Chương 13 Vô danh
Tất thảy chỉ diễn ra trong chớp mắt, biến cố bất ngờ, chẳng ai kịp ngăn cản, tiếng kêu thét dưới đài nối nhau vang lên. Uất Trì Phương đã ngồi bệt xuống đất, tầm mắt dần dần mờ đi, chỉ thấy thiếu nữ đưa tay tháo mặt nạ quăng đi, thân hình trong sắc đỏ trông hệt như một đám lửa, kiều diễm đứng trong mưa gió, dường như có thể bị gió thổi tắt bất cứ lúc nào. Bên tai nghe thấy giọng nói trong trẻo của nàng, từng chữ từng chữ lọt vào tai, rõ ràng như đinh đóng cột:
“Con gái Lư Giang vương là Lý Hành báo thù cho cha, đâm chết thằng giặc họ Vương. Tâm nguyện đã thành, tự nên ngậm cười nơi chín suối.”
Trong bất chợt không thể tự kiềm chế, Uất Trì Phương dốc hết sức lực sau cùng gọi lớn tên nữ tử: “Lý Hành!” Thiếu nữ quay đầu lại, ánh mắt không nhìn tới đám binh sĩ vừa mới hoàn hồn đang lao về phía nàng, chỉ một mực chăm chú nhìn Uất Trì Phương, trên khuôn mặt loáng thoáng thấy được thần thái dưới đèn đêm trước nhưng có thêm mấy phần dịu dàng lại thê lương.
“Nếu huynh gọi là tên muội thì tốt biết bao.”
Kế đó xoay đao tự cứa cổ, máu tươi phun ra, tưới đỏ một khoảng không gian, tựa như cánh hoa rụng trong mưa. Uất Trì Phương thét to một tiếng rồi theo đó hôn mê.
Sử chép, Đại đô đốc U Châu Vương Quân Khuếch kiêu căng làm trái phép nước, bị kẻ thù giết chết. Thái Tông niệm công lao trước, an táng dưới núi Ly Sơn. Còn như thân phận thật sự của thích khách thì sớm đã không thể khảo chứng. Đồn là do con gái của Lư Giang vương báo thù cho cha, nhưng triều đình giữ kín như bưng, mọi nghị luận đều chỉ giới hạn trong bàn tán riêng tư. Thiên tai qua đi, thành Trường An mau chóng khôi phục lại cảnh tượng phồn hoa, bao nhiêu chuyện kinh tâm động phách khi trước, giờ nhìn lại thật giống như một cơn ác mộng.
Mộng mị dẫu dài đến đâu cũng có lúc tỉnh lại. Mưa lớn kéo dài suốt mười ngày mới ngớt, lá cây bởi được nước mưa gột rửa mà có màu xanh biếc mượt mà, tươi tắn ướt át. Có chú chim sẻ không biết từ đâu bay tới khẽ cất tiếng hót, có điều chẳng thấy được bóng dáng nó đâu, có khi đang nấp dưới cái lá nào đó. Uất Trì Phương mơ mơ hồ hồ mở mắt, chỉ cảm thấy toàn thân hệt như bị rút mất gân cốt, không có một chút sức lực. Trong đầu vẫn đang mê mê man man, mũi đã ngửi thấy mùi thuốc thoang thoảng, cố sức quay đầu lại, chỉ thấy ở góc tường có bóng người quen thuộc, không nghĩ ngợi gì liền cất tiếng gọi.
“Dao Quang!”
Giọng nói khản đặc khác thường, bản thân suýt nữa không nhận ra, có điều cũng khiến cho thiếu niên đang bận rộn sắc thuốc quay đầu lại, vui vẻ nói: “Ầy, ngài tỉnh rồi!”
Lúc trông thấy khuôn mặt thiếu niên, ký ức của Uất Trì Phương mới bắt đầu khôi phục từng chút từng chút một. Bóng dáng màu đỏ trên đài cao, con dao sắc nhọn đâm vào người cho tới cảnh máu phun đầy trời cuối cùng. Lồng ngực quặn đau, hiệu úy trong vô thức ôm lấy. Dao Quang đã để ý thấy cử động của hắn, nhíu mày đi tới. “Này này, lộn xộn gì đấy? Ngủ suốt mười ngày, mới tỉnh lại đã không ngoan ngoãn.”
“Mười ngày?” Uất Trì Phương mở to mắt không dám tin, sau đó phiến muộn nói: “Sao ta lại trở nên vô dụng như thế!.”
“Tiên sinh nói rồi, nữ tử nọ lúc ra tay đã tránh chỗ yếu hại, vết thương không nặng. Có điều tâm tư ngài nóng nảy, khí huyết chạy loạn, sợ là có hại cho vết thương, cho nên mới cho ngài uống chút thuốc an thần, để ngài ngoan ngoãn ngủ, như thế mới lành nhanh một chút.”
“Thì ra là ý của Lý huynh.” Bấy giờ Uất Trì Phương mới thở phào. Từ từ cử động thân thể, chỗ vết thương chỉ hơi hơi đau, đã không có trở ngại gì lớn. Thử ngồi dậy, chỉ cảm thấy thân thể có chút uể oải, còn lại không có gì không ổn, đây ắt hẳn là nhờ vào bàn tay lành nghề của chủ quán rượu, trong lòng hiệu úy ngầm cảm kích. “Lý huynh đâu? Sao ngươi không về Tùy Ý lâu?”
“Tiên sinh muốn ta ở lại chăm sóc ngài.” Dao Quang bĩu môi, bộ mặt không vui. “Thật ra ta thấy tiên sinh ước gì ta không ở nhà, không có ai làm phiền người. Ầy, mấy ngày nay một mình tiên sinh ở lại lâu, chẳng biết có gây ra họa gì không.”
Thấy bộ dạng chán nản của tiểu quản gia, Uất Trì Phương không nhịn nổi cười. “Yên tâm đi, tiên sinh nhà ngươi dù sao cũng không đến mức phá nát Tùy Ý lâu.”
“Không sai. Nếu phá đi thật, xây lại há chẳng phải dùng tới bạc của ta sao?” Giọng nói kèm tiếng cười từ ngoài cửa vọng vào. “Vẫn là Uất Trì hiểu ta.”
Theo giọng nói, rèm cửa được vén lên, một người chậm rãi đi vào, áo xanh tóc buộc, khuôn mặt tươi cười, chính là Lý Thuần Phong. Uất Trì Phương mừng rỡ gọi: “Lý huynh!”
“Uất Trì đã tỉnh. Cảm thấy thế nào?”
Hiệu úy duỗi gân cốt, thoải mái cười nói: “Xem ra ngày mai đã có thể cưỡi ngựa vung đao rồi.”
“Ha ha, vậy thì tốt. Nằm lâu không có lợi cho việc hồi phục, cũng nên dậy vận động một chút. Giờ này ngày mai ta tới đón huynh.”
“Đón ta? Định đi đâu thế?”
“Tới lúc ấy sẽ biết.”
Xe chựa rộng rãi dễ chịu, thẳng một đường về hướng đông nam, xe đi thong thả, cũng không cảm thấy xóc lắm. Trong lòng Uất Trì Phương nghi hoặc, nhưng chủ quán rượu kín miệng không nhắc tới mục đích chuyến đi nên cũng không hỏi. Mãi tới khi đi tới một nơi thì mới bảo xe dừng lại. Bước xuống xe, lọt vào mắt là một ngôi mộ mới dưới chân núi Ly Sơn. Ngôi mộ nọ xây cực kỳ đẹp đẽ, trước mộ tùng bách mới trồng, sau mộ liễu rủ thướt tha. Trước mộ có dựng một tấm bia đá trơn nhẵn nhưng không khắc tên.
“Đây là...”
Bất chợt hiểu ra, trong lòng Uất Trì Phương đau nhói, vươn tay tựa lên bia đá. Lý Thuần Phong than một tiếng, vỗ vai hắn nói: “Nam nhi đại trượng phu, đáng buồn thì buồn, nên vui thì vui, không cần kiêng kỵ. Kìm nén chính mình ngược lại dễ gây buồn bực, có hại với bản thân.”
“Ta... ta...” Trong khoảnh khắc, cõi lòng Uất Trì Phương có muôn vàn suy nghĩ kéo đến dồn dập, đến đến đi đi, dần dần suy nghĩ trở nên rõ ràng. Bi thương hối hận dần lui đi, lại như có sự giải thoát tựa như đã triệt để hiểu thấu. Bỗng ngẩng đầu lên, hiệu úy nắm chặt tay chủ quán rượu, nói: “Đa tạ!”
Lời này nói ra chân thành, chủ quán rượu lại né tránh ánh mắt của hắn. “Không cần cảm ơn ta. Xin lỗi, ta không thể giữ trọn lời hứa với huynh. Cái có thể làm được cũng chỉ thế này.”
“Không, chuyện này không thể trách huynh. Huynh đã xin được thánh chỉ cho muội ấy, là ta không thể ngăn cản...”
“Chớ nói như vậy. Nàng là nữ tử thông minh, hôm đó đâm huynh một dao, vừa là để ngăn huynh cản trở hành động của nàng, cũng là tránh không liên lụy tới huynh. Cầu nhân được nhân, ta nghĩ lúc nàng lìa đời, trong lòng cũng không hề nuối tiếc.”
Triền núi xanh biếc, một dòng suối trong róc rách chảy qua, bốn bề cảnh sắc như vẽ, loáng thoáng nghe thấy tiếng trẻ con cười nói ngoài rừng, đây chính là cảnh đẹp ngày lành khó mà dứt bỏ trên đời. Trong lòng Uất Trì Phương thoáng được an ủi, chợt nghĩ tới một chuyện, hỏi: “Sao trên bia mộ lại không có tên?”
“Bởi ta không biết tên của nàng. Nàng tuyệt không phải Lý Hành chân chính.”
“Sao cơ?”
“Hôm đó huynh nói nàng là con gái của Lư Giang vương, ta đã cảm thấy kỳ lạ. Nữ tử hoàng thất không thể không có ai nhận ra, nhất là giữa nàng cùng Vương Quân Khuếch còn từng có hôn ước, thủ hạ của họ Vương lại có không ít là thuộc hạ cũ của Lư Giang vương năm xưa, sao có thể gặp mặt mà không nhận ra?
“Hôm trước huynh hỏi quận chúa có từng gặp Lư Giang vương chưa cũng là vì việc này?”“
“Phải, quận chúa trả lời, Lý Hành từng vào cung mấy lần. Trước khi tế lễ, theo lệ là phải diện kiến hoàng thượng nhận phong thưởng. Nếu thật sự là Lý Hành, nguy cơ bị người ta nhận ra quá lớn, nàng không nên ngốc nghếch đến thế.”
“Nhưng mà, ta nhớ rõ ràng...” Hiệu úy nói được nửa câu thì khựng lại. Quả thật, cái hắn nhớ được về lần đầu tiên gặp thiếu nữ cũng chỉ là một bóng hình mơ hồ, thật không thể xem là “nhớ rõ”.
“Cho nên, nữ tử này tuyệt không phải Lý Hành. Lý Hành thật sự, có lẽ đã chôn thây trong đám loạn quân.”
“Vậy nàng là ai?” Uất Trì Phương mất kiềm chế lớn tiếng kêu lên.
Đúng lúc ấy, trong rừng vọng ra tiếng cười đùa. “Tiểu Phương ca ca, chậm một chút, đợi muội với...”
Trong khoảnh khắc cõi lòng hiệu úy rúng động. Quay đầu nhìn, thì ra là một đứa bé trai cùng hai đứa bé gái nhỏ tuổi hơn, cùng hiệu úy không hề quen biết, hẳn cách xung hô kia cũng là trùng hợp. Trong hai bé gái, một người thân mặc y phục hoa lệ, cười tươi như hoa, thần sắc vui tươi, tiếng gọi chính là của cô bé. Một bé gái khác người mặc áo giản dị thuần màu, khuôn mặt rụt rè, bám sát sau lưng người đi trước, trông giống một đôi chủ tớ. Một cái liếc nhìn, dường như có gì đó lay động tơ lòng, Uất Trì Phương không nhịn nổi kêu lớn.
“Là nàng! Ta nhớ ra rồi! Nàng là thị nữ của Lý Hành!”
Câu này buông ra liền giống như thình lình mở toang cái hộp đã bị phủ bụi lâu ngày, tất thảy chuyện cũ lập tức ùa tới, giống như làn suối trong suốt chảy qua đá trắng, có thể thấy rõ ràng từng gợn sóng. Năm đó, trong phủ Lư Giang vương, cô bé nhút nhát luôn cúi đầu theo sau tiểu thư, thi thoảng lén cười nhìn trộm mình nọ; thiếu nữ xa lạ đột nhiên gặp gỡ vào đêm hôm trước, dùng cách xưng hô đùa giỡn thuở nhỏ chỉ có người trong cuộc mới biết, và cả bóng hình trong sắc đỏ thê lương mà quyết tuyệt, miệng nói “nếu là muội thì tốt biết bao” trên đài cao ấy... Trong một khoảnh khắc, tất thảy đều tái hiện, lần lượt trôi qua trước mắt, rõ ràng khôn tả.
“Phải, không sai, nàng tên là, nàng tên là...”
Hồi ức dừng hẳn ở đây, Uất Trì Phương chợt nhận ra, bản thân không hề có chút ấn tượng nào đối với tên họ của nữ tử ấy. Năm xưa, sức chú ý của hắn đều dồn cả vào người vị tiểu thư ngây thơ nọ, làm sao có thể lưu ý tới tiểu nha hoàn bình phàm ở đằng sau cô bé, lặng lẽ nhìn mình? Bậc nữ tử trọng nghĩa báo thù cho chủ ấy, vứt bỏ tính mạng và tình cảm của bản thân, nhưng không hề lưu lại trên đời chút dấu vết nào, sống không biết tên, chết không biết họ. Nghĩ tới đây, Uất Trì Phương buồn bã ngồi sụp xuống, ôm đầu nói: “Nàng tên là gì, ta không nhớ được.”
“Không nên đau buồn.” Nam tử áo xanh không nhìn hiệu úy, vẫn như bình thường, chăm chú nhìn tầng không xa xôi trong biếc như gột. Vừa như trả lời đối phương, lại giống thì thầm tự nhủ. “Kết cục đã định, nhớ hay quên, mười năm hay trăm năm, đều không có gì phân biệt.”
Niên hiệu Trinh Quán, Tán Phổ nước Thổ Phồn là Tùng Tán Ca Bố phái đám Lộc Đông Tán đi sứ nhà Đường, mong muốn thông hôn. Thái Tông hứa đem nữ tử hoàng thất là Phất Vân gả cho, gia phong là Văn Thành công chúa. Đại Đường và Thổ Phồn từ đó láng giềng hòa thuận, qua lại tấp nập.
Sau khi đoàn nghi trượng của hoàng gia ra khỏi cửa kinh đô đi về phía tây, trong Tùy Ý lâu, một người từ từ cởi nút sợi tơ buộc hộp ngọc. Trong hộp chẳng có gì khác, chỉ có một đồng tiền đồng luồn qua dây đỏ, đặt trên một tờ thư màu da trời, trên thư cũng không có lời gì, chỉ có nét bút thanh tú ngay ngắn của nữ tử viết hai chữ: Tham Thương.
Ra khỏi ải Dương Quan đi về phía tây, miên man ngàn dặm là gió cát cuộn bay. Dãy núi nguy nga, đỉnh cao tuyết phủ, hết thảy đều sẽ thuộc về một câu truyện truyền kỳ khác của vị nữ tử nhà Đường này.
HẾT