
Bồi Thẩm Cuối Cùng
Tổng số chương: 45
Sau hàng chục năm được điều hành sai cách, bỏ thì thương vương thì tội, tờ Thời báo Hạt Ford chính thức phá sản vào năm 1970. Chủ tòa soạn, Emma Caudle, đã 93 tuổi, nằm liệt giường trong viện dưỡng lão ở Tupelo. Tổng biên tập, cũng là con trai bà, Wilson Caudle, cũng đã ở tuổi thất tuần, với một mảnh đạn trong đầu từ thời đi lính Thế chiến I. Quanh chỗ dính mảnh đạn có một vùng da tối tròn vành vạnh nằm ngay đỉnh vầng trán về của ông, và chính nó khiến ông cả đời phải chịu biệt danh Bớt. Lúc nào cũng Bớt. Bớt làm cái này. Bớt làm cái kia. Đây này, Bớt. Kia kìa, Bớt.
Thời trẻ, ông xông xáo khắp nơi, dự các cuộc họp hội đồng thành phố, các trận bóng, các cuộc bầu cử, phiên tòa, các hội nhóm, đủ loại sự kiện xã hội ở Hạt Ford. Ông là nhà báo giỏi, thấu đáo và nhạy bén. Rõ ràng vết thương trên đầu không ảnh hưởng gì đến năng lực khiển bút của ông. Nhưng sau Thế chiến II, mảnh đạn bắt đầu phát tác, và ông Caudle bỏ hết tất cả, chỉ còn viết cáo phó. Ông mê cáo phó và dành hàng giờ cho chúng. Kể cả những người dân tầm thường nhất Hạt Ford, cũng được ông viết những đoạn tụng ca hùng hồn mô tả chi tiết cuộc sống của họ. Và cái chết của một công dân xuất chúng thì được lên trang nhất, tất nhiên là dưới ngòi bút của ông chủ biên Caudle. Ông không bỏ lỡ lễ cầu hồn hay lễ mai táng nào, chưa hề viết một lời không hay về bất kỳ ai. Tất cả mọi người khi nằm xuống đều được vinh danh. Hạt Ford đúng là nơi quá tuyệt để chết. Và ông Bớt rất được mọi người mến mộ, dù cho ai cũng thừa nhận ông hơi khùng.
Cả sự nghiệp làm báo của ông, chỉ có một cuộc khủng hoảng duy nhất là vào năm 1967, khoảng thời gian phong trào quyền công dân cuối cùng cũng lan tới Hạt Ford. Tờ báo của ông chưa hề thể hiện chút quan điểm bao dung chủng tộc nào. Chưa có người da đen nào được lên mặt báo trừ khi là tin tội phạm, đã bị kết án hoặc thuộc diện khả nghi. Chẳng hề có thông báo lễ cưới nào của người da đen. Chẳng hề có những bài vinh danh học sinh hay vận động viên da đen. Nhưng vào năm 1967, ông Caudle đã có một phát kiến khiến tất cả sững sờ. Bỗng một ngày đẹp trời, ông nhận ra rằng ở Hạt Ford này vẫn có những người da đen sắp giã từ cõi đời, và cái chết của họ lâu nay chẳng được thông báo cho thích đáng. Vậy là cả một thế giới cáo phó mới mẻ rộng lớn đang chờ sẵn và ông Caudle liền lao mình vào con nước còn hoang sơ và phần nào nguy hiểm này. Ngày thứ Tư, 8 tháng 3 năm 1967, tờ Thời báo trở thành tờ báo đầu tiên của người da trắng ở vùng Mississippi chịu đăng cáo phó cho người da đen. Lúc đó, chuyện này chẳng gây mấy chú ý.
Nhưng qua tuần sau, ông đăng liền ba cáo phó cho người da đen, và người ta bắt đầu xì xầm. Rồi một tháng sau, người ta bắt đầu tẩy chay, hủy đăng ký mua báo và những người đăng quảng cáo ngưng hợp tác. Ông Caudle biết rõ tình hình, nhưng ông quá thích thú vai trò mới của mình là người khai sáng về hội nhập chủng tộc, nên chẳng buồn để tâm đến những chuyện vặt vãnh như doanh số và lợi nhuận. Sáu tuần sau bài cáo phó lịch sử đầu tiên ấy, ông tuyên bố, hẳn trên trang nhất và bằng chữ in đậm, chính sách mới của mình. Ông giải thích với công chúng rằng ông sẽ đăng bất kỳ điều gì ông muốn, và nếu những người da trắng không thích, thì ông sẽ bỏ phần cáo phó của họ luôn.
Mà thời này, chuyện hậu sự đàng hoàng là vấn đề hệ trọng trong đời sống ở Mississippi, dù là người da đen hay da trắng, nên thật khó để chấp nhận cảnh đến lúc nhắm mắt xuôi tay lại không có được bài tiễn biệt hùng hồn của ông Bớt để lại cho đời. Và họ cũng biết ông đủ điên để làm thật chứ chẳng đùa.
Thế là ấn bản tiếp theo, in đầy cáo phó, cả người da trắng và da đen, xếp theo bảng chữ cái chứ không phân chia theo màu da gì cả. Mọi chuyện thế là êm đẹp và tờ báo làm ăn phát đạt một thời gian.
Nhưng bỗng nhiên, chuyện phá sản từ trên trời rơi xuống. Đầu tiên, một chủ nhà in ở Memphis báo là tòa soạn nợ ông 60.000 đô. Tiếp theo một vài chủ nợ khác cũng thông báo họ chưa được thanh toán gì suốt sáu tháng qua. Ngân hàng cũng lên tiếng đòi nợ một khoản vay.
Tôi mới vào đây làm, nhưng cũng nghe phong thanh mấy vụ này rồi. Hôm đó, tôi đang ngồi đọc tạp chí ở bàn làm việc ngay tiền sảnh tòa soạn, thì một ông nhỏ con đi đôi giày mũi nhọn khệnh khạng bước vào đòi gặp Wilson Caudle.
“Ông ấy đang ở nhà tang lễ rồi,” tôi trả lời.
Gã này nhỏ thó nhưng xấc láo vô cùng. Tôi có thể thấy khẩu súng dắt ở lưng quần gã, lấp ló sau lớp áo vest xanh nhăn nheo, cái kiểu cố tình cho người ta biết mình có súng ấy. Có lẽ gã còn chẳng có giấy phép sử dụng súng, nhưng ở Hạt Ford, đâu ai cần mấy giấy tờ đó, ít nhất là vào năm 1970. Thật ra, dân tình xem mấy giấy phép đó là tào lao phiền hà nữa thì có. Gã đưa ra một bì thư, bảo tôi, “Tôi cần đưa mấy giấy tờ này cho ông ấy.”
Tôi chẳng hứng thú hỗ trợ gã, nhưng ai lại đi thô lỗ với người lùn cơ chứ, dù cho đó là một người lùn dắt súng bên hông đi nữa. “Ông ấy đang ở nhà tang lễ rồi,” tôi lặp lại câu vừa nãy. “Thế thì tôi để đây cho cậu vậy,” gã quyết định luôn.
Dù tôi mới ở đây chưa đầy hai tháng và vốn là dân đại học miền Bắc, nhưng cũng hiểu được đổi chuyện. Tôi biết rằng giấy tờ thật sự không phục vụ người ta. Chúng được chuyển phát, được giao tận tay, nhưng không bao giờ phục vụ. Giấy tờ là mối phiền phức và tôi chẳng muốn dây vào chúng làm gì. “Tôi không nhận chúng đâu,” tôi nói, cúi đầu nhìn xuống gã. Quy luật tự nhiên thường khiến người lùn hiền lành ngoan ngoãn không hiếu chiến, và gã này cũng chẳng phải ngoại lệ. Khẩu súng chỉ là cái mẽ ngoài đánh lừa người ta thôi. Gã nhìn quanh tiền sảnh, nở nụ cười gắng gượng, nhưng gã biết tình hình giờ không tốt cho gã rồi. Là kẻ nhạy bén, gã bèn nhét bì thư vào lại túi và cố lên giọng, “Nhà tang lễ ở đâu?”
Tôi chỉ đường rồi gã lính đi ngay. Một tiếng sau, ông Bớt về đến cửa, trên tay là bì thư giấy tờ vừa rồi, hét to hốt hoảng. “Hết rồi! Hết thật rồi!” Và thế là ông cứ ôm mặt than trời than đất khi tôi đọc kỹ tờ Đơn kiện yêu cầu Phá sản Cưỡng chế. Margaret Wright và Hardy từ trong nhà cũng chạy ra cố an ủi ông chủ. Ông ngồi trên ghế, hai tay chống gối ôm lấy mặt, khóc rưng rức đến thảm. Tôi đọc to tờ đơn cho những người có liên quan nghe.
Trong đơn nói rằng, ông Caudle phải đến tòa ở Oxford trong vòng một tuần để gặp các chủ nợ và thẩm phán, họ sẽ ra quyết định liệu tờ báo có thể tiếp tục hoạt động trong thời gian một người được ủy thác xử lý các vấn đề tài chính này. Tôi có thể thấy là Margaret và Hardy quan tâm đến công việc của mình hơn là đến ông Caudle đang hoảng loạn, nhưng họ vẫn làm màu đứng bên vỗ vai an ủi ông.
Sau một hồi khóc lóc, ông đứng dậy, cắn môi lưỡng lự, rồi tuyên bố, “Tôi phải đi báo cho mẹ.”
Ba người chúng tôi chỉ biết nhìn nhau ngơ ngác. Bà Emma Caudle chỉ còn là cái xác không hồn, trái tim yếu ớt của bà vẫn gắng gượng nhưng ý thức thì có vẻ đã không còn. Bà chẳng biết mà cũng chẳng quan tâm Jell-O họ cho bà ăn có màu gì, và chắc chắn bà chẳng quan tâm gì nữa đến Hạt Ford và tờ báo này. Bà chỉ còn da bọc xương, thế mà ông Bớt lại định nói chuyện phá sản cưỡng chế này với bà. Giờ tôi mới nhận ra cả bà cũng đâu còn ở bên chúng tôi nữa.
Ông Caudle lại bắt đầu khóc, và cứ để khuôn mặt giàn giụa nước mắt đó mà đi. Chắc sáu tháng sau tôi phải viết cáo phó cho ông quá.
Bởi tôi có bằng đại học, và lại đang cầm tờ đơn kiện trên tay, nên Hardy và Margaret nhìn tôi như đang chờ xin lời khuyên. Tôi là phóng viên, đâu phải luật sư, nên tôi cũng bảo họ là sẽ đưa giấy tờ này đến chỗ luật sư nhà Caudle. Chúng tôi phải làm theo lời cố vấn của ông ấy chứ. Thế là họ cố nặn một nụ cười rồi trở lại làm việc.
Đến trưa, tôi mua một lốc bia ở cửa hàng tạp hóa Quincy tại Hạ trấn, khu của người da đen ở Clanton, rồi dạo một vòng trên chiếc Spitfire. Giờ là cuối tháng Hai, nhưng trời ấm áp lạ thường, nên tôi hạ mui xuống và nhấn ga tiến thẳng đến bờ hồ, vừa đi vừa tự hỏi lần thứ bao nhiêu rồi không biết, tôi đang làm cái gì ở Hạt Ford, Mississippi này thế nhỉ?
Tôi lớn lên ở Memphis và học ngành báo chí ở Syracuse trong năm năm, đến khi bà tôi thấy chẳng còn muốn đầu tư vào cái vụ học lê lết của tôi nữa. Điểm số của tôi khá tầm thường, và còn một năm nữa mới lấy được bằng. Có khi là năm rưỡi ấy chứ. Bà tôi, BeeBee, có rất nhiều tiền nhưng lại rất ghét chi tiền, thế là sau năm năm, bà quyết định rằng mình đã chi đủ cho cơ hội học hành của tôi rồi. Khi bà cắt trợ cấp, tôi đã rất thất vọng, nhưng chẳng phàn nàn gì. Tôi là đứa cháu duy nhất của bà và gia sản sau này bà để lại là quá đủ cho tôi rồi.
Tôi học báo chí theo kiểu lửng lơ. Thời mới đến Syracuse, lòng tôi đầy khao khát trở thành một phóng viên điều tra cho tờ New York Times hay Washington Post . Tôi đã muốn cứu thế giới bằng cách vạch trần tham nhũng, nạn phá hoại môi trường, những lãng phí tài chính của nhà nước, và sự bất công đang đè nặng người nghèo và người bị áp bức. Tôi còn mong mình sẽ được nhận giải Pulitzer. Sau chừng một năm đầy mơ mộng, tôi đã xem bộ phim về một phóng viên nước ngoài du hí khắp thế giới, lao đầu vào chiến chinh và người đẹp, thế mà vẫn có thời giờ để viết những bài báo đoạt giải. Ông nói tám thứ tiếng, để râu, đi giày bốt, quần kaki hồ phẳng phiu không bao giờ có lấy một vết nhăn. Thế là tôi quyết định phải trở thành một phóng viên như ông. Tôi để râu, mua vài đôi giày, quần kaki, cố học tiếng Đức và đi thả thính các em gái xinh đẹp. Trong năm ba, lúc điểm số lao dốc xuống vị trí chót lớp, tôi bắt đầu thấy thích ý tưởng làm việc ở một tòa soạn thành phố nhỏ. Tôi chẳng thể lý giải nổi sao mình lại ham vụ này đến vậy, ngoại trừ chuyện đó cũng là khoảng thời gian tôi kết thân với Nick Diener. Cậu ấy có gốc gác ở vùng quê Indiana, và gia đình cậu sở hữu một tờ báo của hạt với doanh thu rất ổn suốt mấy chục năm trời. Cậu lái chiếc Alfa Romeo sang chảnh và lúc nào cũng cầm theo cả xấp tiền. Chúng tôi dần rất thân thiết với nhau.
Nick rất sáng dạ, thậm chí có thể học được ngành y, ngành luật hay cơ khí kỹ thuật. Nhưng mục tiêu duy nhất của cậu là trở về Indiana và điều hành tòa soạn của gia đình. Tôi cứ thấy ý tưởng của cậu kỳ cục quá thể, cho đến một tối nọ, trong cơn say, cậu tiết lộ con số bố mình kiếm được mỗi năm từ tờ tuần báo nhỏ bé với lượng phát hành thường kỳ chỉ 6000 tờ. Nó là một mỏ vàng, cậu khẳng định chắc nịch. Tờ báo nhà Nick chỉ đăng tin địa phương, thông báo lễ cưới, các sự kiện nhà thờ, các lễ tôn vinh, tin thể thao, ảnh của các đội bóng rổ, vài công thức nấu ăn, cáo phó và vài trang quảng cáo. Có lẽ thỉnh thoảng cũng có tin chính trị, nhưng rất trung dung, không dính dáng gì đến những chuyện dễ gây tranh cãi. Ấy thế mà bố cậu ấy là triệu phú. Theo Nick, đấy mới là công việc báo chí nhàn hạ mà hái ra tiền.
Thật quá hấp dẫn với thằng như tôi. Cuối năm thứ tư ở đại học (năm thứ tư chứ không phải năm cuối nhé, vì tôi vẫn chưa lấy được bằng), tôi đi thực tập hè ở một tờ tuần báo nhỏ tại Dãy núi Ozark ở Arkansas. Lương ở đó bèo thôi, nhưng nó khiến bà thấy an tâm về tôi. Mỗi tuần, tôi gửi báo qua thư cho bà, phân nửa bài trên báo do tôi viết. Chủ tòa soạn kiêm tổng biên tập kiêm nhà xuất bản ở đó, là một ông già tuyệt vời, quá phấn khích khi có một phóng viên muốn viết bài. Và tôi nhận ra, ông cũng rất giàu.
Sau năm năm Syracuse, điểm số của tôi giờ hết đường cứu vãn, nguồn cung của bà tôi cũng đã đến lúc dừng. Tôi về Memphis thăm bà, cảm ơn bà vì đã cố gắng giúp cho tôi biết bao lâu nay, nói là tôi thương bà lắm. Bà cương quyết khuyên tôi lo mà tìm việc đi.
Vào lúc đó, em gái của Wilson Caudle đang sống ở Memphis, và có gặp qua bà tôi ở một bữa tiệc trà gì đó. Sau vài cuộc điện thoại qua lại, tôi gói ghém hành trang lên đường đi Clanton, Mississippi, nơi ông Bớt đang háo hức ngóng chờ. Sau một tiếng giới thiệu sơ về công việc, ông liền giao phó hết tin bài của Hạt Ford cho tôi.
Ngay số báo tiếp theo, ông liền viết một bài ngắn rất nhẹ nhàng có in cả ảnh của tôi để công bố cậu thực tập sinh mới ở tờ Thời báo . Bài này lại nằm ngay trang nhất mới ghê. Thời đó, tin tức truyền đi chậm lắm.
Bài thông báo đó có hai lỗi cực kỳ khủng khiếp và làm hại tôi suốt nhiều năm trời. Sai lầm thứ nhất là ông Bớt dám khẳng định Syracuse giờ đã nằm trong nhóm Ivy League. Ông thông báo với các độc giả ít ỏi của mình rằng tôi đã tiếp thu nền học thuật tầm Ivy League tại Syracuse. Phải cả tháng sau, mới có người cho tôi biết vụ này. Từ đó, tôi bắt đầu tin rằng, chẳng ai đọc báo cả, hoặc tệ hơn nữa là những người có đọc cũng đều là đám cực ngốc.
Sai lầm thứ hai thì thay đổi cả cuộc đời tôi. Tên khai sinh của tôi là Joyner William Traynor. Từ nhỏ cho đến tận năm 12 tuổi, tôi cứ hỏi bố mẹ suốt về lý do tại sao hai người vốn được cho là thông minh lại đặt tên cho con là Joyner cơ chứ. Hóa ra về sau tôi mới được biết là bố hoặc mẹ tôi, một trong hai người nhưng ai cũng chối không chịu nhận, đã nhất quyết lấy tên của một người bà con giàu có nhưng đang có hục hặc với họ, để đặt tên cho tôi như một nghĩa cử làm hòa. Nhưng mà trời đất ơi, đến tuổi này tôi vẫn chưa hề gặp mặt ông bác nọ. Theo tôi biết, ông đã chết mà không có một xu dính túi, nhưng dù gì đi nữa, thằng tôi đây phải mang cái tên Joyner cả đời. Khi vào Syracuse, tôi là J. William, một cái tên khá là bảnh cho anh thanh niên 18 tuổi. Nhưng rồi chiến tranh Việt Nam, những vụ bạo động, nổi loạn, chính biến, khiến tôi thấy cái tên J. William có vẻ quá thân thiện với chính quyền, với thiết chế. Vậy là tôi trở thành Will.
Nhiều lúc, ông Bớt gọi tôi là Will, William, Bill, thậm chí là Billy, và vì dù ông gọi tên nào tôi cũng trả lời, nên chuyện mới ra cơ sự này. Trong bài thông báo, dưới cái mặt cười hớn hở của tôi là tên mới ông đặt cho tôi: Willie Traynor. Tôi đâm hoảng. Cả đời này, kể cả trong mơ, tôi cũng chưa bao giờ nghĩ có ai lại gọi tôi là Willie. Tôi từng học trường dự bị ở Memphis, rồi học đại học ở New York, nhưng chưa hề thấy ai tên Willie.
Tôi đâu phải loại cổ lỗ sĩ đến thế cơ chứ. Tôi lái chiếc Triumph Spitfire và để tóc dài mà.
Biết nói sao với các bạn đại học của tôi ở Syracuse đây? Còn cả bà tôi nữa, biết giải thích thế nào đây.
Sau khi trốn trong căn hộ suốt hai ngày, tôi đã lấy đủ can đảm để tìm ông Bớt yêu cầu ông phải làm gì đó khắc phục vụ này. Tôi không chắc là làm gì, nhưng đây là lỗi của ông và chắc chắn ông phải khắc phục được. Tôi hiên ngang tiến vào văn phòng tờ Thời báo và gặp ngay Davey Bigmouth Bass, biên tập viên mảng thể thao. “Này, tên ngầu đấy,” ông nói ngay. Tôi đi theo vào văn phòng ông để xin ý kiến.
“Tên tôi không phải là Willie,” tôi nói.
“Giờ thì là Willie rồi đấy.”
“Tên tôi là Will.”
“Dân ở đây sẽ thích cậu thôi. Một tay trí thức dân miền Bắc để tóc dài đi xe thể thao nhập khẩu. Này, với cái tên Willie, họ sẽ nghĩ cậu rất bảnh. Cứ nghĩ đến Joe Willie mà xem.”
“Joe Willie là ai chứ?”
"Joe Willie Namath."
“Ồ, ra là anh ấy.”
“Phải, cậu ấy là dân miền Bắc như cậu, quê ở Pennsylvania hay quanh đấy, nhưng khi đến Alabama, cậu ấy đổi tên từ Joseph William thành Joe Willie. Cậu ấy đi đâu, gái theo đến đấy mà.”
Tôi bắt đầu thấy đỡ rầu hơn. Vào năm 1970, Joe Namath có lẽ là vận động viên nổi tiếng nhất nước. Thế là tôi lên xe dạo một vòng, miệng cứ lẩm bẩm, “Willie, Willie.” Qua vài tuần, tôi bắt đầu bị chết tên. Ai cũng gọi tôi là Willie và có lẽ họ thấy thoải mái hơn vì cái tên chân chất này của tôi.
Tôi cũng đã kể cho bà nghe về tên thường gọi tạm thời của mình.
Tờ Thời báo rất mỏng, và tôi biết ngay là tòa soạn đang không ổn. Các trang hầu như chỉ toàn đăng cáo phó, chẳng có mấy chỗ cho tin tức và quảng cáo. Nhân viên thì không hài lòng cho lắm, nhưng họ được cái im lặng và trung thành. Ở Hạt Ford vào thời 1970, công việc là thứ khó tìm. Sau một tuần, kẻ mới vào nghề như tôi cũng có thể thấy được tòa soạn này đang đâm đầu xuống lỗ. Bởi quảng cáo thì tính phí mà cáo phó thì miễn phí. Ông Bớt dành hầu hết thời gian trong văn phòng bừa bộn của mình, ngủ một ngày vài giấc và gọi cho các tang gia. Có lúc họ chủ động gọi cho ông. Có lúc tang gia ghé tòa soạn, chỉ vài giờ sau khi ông cụ trút hơi thở cuối cùng, và đưa cho ông Bớt một bài tiểu sử viết tay đầy mỹ từ mà ông Bớt sẽ chộp ngay lấy và trân quý đem về bàn làm việc. Sau khi khóa chặt cửa phòng, ông sẽ viết, tìm hiểu, biên tập, viết đi viết lại cho đến khi nào hoàn hảo mới thôi.
Ông giao phó hết cái hạt này cho ngòi bút của tôi. Tờ báo có một phóng viên đa nhiệm, Baggy Suggs, một ông già cau có dành nhiều giờ quanh quẩn ở tòa án bên kia đường để đánh hơi tin giật gân, buôn chuyện và uống bourbon với hội các luật sư hết thời, quá già và quá nặng men rượu nên chẳng thể hành nghề nổi. Tôi sớm biết Baggy quá bận nói đến nỗi chẳng có thời giờ để kiểm tra nguồn tin và tìm hiểu sâu bất kỳ chuyện gì đáng để đọc, những bài trang nhất của ông thường là mấy mẩu chuyện nhàm về tranh chấp đất đai hay một ông chồng đánh vợ.
Margaret, thư ký tòa soạn, là một phụ nữ ngoan đạo, chính bà lo toan hết chỗ này, nhưng bà cũng đủ thông minh để cho ông Bớt vẫn nghĩ rằng mình là sếp. Bà đã năm mấy tuổi và làm ở đây hơn hai mươi năm. Bà là đá tảng, là mỏ neo, là tất cả của tờ Thời báo này. Margaret nói năng nhỏ nhẹ, có thể nói là e dè, và ngay từ ngày đầu đã bị tôi áp đảo, bởi tôi là dân Memphis lại còn học đại học ở miền Bắc năm năm. Tôi cẩn thận không huênh hoang về chuyện Ivy League, nhưng đồng thời lại muốn dân quê Mississippi này biết rằng tôi là người có học thức, mà là học thức cao ấy nhé.
Bà và tôi trở thành bạn tán gẫu, và sau một tuần, bà đã khẳng định điều tôi nghi ngờ - là ông Caudle đích thị bị điên và tờ báo thật sự đang khốn đốn về tài chính. Nhưng như bà nói, nhà Caudle có kim tiền gia tộc mà!
Phải qua vài năm tôi mới hiểu được chuyện bí ẩn này.
Ở Mississippi, kim tiền gia tộc không phải là của cải đâu. Nó chẳng phải là tiền hay tài sản gì cả, mà là địa vị dành cho một người da trắng, có học thức cao hơn bậc trung học, sinh ra trong gia đình khá giả hay cụ thể hơn là trong một ngôi nhà lớn có mái hiên, và nếu nó không nằm giữa cánh đồng bông hay đậu nành thì càng hoàn hảo. Hơn nữa, đó còn là người được nuôi nấng bởi một vú em da đen tên Bessie hay Pearl và được dạy dỗ bởi ông bà lẩm cẩm sở hữu ông bà của Bessie hay Pearl này, cũng như được dạy dỗ từ thuở mới lọt lòng về những quy tắc ứng xử nghiêm ngặt của tầng lớp đặc quyền đặc lợi. Đất đai và các quỹ tín thác cũng có chút giá trị, nhưng ở Mississippi này có đầy những người thừa kế cái địa vị kim tiền gia tộc này lâm vào cảnh thiếu nợ. Cái địa vị đó không phải là thứ đạt được bằng nỗ lực. Nó là một thứ bẩm sinh rồi.
Khi tôi hỏi chuyện luật sư của nhà Caudle, ông giải thích khá súc tích về giá trị của kim tiền gia tộc. “Họ nghèo rớt mồng tơi ấy,” ông nói với tôi đang ngồi lọt thỏm trong cái ghế bành bọc da đối diện bàn làm việc cổ to tướng bằng gỗ dái ngựa của ông. Ông tên Walter Sullivan, ở công ty luật danh tiếng Sullivan & O’Hara. Ít nhất là danh tiếng ở Hạt Ford, với bảy luật sư hành nghề. Ông tìm hiểu về đơn kiện phá sản này và nói đủ thứ chuyện về nhà Caudle cũng như số tiền họ từng có và cách họ hủy hoại một tòa soạn ăn nên làm ra. Ông làm luật sư cho họ suốt 30 năm trời, và hồi bà Emma còn điều hành, tờ Thời báo có 5000 người đăng ký mua báo và các trang báo tràn ngập tin quảng cáo. Bà luôn có sẵn một khoản 500.000 đô ở Ngân hàng Bảo an đề phòng khi hữu sự.
Rồi chồng qua đời, bà tái giá với một gã nghiện rượu trong vùng trẻ hơn bà 20 tuổi. Những lúc tỉnh rượu, lão lại vung vẩy những lời văn hoa rỗng tuếch và ra vẻ mình là một nhà thơ nhà văn đầy dằn vặt cảm xúc. Thế là bà Emma mê lão như điếu đổ và cho lão làm đồng tổng biên tập, một vị trí mà lão dùng để viết những bài xã luận dài dằng dặc chửi bới bất kỳ chuyện gì ra hồn ở Hạt Ford. Đó chính là khởi đầu cho hồi kết. Ông Bớt ghét lão bố dượng mới này, và lão già cũng thế, ân oán của hai người cứ thế chồng chất đến đỉnh điểm là một trận đánh nhau tơi bời đi vào sử sách của khu trung tâm Clanton. Nó diễn ra ngay vỉa hè trước tòa soạn, trên quảng trường thành phố trước mặt một đám đông sững sờ. Dân trong vùng tin rằng cái đầu của ông Bớt, vốn đã yếu lắm rồi, đã bị tổn hại hơn nữa từ sau trận ẩu đả đó. Không lâu sau, ông bắt đầu bỏ hết mọi thứ và chỉ còn chuyên tâm viết cáo phó.
Ông bố dượng thì ôm tiền bỏ trốn, và bà Emma thất tình bắt đầu xa lánh sự đời.
“Nó từng là tờ báo tốt,” ông Sullivan nói. “Nhưng giờ nhìn nó đi. Còn chưa đầy 1.200 người đăng ký đặt báo, lại đang nợ nần chồng chất. Phá sản rồi.”
“Tòa sẽ phán thế nào?” Tôi hỏi.
“Họ sẽ cố tìm một người mua lại.”
“Người mua lại sao?”
“Phải, sẽ có người mua. Hạt này phải có một tờ báo chứ.” Ngay lập tức, tôi nghĩ đến hai người, Nick Diener và bà tôi. Gia đình Nick giàu có nhờ tờ tuần báo của hạt. Bà tôi thì giàu nứt vách và chỉ có một đứa cháu thân yêu này thôi. Tim tôi bỗng đập thình thịch khi ngửi thấy mùi cơ hội.
Ông Sullivan nhìn tôi ý vị, rõ ràng ông biết tôi đang nghĩ gì. “Và có thể mua nó với giá hạt dẻ,” ông nói.
“Bao nhiêu?” tôi hỏi với sự tự tin của một phóng viên tay mơ 23 tuổi có người bà giàu nứt vách.
“Có lẽ là 50.000. 25 để mua lại, và 25 để vận hành. Hầu hết các khoản nợ có thể đưa vào diện phá sản, rồi cậu thương lượng lại với các chủ nợ mà cậu còn cần.” Ông ngưng ngang đó, cúi người tới trước, chống tay lên bàn, cặp lông mày muối tiêu nhíu lại như thể não ông đang phải nỗ lực vượt công suất. “Nó có thể là một mỏ vàng thật sự đấy.”
Bà tôi chưa hề đầu tư vào mỏ vàng, nhưng sau ba ngày năn nỉ dỗ dành, tôi đã rời Memphis với tờ chi phiếu 50.000 đô. Tôi đưa nó cho ông Sullivan, rồi ông cho nó vào quỹ tín thác và đệ đơn xin tòa cho bán tòa soạn. Thẩm phán là một ông lão lãng đãng yếu lắm rồi và đáng ra nên nằm cạnh giường bệnh của bà Emma mới phải, ông đã gật đầu ưng thuận đầy tử tế và ký tên vào lệnh tòa chấp thuận tôi là chủ mới của tờ Thời báo Hạt Ford .
Ở Hạt Ford này, phải sống qua ba thế hệ mới chính thức được đón nhận. Dù có tiền tài hay thế giá đến đâu cũng không thể cứ thế chuyển đến đây và mong được người ta tin tưởng. Bất kỳ người mới nào đều bị nghi ngờ, và tôi cũng không phải ngoại lệ. Người dân ở đây vô cùng nồng hậu, tử tế và lịch sự, gần như đến mức ta phải lấy làm phiền vì sự thân thiện của họ luôn ấy. Họ gật đầu chào và chuyện trò với bất kỳ ai gặp trên phố. Họ hỏi thăm sức khỏe, bàn chuyện thời tiết và mời ta đến nhà thờ. Họ hăm hở giúp đỡ người lạ.
Nhưng họ không thật sự tin tưởng ta trừ phi họ từng tin tưởng ông của ta.
Khi tin tức về một anh chàng lạ mặt trẻ tuổi giàu sụ đến từ Memphis đã mua lại tờ báo với giá 50 ngàn, hay 100 ngàn, thậm chí là 200 ngàn, bắt đầu lan ra thì làn sóng đàm tiếu liền dậy lên khắp cộng đồng. Margaret là người cập nhật những tin đồn mới nhất cho tôi. Vì tôi còn độc thân, nên họ đồn có thể tôi đồng tính luyến ái. Vì tôi từng học ở Syracuse, dù chẳng biết nó ở chỗ nào, nhưng nghe cái tên thì có vẻ tôi là dân cánh tả. Hay tệ hơn nữa, là dân theo chủ nghĩa tự do. Vì tôi quê ở Memphis, nên thế nào tôi cũng là kẻ ủ mưu trêu ngươi Hạt Ford.
Và họ còn lặng lẽ rỉ tai nhau một chuyện, đó là giờ tôi quản lý mục cáo phó! Chừng đó là đủ để tôi là người có thanh có thế ở đây rồi!
Tờ Thời báo mới tái phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 1970, chỉ ba tuần sau khi ông lùn nọ đem giấy tờ đến. Tờ báo hôm nay dày đến hai phân rưỡi, và chưa một tờ tuần báo hạt nào in nhiều ảnh hơn nó. Ảnh về các đội Ấu sinh Hướng đạo, Chim non Hướng đạo, các đội bóng rổ trường cấp hai, các câu lạc bộ vườn, câu lạc bộ sách, câu lạc bộ trà, hội tìm hiểu Kinh Thánh, các đội bóng mềm người lớn, cả các câu lạc bộ dân sự. Ảnh trên báo phải đến vài chục tấm. Tôi đã cố đưa hết tất cả mọi người sống trong hạt này lên trang báo. Còn những người quá cố thì được hưởng sự tôn vinh chưa hề có. Các bài cáo phó dài đến phát sợ. Tôi chắc mẩm là ông Bớt sẽ tự hào, nhưng chẳng nghe được tin gì từ ông cả.
Các tin bài nhẹ nhàng và phấn khởi. Tuyệt đối không có mấy bài xã luận làm gì. Người ta thích đọc về cướp-hiếp-giết, nên ở góc trái dưới của trang nhất, tôi mở mục Tội phạm. Ơn trời, tuần trước có hai chiếc bán tải bị trộm, và tôi tường thuật vụ này như thể có kẻ dám xông vào cướp xe ở căn cứ Fort Knox vậy.
Ở chính giữa trang nhất là một tấm ảnh chụp chung ban điều hành mới, gồm Margaret, Hardy, Baggy Suggs, tôi, nhiếp ảnh gia của tòa soạn Wiley Meek, Davey Bigmouth Bass, và Melanie Dogan, một học sinh trung học làm việc bán thời gian. Tôi rất tự hào về nhân sự của mình. Chúng tôi làm việc cật lực trong mười ngày, và số báo đầu tiên đã thành công vang dội. Chúng tôi in 5000 tờ và bán hết sạch. Tôi gửi một thùng báo cho bà tôi, và bà vô cùng thích thú.
Tháng tiếp theo, tờ Thời báo mới dần dần thành hình, còn tôi thì vắt óc suy nghĩ để quyết định xem mình sẽ đưa nó lên tầm mức nào. Thay đổi ở vùng quê Mississippi này không phải là chuyện dễ dàng, nên tôi quyết định phải làm từ từ. Tờ báo cũ đã bị phá sản, nhưng suốt 55 năm qua, nó chẳng hề thay đổi gì mấy. Tôi viết thêm tin bài, bán thêm quảng cáo, in thêm nhiều hình của các nhóm người đa dạng. Và tôi cũng dốc nhiều công sức vào mục cáo phó.
Là kẻ chưa hề mê làm việc nhiều, nhưng từ khi làm chủ báo, tôi quên mất khái niệm thời gian. Tôi còn quá trẻ, quá bận rộn, nên chẳng biết sợ là gì. Tôi mới 23 tuổi, nhưng nhờ may mắn, gặp đúng thời điểm và có bà ngoại giàu có, nên đột nhiên được làm chủ một tờ tuần báo. Nếu tôi đã lưỡng lự và cần thời gian phân tích tình hình, rồi đi tìm mấy dân ngân hàng và kế toán mà xin lời khuyên, chắc chắn sẽ có người thuyết phục được tôi bỏ vụ này. Nhưng khi ta đôi mươi thì làm gì biết sợ. Trên tay chẳng có gì, nên đâu có gì để mất.
Tôi cho rằng phải mất một năm mới bắt đầu có lãi, và đúng là mới đầu, doanh số tăng khá chậm. Rồi Rhoda Kassellaw bị giết. Tôi nghĩ theo lẽ tự nhiên thì sau một vụ giết người, phải in thêm báo để bán vì người ta muốn biết rõ chi tiết. Tuần trước vụ án, chúng tôi bán được 2400 tờ, và tuần tiếp sau đó, con số là gần 4000.
Đây không phải vụ giết người bình thường.
Hạt Ford là một nơi thanh bình, đầy những người ngoan đạo hoặc nhận mình ngoan đạo. Ở đây đánh nhau không phải chuyện hiếm, nhưng thường là do tầng lớp hạ lưu la cà ở mấy quán bia. Tháng nào cũng có một gã liều mang nổ súng vào hàng xóm hoặc chính vợ mình, và mỗi cuối tuần đều có ít nhất một vụ đâm người ở khu da đen. Mấy vụ đó hiếm khi có người chết.
Tôi làm chủ tòa soạn này trong mười năm, từ năm 1970 đến 1980, và rất hiếm khi có vụ giết người nào ở Hạt Ford. Không có vụ nào tàn bạo như vụ án mạng Rhoda Kassellaw, và cũng không có vụ nào là lên kế hoạch cố sát. Ba mươi năm sau, tôi vẫn cứ nghĩ về vụ án đó mỗi ngày.
Danh sách chương
- PHẦN MỘT CHƯƠNG 1
- CHƯƠNG 2
- CHƯƠNG 3
- CHƯƠNG 4
- CHƯƠNG 5
- CHƯƠNG 6
- CHƯƠNG 7
- CHƯƠNG 8
- CHƯƠNG 9
- CHƯƠNG 10
- CHƯƠNG 11
- CHƯƠNG 12
- CHƯƠNG 13
- CHƯƠNG 14
- CHƯƠNG 15
- CHƯƠNG 16
- CHƯƠNG 17
- CHƯƠNG 18
- CHƯƠNG 19
- CHƯƠNG 20
- PHẦN HAI CHƯƠNG 21
- CHƯƠNG 22
- CHƯƠNG 23
- CHƯƠNG 24
- CHƯƠNG 25
- CHƯƠNG 26
- CHƯƠNG 27
- CHƯƠNG 28
- CHƯƠNG 29
- CHƯƠNG 30
- PHẦN BA CHƯƠNG 31
- CHƯƠNG 32
- CHƯƠNG 33
- CHƯƠNG 34
- CHƯƠNG 35
- CHƯƠNG 36
- CHƯƠNG 37
- CHƯƠNG 38
- CHƯƠNG 39
- CHƯƠNG 40
- CHƯƠNG 41
- CHƯƠNG 42
- CHƯƠNG 43
- CHƯƠNG 44
- LỜI TÁC GIẢ