← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 44

Trái phiếu hạt phát hành năm 1977 đã đem lại lượng tiền lớn để cải tạo bệnh viện. Cuối tầng trệt có một nhà nguyện hiện đại dù khá tối, nơi tôi từng ngồi với Margaret và gia đình bà khi mẹ bà qua đời. Khi tôi đến đó, nhà Ruffin, toàn bộ tám người con và dâu rể, chỉ thiếu vợ của Leon, cùng 21 người cháu đang ngồi chờ ở đó. Mục sư Small cũng đến cùng kha khá đồng đạo của bà Callie. Ông Esau đang ở trên lầu, trong khu vực chăm sóc đặc biệt, chờ đợi bên ngoài phòng bà Callie.

Sam kể là sau khi ngủ trưa, bà tỉnh dậy thì thấy đau dữ dội ở tay trái, rồi tê chân trái và chẳng mấy chốc đã lắp bắp, không thể nói được thành lời. Xe cấp cứu vội vã đưa bà đến bệnh viện. Bác sĩ chắc chắn đây là triệu chứng ban đầu của đột quỵ, chẩn đoán sơ bộ là trụy tim nhẹ. Bà được bác sĩ cho dùng thuốc và giám sát chặt chẽ. Chẩn đoán mới nhất của bác sĩ là từ hồi 8:00 tối, tình trạng của bà “nghiêm trọng nhưng ổn định.”

Bác sĩ không cho người vào thăm bệnh, nên giờ họ chỉ có thể chờ đợi, cầu nguyện và tiếp những người bạn thay nhau đến hỏi thăm về bà Callie. Sau một tiếng ở nhà nguyện, tôi đã thấy cần phải ngủ lắm rồi. Max, chỉ là anh Tư nhưng chắc chắn là thủ lĩnh của cả nhà, đứng ra chia lịch thức đêm. Phải luôn có ít nhất hai người con của bà Callie túc trực ở bệnh viện.

Tầm 11:00, chúng tôi hỏi thăm bác sĩ lần nữa, ông trả lời có vẻ tích cực rằng bà vẫn ổn định. Ông bảo bà “đã ngủ, nhưng sau vài câu, chúng tôi mới biết họ đã cho bà dùng thuốc ngủ để ngăn chặn bất kỳ cơn đột quỵ tiềm tàng nào có thể sớm xảy ra. “Các anh chị về nhà nghỉ ngơi đi, ông bảo, “mai có thể là một ngày vất vả đấy.” Chúng tôi để lại Mario và Gloria trực ở nhà nguyện, rồi tất cả cùng về biệt thự Hocutt, chưa ngủ, nhưng ra hiên ngồi trầm ngâm ăn kem. Sam đưa ông Esau về nhà ở Hạ trấn. Tôi đã rất mừng khi cả nhà bà đều thích ở nhà tôi hơn.

Trong số 13 người lớn ở đây, chỉ có Leon và chồng của Carlota có uống rượu. Tôi mở một chai và khui mấy hộp kem.

Ai cũng kiệt sức rồi, nhất là bọn trẻ. Kế hoạch ban đầu của hôm nay chỉ là đến tòa án nhìn qua kẻ đã khủng bố cộng đồng suốt thời gian qua. Vậy mà hàng đống chuyện kinh hoàng đã ập xuống. Tầm nửa đêm, Al gọi cả nhà quy tụ lại để cầu nguyện trước khi đi ngủ. Anh gọi là “chuỗi cầu nguyện” cũng không sai, mọi người lớn, trẻ con đều lần lượt tạ ơn Chúa vì chuyện gì đó và xin Chúa bảo vệ cho bà Callie. Ngồi đó, cầm tay Bonnie và vợ của Mario, thở chung bầu không khí sốt sắng này, tôi thật sự cảm thấy có Chúa hiện diện. Tôi biết người bạn thân yêu của tôi, mẹ và bà của họ, rồi sẽ ổn cả thôi.

Hai tiếng sau, tôi nằm trên giường, mắt mở thao láo, vẫn còn nghe vang vọng tiếng lách cách đanh gọn của khẩu súng trường trong phòng xử, tiếng bụp khi viên đạn đâm vào Danny, và vô vàn âm thanh hoảng loạn kéo theo sau đó. Tôi ngẫm đi ngẫm lại từng lời của bác sĩ Vero, thắc mắc không biết mười năm qua, Hank Hooten tội nghiệp sống kiểu gì, tại sao anh ta lại được thả ra?

Và tôi lo cho bà Callie, dù tình trạng của bà có vẻ ổn định và được chăm sóc tận tình.

Cuối cùng, tôi cũng ngủ được hai tiếng, rồi nhẹ nhàng xuống lầu, thấy Mario và Leon đang uống cà phê ở bàn bếp. Mario vừa từ bệnh viện về cách đây một tiếng, tình hình vẫn thế. Mấy người con đã bàn nhau khi bà Callie xuất viện thì phải ép bà giảm cân. Bà sẽ cần tập thể dục, bao gồm đi bộ dài giờ hàng ngày quanh Hạ trấn. Còn cần kiểm tra sức khỏe thường xuyên, bổ sung vitamin, ăn kiêng.

Họ rất nghiêm túc về kế hoạch cải thiện sức khỏe này, dù ai cũng biết bà Callie chỉ làm theo ý mình thôi.

Vài tiếng sau, tôi bắt đầu đóng hộp vật dụng và đủ thứ linh tinh tôi thu thập suốt chín năm qua và dọn dẹp văn phòng mình. Tổng biên tập mới là một bà nhẹ nhàng, người ở Meridian, Mississippi, và muốn bắt tay vào việc trước cuối tuần này. Margaret đề nghị giúp một tay, nhưng tôi muốn thong thả dọn dẹp hộc tủ và hồ sơ để mênh mang hồi tưởng. Đây là khoảnh khắc rất riêng tư và tôi muốn được làm một mình.

Số sách của ông Caudle cuối cùng cũng được lấy xuống khỏi đám kệ đầy bụi, nơi chúng đã an vị từ lâu trước khi tôi đến. Tôi dự định để chúng đâu đó trong nhà, phòng khi có vong linh tổ tiên ông tìm đến hỏi han.

Cảm xúc trong tôi lẫn lộn. Tôi đụng đến thứ gì cũng gợi lại một câu chuyện, một hạn giao bài, một chuyến đi vào sâu trong vùng quê để tìm tin, phỏng vấn nhân chứng hay gặp ai đó mà tôi mong là đủ thú vị để viết tiểu sử. Dọn dẹp xong càng nhanh thì tôi càng sớm phải bước ra khỏi tòa nhà này và chỉ còn việc bắt máy bay đi đâu đó.

Lúc 9:30, Bobby Ruffin gọi. Bà Callie đã tỉnh, có thể kê gối ngồi dậy uống trà và bác sĩ cũng cho thân nhân vào thăm trong vài phút. Tôi liền tức tốc đến bệnh viện. Sam chờ sẵn ở sảnh, dẫn tôi qua ma trận buồng bệnh ở khu chăm sóc đặc biệt. “Đừng nhắc gì về chuyện hôm qua, được chứ?” anh vừa đi vừa dặn.

“Được.”

“Tình hình chỉ tạm ổn. Họ không cho đám cháu vào, sợ làm nhịp tim của bà bất ổn. Trong phòng im ắng lắm.”

Bà Callie đã tỉnh, nhưng không hẳn là vậy. Tôi tưởng sẽ được thấy đôi mắt sáng và nụ cười tươi rói, nhưng bà Callie chỉ như người mơ màng sau giấc ngủ dài. Bà nhận ra tôi, chúng tôi ôm nhau, và tôi cầm lấy tay phải bà, tay trái đang găm ống truyền rồi. Ông Esau, Sam và Gloria cũng đứng đó.

Tôi muốn có vài phút riêng tư để báo tin bán tờ báo, nhưng giờ rõ ràng bà đâu đủ sức nghe tin đó. Bà đã dậy gần hai tiếng rồi, giờ rõ ràng bà cần ngủ lại. Có lẽ để một vài ngày nữa rồi nói cũng được.

Sau 15 phút, bác sĩ đến bảo chúng tôi ra về. Chúng tôi về nhà, rồi quay lại, tiếp tục cầu nguyện cho bà suốt cả ngày, và vẫn không được phép vào phòng chăm sóc đặc biệt.

Thị trưởng quyết định sẽ không có pháo hoa mừng ngày Quốc khánh. Chúng tôi đã nghe đủ tiếng nổ rồi, chịu mùi thuốc súng đủ rồi. Vì cả thành phố vẫn còn rối bời sau vụ việc, nên chẳng ai tổ chức phản đối ầm ĩ gì. Cuộc tuần hành, các bài diễn thuyết tranh cử vẫn có, mặc dù các ứng viên bớt hãng đi nhiều. Tham nghị viên Theo Morton không đến, vì sao thì ai cũng biết. Có kem, nước chanh, thịt nướng, kẹo bông, những món thường lệ được phục vụ ở các quầy quanh quảng trường.

Nhưng thành phố có vẻ thờ ơ lặng lẽ. Hoặc có thể do tôi buồn nên nhìn cảnh cũng chẳng vui. Có lẽ tôi quá mệt mỏi với nơi này rồi, nên nhìn đâu cũng không còn hứng thú. Nhưng chắc chắn trong tay tôi có sẵn liều thuốc trị cơn mê này.

Sau phần diễn thuyết tranh cử, tôi rời quảng trường lái xe về bệnh viện. Tôi hỏi thăm Fuzzy, ông lao công quét dọn bãi đỗ xe của bệnh viện, và nói chuyện với Ralph, người lau kính ở tiền sảnh. Tôi còn ghé qua căn tin, mua ít nước chanh của Hazel, rồi nói chuyện với bà Esther Ellen Trussel, phụ trách bàn thông tin tiền sảnh của hội Hồng Nữ, những người chuyên hỗ trợ bệnh nhân. Bobby và vợ của Al đang ở phòng chờ tầng hai, ngồi xem tivi như hai người mất hồn. Tôi vừa mở tờ tạp chí ra thì Sam chạy vào.

“Mẹ lại bị một cơn trụy tim!”

Cả ba người chúng tôi liền bật dậy, như thể chuẩn bị chạy đến đó ngay.

“Vừa tức thì! Đội cấp cứu vừa vào!”

“Để tôi gọi về nhà,” tôi nói và chạy ra bốt điện thoại ở sảnh. Max nghe máy, và 15 phút sau, nhà Ruffin lũ lượt chạy vào nhà nguyện.

Chờ mãi vẫn chưa thấy tin gì từ các bác sĩ. Tầm 8:00 tối, bác sĩ điều trị của bà mới đến. Không dễ để hiểu ý tứ của các bác sĩ, nhưng đôi mắt nặng nề và lông mày nhíu lại của ông đang chuyển tải thông điệp không thể nào nhầm được. Khi ông nói đến “trụy tim nghiêm trọng” cả tám người con của bà Callie đều bủn rủn. Bà đang dùng máy thở, không còn tự hô hấp được.

Trong vòng một tiếng, bạn bè của bà đã kéo đến kín nhà nguyện. Mục sư Thurston Small chủ trì một nhóm cầu nguyện liên tục cạnh bàn thờ, và người ta cứ vào quỳ gối rồi ra liên tục. Ông Esau tội nghiệp ngồi ở hàng ghế cuối nhà nguyện, vai thõng xuống, hoàn toàn kiệt quệ. Bầy cháu ngồi quanh ông, im lặng và lễ phép.

Chúng tôi cứ thế chờ đợi suốt nhiều giờ. Dù ai cũng cố mỉm cười và lạc quan, nhưng cảm giác giờ tàn rõ ràng quá rồi. Như thể tang lễ đã bắt đầu rồi vậy.

Margaret ghé qua, chúng tôi ra hành lang nói chuyện. Rồi ông bà Fargarson cũng đến, ngỏ ý muốn nói chuyện với ông Esau. Khi tôi đưa họ vào nhà nguyện, mọi người nhà Ruffin đều nhiệt tình chào hỏi, ai cũng bày tỏ lòng tiếc thương người con vừa mất của họ.

Đến nửa đêm, chúng tôi đã tê lại, không còn biết thời gian nữa. Từng phút trôi qua nặng nề, tôi nhìn lên mà tưởng chiếc đồng hồ không chạy. Tôi muốn ra về, hay ít nhất là ra ngoài hít thở chút không khí trong lành. Nhưng bác sĩ đã dặn phải ở quanh quẩn gần bệnh viện.

Nỗi kinh hoàng lên đến đỉnh điểm khi ông gọi chúng tôi lại, nặng nề thông báo đã đến “thời khắc cuối bên người thân.” Có người thở dài, có người bật khóc. Tôi sẽ không bao giờ quên tiếng Sam thảng thốt, “Thời khắc cuối sao?”

“Giờ sao?” Gloria kinh hoàng hỏi lại.

Chúng tôi, đầy hoang mang và sợ hãi, theo chân bác sĩ ra khỏi nhà nguyện, lên cầu thang, ai nấy đều đi với bước chân nặng nề như người lê bước ra đoạn đầu đài. Các y tá hướng dẫn chúng tôi qua ma trận buồng bệnh, và sắc mặt họ toát lên điều chúng tôi e sợ nhất.

Khi cả nhà tràn vào căn buồng nhỏ, bác sĩ cầm tay tôi bảo, “Thời khắc này chỉ cho người nhà thôi.”

“Phải rồi,” tôi nói và đứng lại.

“Không sao,” Sam quay lại, “Anh ấy là người nhà chúng tôi.”

Chúng tôi quây quần bên bà Callie và dàn máy móc hỗ trợ, hầu hết đã được tháo ra rồi. Hai đứa cháu nhỏ nhất được ngồi cuối giường bà. Ông Esau đứng gần nhất, nhẹ nhàng vuốt mặt bà. Đôi mắt bà nhắm nghiền và không có vẻ gì là đang thở.

Bà đang rất yên bình. Chồng và các con, ai cũng chạm vào người bà, tiếng khóc vang vang đến não lòng. Tôi đứng ở góc, khuất sau lưng chồng của Gloria và vợ của Al, vẫn không thể tin chuyện này là thật.

Khi Max tạm bình tâm lại, anh cầm tay bà Callie và nói, “Chúng ta cùng cầu nguyện.” Chúng tôi đều cúi đầu, và tiếng khóc ngưng bặt. “Lạy Cha, xin đừng theo ý con mà hãy theo ý Cha. Chúng con xin dâng linh hồn người con trung tín này vào tay Cha. Xin chuẩn bị cho người một chỗ trong thiên đàng của Cha. Amen.”

Lúc mặt trời mọc, tôi đang ngồi ở ban công văn phòng. Tôi muốn ở một mình, muốn được khóc cho thỏa một mình, nhưng không thể nào chịu nổi tiếng khóc dội trong tòa biệt thự vắng vẻ.

Tôi đã mơ chu du khắp thế giới, đều đặn về thăm Clanton và tặng quà cho bà Callie. Tôi sẽ đem cho bà bình bạc của Anh quốc, vải lanh từ nước Ý mà bà mơ một lần đặt chân đến, cả nước hoa Paris, chocolate Bỉ, một cái vạc từ Ai Cập và một viên kim cương nhỏ lấy ở mỏ Nam Phi. Tôi sẽ tặng quà cho bà ở hiên, rồi chúng tôi ăn uống nhiệt tình, kể chuyện say sưa về những nơi tôi đã đến. Tới đâu tôi cũng sẽ gửi bưu thiếp cho bà. Chúng tôi sẽ cùng xem lại và bình phẩm những tấm ảnh tôi chụp trên hành trình. Qua tôi, bà sẽ được thấy cả thế giới. Bà sẽ luôn ở đó, háo hức chờ tôi quay về, trông mong tôi sẽ có quà gì. Bà sẽ trang trí khắp nhà bằng những món đồ thu thập từ mọi ngóc ngách trên đời, và có những món mà không một ai, dù da đen hay da trắng, ở Clanton từng có.

Tôi đau đớn khi mất đi người bạn thân yêu nhất. Một mất mát quá bất ngờ. Một mất mát quá lớn đến nỗi lúc đó tôi nghĩ mình không thể vực dậy nổi.

Khi thành phố dần bừng sức sống dưới ánh mặt trời, tôi đi về bàn, đá mấy cái thùng qua một bên và ngồi xuống. Tôi lấy bút ra, nhưng trơ mắt nhìn tờ giấy trắng một hồi lâu. Rồi chầm chậm và nhức nhối trong lòng, tôi đưa bút viết bài cáo phó cuối cùng.