không thể tưởng tượng. Kiếm phong chớp mắt chạm người, mắt thấy sắp xuyên ngực tới nơi, chính như cái gọi là tên đã rời dây, xem thế kiếm mà luận, cho dù chính bản thân người ra tay cũng chắc chắn không cách nào thu về được.
Nam tử nọ vẫn đứng im tại chỗ, chẳng mảy may né tránh chút nào, thậm chí vẻ mặt cũng vẫn trân định như thường. Đúng vào một chốc lát ấy bỗng nghe thấy tiếng ngân khe khẽ tựa tiếng thủy tinh vỡ, kế đó ánh sáng tan đi, bảo kiếm đã nát vụn từng mảnh, theo nhau rơi xuống đất phát ra tiếng leng keng. Hoa đào đầy trời cũng vào lúc ấy rơi rụng, sắc hồng tơi bời một vùng.
“Hảo kiếm pháp.” Cái người vừa lượn một vòng giữa bờ sinh tử vỗ tay cười nói nhưng chẳng có chút cảm giác gì, kế đó lại than thở: “Đáng tiếc cho thanh kiếm này.”
Đối diện hắn là một đôi mắt còn sắc nhọn, lạnh lẽo hơn cả kiếm quang, đang chăm chú nhìn hắn. Dần dần, hàn ý trong đôi mắt đó từ từ lui đi, thay vào đó là vẻ tươi cười ấm áp.
“Không đáng tiếc.”
“A?”
“Một kiếm Thiên Tuyệt, có đi không về. Kiếm ý một khi đã cạn, thanh kiếm này cũng đã tới điểm cuối.”
“Ai da, trên đời làm gì có cái chuyện điểm cuối? Đi tới lúc không còn đường để đi nữa thì quay đầu là được. Âm cực thì dương sinh, bĩ cực thì thái lai, họa phúc nương nhau. Ai, không nói nữa, mấy đạo lý đạo gia này lão huynh còn thuộc hơn ta nhiều.”
“Ha ha.” Người cầm kiếm nọ thuận tay vứt thanh kiếm chỉ còn lại một đoạn nhỏ đi, khí thế khiến người khác không dám nhìn thẳng ban nãy lúc này mới tan hết. Cuối cùng cũng nhìn rõ được thân hình của người múa kiếm, trang phục đạo sĩ, một tấm áo bào trắng bên trên có hoa văn màu xám tro rõ nét, là dùng dây đay dệt thành, eo thắt dây đai dài cùng chất liệu. Chỉ nhìn riêng diện mạo thật không rõ được tuổi tác, mắt phượng mày dài, vẻ phiêu hốt tựa như tiên.
“Tuy bảo bĩ cực thái lai, như rốt vẫn là có sinh sẽ có diệt. Kiếm này không diệt, vậy phải diệt chính là lão đệ rồi.”
“Nói như vậy, ta hẳn nên cảm kích quán chủ coi trọng mạng ta hơn kiếm rồi?”
“Đâu chỉ thế. Trường An tuy lớn, đáng coi trọng cũng chỉ có một người.”
“Chà, được ưu ái như thế, Lý mỗ thật may mắn lắm lắm.”
Nam tử áo xanh chính là ông chủ của Tùy Ý lâu Lý Thuần Phong, đạo nhân là quán chủ Huyền Diệu quán. Người này lai lịch đặc biệt, lại ẩn cư ít ra ngoài, không ai biết tính danh, chỉ nhân nơi đây hoa đào tươi tốt bèn gọi hắn là Chủng Đào đạo nhân. Giữa hai gã cổ quái liền, có tình bạn càng thêm cổ quái.
Chỗ sâu trong vườn đào, bàn ghế là do gốc đào thô cũ đẽo thành, hình dạng to nhỏ không đều, kiểu dáng cũng không gò theo một quy cách nào. Trên bếp than nước đang sôi, hương trà u nhã hòa cùng hương hoa ngào ngạt, giăng khắp không gian. Thiếu nữ tóc trắng vẫn nằm trên cành đào, trong tay là một nhánh cây, nhàn nhã trêu chọc chú heo chỉ một lòng muốn ngủ dưới gốc cây, chủ nhân thì ngồi đối diện với khách tới thăm dưới ánh nắng xuân: Cảnh này xứng đưa vào tranh vẽ.
“Nói đi, tới tìm ta có việc gì?”
“Câu này thật là vô tình, lẽ nào không có chuyện thì không thể tới tán chuyện xưa sao? Cẩn thận đừng làm nó bị thương, đây là thù lao sớm nay ta đi khám bệnh đấy.”
Câu cuối của Lý Thuần Phong là nói với thiếu nữ đang trêu chọc chú heo nọ. Đạo nhân không đáp, chỉ là đôi mắt chăm chú. Chủ quán rượu chỉ đành ho khan một tiếng, thu lại vẻ cười cợt.
“Chuyện này, thật ra là muốn nhờ huynh xem giúp một vật.”
Hắn xòe tay ra, xuất hiện một hạt gì đó đen đen nằng nặng, to độ hạt đào, trông giống một viên đạn. Đạo nhân đón lấy ước lượng, lúc nãy cảm thấy nặng, ra là làm bằng chì; đưa lên mũi ngửi ngửi, có mùi máu tanh nhàn nhạt, sắc mặt đạo nhân vì thế mà thay đổi.
“Đệ có được nó từ chỗ nào?”
Lý Thuần Phong tỉnh bơ đáp: “Nhặt được đấy, tin không?”
“Không tin.”
Đạo nhân đáp thẳng thắn cực kỳ, Lý Thuần Phong không khỏi cười khổ, lắc đầu. “Làm người nếu mà nghiêm túc quá thì không khỏi vô vị.”
Đạo nhân chẳng mảy may bận tâm tới lời trào phúng của đối phương, trực tiếp hỏi: “Chết mấy người?”
“Sáu người. Hai người là nội thị, ba người là mệnh quan triều đình, còn một người thì là em trai của Dương phi.”
Lý Thuần Phong xoay viên đạn trong tay: “Tử trạng giống nhau, đạn đều bắn vào giữa hai lông mày, không nghiêng không lệch. Người bị giết trước đó đều nhận được một vài thứ đồ kỳ quái, dạng như một cái tai, một cái răng người hoặc một ngón tay, sau đó không quá ba ngày liền bị giết hại. Người chết không ai ngoại lệ, khuôn mặt đều vặn vẹo, vẻ như kinh hãi, hình như trước khi chết đã trông thấy chuyện gì đó cực kỳ đáng sợ.”
Đạo nhân hừ một tiếng, nói: “Trên đời làm gì có chuyện gì không để lại dấu vết.”
“Đúng thế, do đó mới phải tới thỉnh giáo quán chủ.”
“Chẳng phải nói Lý tiên sinh của Tùy Ý lâu không gì không biết, không gì không hay sao?”
“Trên đời chuyện đồn thổi rất nhiều, đây cũng là một ví dụ trong số đó.” Gã chủ quán rượu cười khì khì đặt viên đạn xuống, bóc một hạt lạc. “Sở trường duy nhất của Lý mỗ, đại khái là có được mấy vị bằng hữu không gì không biết, không gì không hay.”
“Bớt nịnh hót đi. Chuyện mò bi mượn khách, Đạo Chi* không phải là chưa nghe qua đấy chứ?”
Tên tự của Lý Thuần Phong là Đạo Chi. (DG)
Từ thời Hán, trong thành Trường An có tổ chức chuyên đi hành thích, gọi là Du Hiệp lệnh, lấy việc thay người khác báo thù là nghề nghiệp. Sau khi lựa chọn mục tiêu, bỏ đầy bi chì vào túi da, người mò được bi đỏ thì giết quan võ, bi đen thì giết quan văn, bi trắng phụ trách lo liệu hậu sự, đấy gọi là mò bi mượn khách. Tổ chức này hành tung bí ẩn, không ai lường được, chính là hình thức sơ khai của nghề sát thủ. Về sau dần dần tuyệt tích, tới thời Tùy Đường đã trở thành dạng nhân vật trong truyền thuyết.
“Có nghe qua nhưng không rõ nội tình.” Ngón tay thon dài của Lý Thuần Phong gõ lên mặt bàn, dường có suy tư. “Doãn Thường thời Hán từng dựng hang cọp, giăng lưới lùng bắt, kẻ bị giết hại phải tính bằng ngàn, từ đó im hơi lặng tiếng. Lẽ nào tổ chức này chưa hề bị diệt?”
“Lão đệ chỉ biết một mà không biết hai. Doãn Thường hủy được Du Hiệp lệnh, không phải bởi ông ta năng lực hơn người mà vì nội bộ bên trong Du Hiệp lệnh chia rẽ. Mạc phái dựa vào Hồng Dương hầu Vương Lập, ngầm gia nhập âm mưu soán ngôi nhà Hán của ngoại thích*, bỏ sức giúp nhà họ Vương diệt trừ các thế lực cản trở trong triều đình; Vũ phái thì là các lãng khách giang hồ, thờ nguyên tắc thay trời hành đạo trừ gian diệt ác, không giết người lành. Lý tưởng của hai phái không hợp nhau, mâu thuẫn dần tích tụ ngày một sâu, cuối cùng Mạc phái mượn tay Doãn Thường diệt trừ sạch sẽ phái đối địch.”
Ngoại thích: Chỉ họ bên nhà vợ vua. Thời các vua Thành đế, Ai đế nhà Hán, họ Vương là ngoại thích, nắm quyền lớn, về sau Vương Mãng soán ngôi nhà Hán, lập nên nhà Tân, tuy nhiên nhà Tân chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi là 16 năm. (DG)
“Thảo nào. Ta đọc Hán thư, cũng từng lấy làm lạ đối với chuyện này. Năm đó Du Hiệp lệnh hoành hành không kiêng kỵ trong thành Trường An, thế lực rộng lớn nhường nào, vậy mà Doãn Thường lại có thể chỉ trong có một tháng ngắn ngủi bủa lưới bắt sạch, thật không khỏi quá mức thần kỳ. Hóa ra là do nội bộ tranh đấu mà bị hủy.”
“Không sai. Cho nên mới nói, Du Hiệp lệnh vẫn luôn tồn tại, chỉ là từ ngoài sáng ẩn vào trong tối. Cho tới sau khi Vương Mãng bại vong, Mạc phái mất đi chỗ dựa, vây cánh cũng tử thương gần hết, từ đó liền lăn lộn trong giang hồ, đời đời nối nhau, dần diễn biến thành tổ chức sát nhân bí mật. Bọn họ có ám ngữ, pháp thuật mật truyền của riêng mình, võ nghệ thì cao cường, thân phận lại giấu kín, giết người nhận thù lao, trừ phi là nhân sĩ trong lệnh, người ngoài không ai biết được.”
“Huynh muốn nói, mấy vụ ám sát xảy ra trong thành có liên quan tới tổ chức này?”
Bất ngờ là đạo nhân lại lắc đầu. “Khó nói. Theo như ta biết, vì phòng ngừa bị lộ thân phận, người Du Hiệp lệnh về sau rất ít dùng bi đạn giết người.”
“Ừm” một tiếng, Lý Thuần Phong cất viên đạn vào người, đứng dậy chắp tay. “Đa tạ quán chủ bảo cho biết, tại hạ cáo từ.”
Mắt tiễn nam tử nọ đi xa, đạo nhân cũng đứng dậy, chắp tay sau lưng than thở, tâm trạng tịch mịch. Thiếu nữ đã ăn hết bánh đường, lúc này đang lười biếng nằm cuộn trên cây, tựa hồ ngủ rồi. Xuyên qua những cành đào rậm rạp, lờ mờ thấy được bầu trời cao xanh trong trẻo, mây mỏng cuốn bay, quả thật là thời tiết tốt.