- I - (tt)
Đồ Cuồng thấy thế, tức lắm, hỏi:
— Nói thật: bác ngờ ai trong bọn anh em đây là phường Nguyễn huy-Bá? Này,tôi thì bảo thật. Số mà chết thì chẳng có Nguyễn-huy-Bá rồi cũng chết. Mà số trời còn để yên thì chẳng sợ chi chi hết, Cái bộ dút dát như bác chẳng ăn thua gì đâu!
Đồ Chu thong thả đáp:
— Nào tôi dám ngờ ai? Nhưng ta lên kinh để đi thi, chứ có phải lên để nói chuyện trời nam bể bắc vô ích đâu? Vả chăng, tôi xem ngữ ý thì ông Ba Bình Vọng, chủ nhân đây, hình như có giọng bất bình gì bên Vương phủ thì phải.
Ông Ba Bình-Vọng vội tiếp:
— Không, nào tôi có ý nghĩ cuồng vọng ấy. Chúng ta đều trên đội ơn trời bể của vua chúa cả. Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ; xuất thổ chi tân, mạc phi vương thần [8]
— Hẳn thế chứ! Bác đồ Cuồng nói tiếp. Mấy trăm năm nay, cố-sự là thế [9]. Vua giữ vị báu, Chúa giữ quyền hành, cái thế phải thế. Chính hòng thượng bây giờ cũng cho như thế là phải.
Ông Ba Bình-Vọng nói:
— Ông nói cho vui chuyện đó thôi, chứ có đời nào hoàng-thượng lại cho như thế là phải. Hoặc ngài có nói như thế thì cũng là câu ngài che đậy tâm tích mà thôi, chứ có khi nào...
— Thật thế đó. Hoàng thượng, tuy bị Chúa nhiều lần ức hiếp nhưng vẫn không để ý. Có lần có người đem chuyện “thống nhất”[10] ra nói với ngài thì ngài truyền rằng: Cập trẫm chi thân, tất kiến nhất thống chi sự ; nhiên phi trẫm sở lạc. (Đời trẫm thế nào cũng thấy việc nhất thống. Song, đó không phải việc ta nên lấy làm vui). Hỏi lại ngài thì ngài chỉ cười mà nói: thế như thế, thì phải như thế! Hoàng-thượng nói thế là ngài thông-đạt lắm, Hoàng thượng giữ ngôi báu và hưởng thụ, Vương thượng cầm quyền bính và chịu nặng nhọc, đó cũng là thuận theo lẽ trời. Vả chăng, khi số nhà Lê hết đã lâu rồi, nay thiên-ý nhân tâm qui Trịnh [11] thì cơ nghiệp phải ở nhà Chúa. Cái ngôi báu giữ vớt được mấy trăm năm nay là nhờ hồng phúc của vua Thái Tổ Thái Tông để lại. Nói vắng đây và hỏi thật tình các ông: một anh áo vải thường lưu lạc ở lẫn trong đám dân gian làng Bố-vệ [12] thì có công đức gì mà hưởng ngôi thiên tử? Có lẽ chỉ có cái “công đức” là con cháu chắt chút một người anh vua Thái- Tổ.
Ông Ba Bình Vọng hỏi:
— Thế, theo ý thầy thì ai mới đáng làm chủ thiên hạ?
— Cứ ý tôi thì công nghiệp của ai, thổ địa nhân dân của người ấy. Hoàng-triều từ vua Thái -Tổ đến vua Cung-Hoàng trải được mười đời vua, và ngót trăm năm. Cái việc đánh mất nước về tay chúa Mạc là lỗi ở Uy -mục Tương-Dực... Đến lúc nhà Mạc cướp mất thì cơ nghiệp nhà Lê tắt hẳn rồi. Nhà Mạc có nước đến sáu mươi năm, đó đủ biết thiên-ý nhân-tâm bỏ họ Lê rồi. Sau đây; rứt họ Mạc là công ở Trịnh-Thái-Vương[13] Một họ mất nước đến sáu mươi năm thì họ khác dẫu có lên thay nữa cũng là “vô gián ngôn”![14]. Huống chi họ Trịnh chẳng nỡ thế, vẫn nhớ ơn xa đức Thái Tổ mà nhường cho con.
cháu cái vị chí tôn, tình ăn ở không sao trách được. Ta đây nói văn vẻ thì là tôi vua, tôi chúa, nhưng sự thực thì chỉ là thần tử Trịnh mà thôi! Ai muốn giữ nhà Lê bền chặt thì phải nhất tâm trung với Chúa, đó là cái đạo trung trinh của kẻ làm tôi bây giờ...
Câu chuyện vừa đến đó thì có tiếng kêu ngoài hiên:
— Đi đâu về mà tiếng nói thất thanh đi thế?
Kìa! mặt không còn hột máu nào cả kìa!
— Ai thế? Đi đâu về thế?
Cả nhà chạy ra ngoài hiên, bỏ dở câu chuyện đương nồng. Ngoài hiên, thầy đồ Tốn xứ Đông, mặt tái như gà cắt tiết, đương hổn hển thở giữa đám sĩ tử hỏi han rối rít. Vào trong, nhà nghĩ một lúc hoàn hồn, Đồ Tốn nói:
— Tôi vừa gặp con yêu hồ trước Giám.
— Mắt bác hoáng đó. Làm gì có ma ở trước chỗ thờ Đức-Thánh[14]
— Không! tôi không hoáng chút nào cả. Tôi trông rõ như trông rõ các bác ở đây.
Miệng bốn năm người nói chen lẫn nhau:
- Làm gì có ma! Bác đồ xứ Đông hoáng mắt đó. Chúng tôi đều đã có đi qua đó cả, thấy gì đâu?. Chiều tối hôm qua tôi đi thăm bác đồ Uông ở phường Tú- Uyên về, đi qua đấy, có thấy gì đâu?
Đồ Tốn vừa hết sợ ma thì đến tức bạn phát cáu:
— Các bác cho tôi là thằng dút dát đớn hèn lắm sao. Hoáng một lúc chứ ai lại hoáng đến mấy khắc đồng hồ[15] được!
Để mọi người nói ra nói vào ngớt rồi, ông Ba Bình-Vọng mới nói:
— Dễ thường thầy ấy trông thấy ma thật đấy. Các thầy ở các trấn không rõ, thành Thăng Long vẫn có bốn con yêu.
Mọi người nói:
— Bốn con yêu! Ông Ba nói giỡn bác Đồ Tốn đó chăng?
— Tôi không nói giỡn. Các thầy chẳng nghe câu đồng dao:
Long-Thành có bốn yêu tinh.
Yêu hồ trước Giảm, yêu đình Đồng Xuân.
Yêu cây Bàng, giữa hang Cân,
Yêu gốc cây liễu, giữa sân Chùa Tàu.
Bốn con yêu có bốn tính chất riêng. Thôi, nhưng để tôi bảo người nhà làm rượu uống đã. Rồi ta vừa uống vừa nói chuyện mới vui.
Chú thích:
[1] Khi thi đỗ. Thi hương là xướng danh, thi hội gọi truyền lô.
[2] Thành-Hoàng, dân làng thờ gọi cung kính là Nhà Thánh
[3] Bắc Song Xử Sĩ là biệt-hiệu của cuối đời Tần. Khi Đào làm quan lệnh đất Bành Trạch có quan Đốc Bưu đến. Nha lại ta tay chào. Đào nói: ‘‘Ta không thể vì năm đấu gạo mà uốn gẫy Iưng được’’ (vị ngũ dẩu mễ triết yêu) Bèn về nhà ở và chỉ uống rượu đi chơi.
[4] Hoàng Ngũ Phúc
[5] Vấn đỉnh = hỏi đỉnh. Đời cuối, Chi, Sở Trang Vương hỏi quan khanh nhà Chu xem chin cái đỉnh của vua Chu Võ Vương đúc có nặng hay không. Ý Sở Trang Vương muốn nói xa xôi là y có thể thay nhà Chu làm Thien Tử. Đây ý muốn nói là Chúa Trịnh Sâm có ý muốn thay nhà Lê làm vua.
[6] Chỉ ông Vũ-trần-Thiệu. Chúa Trịnh Sâm muốn thay nhà Lê làm vua, khiến Trần-Thiệu mang biểu sang xin với nhà Thanh. Đến hồ Động- Đình, Trần-Thiệu đốt biểu rồi tự tử.
[7] Người nổi tiếng là hay dò la tố cáo cầu công đời bấy giờ.
[8] Suốt gầm trời đều là đất nhà vua, ở đất ấy ai cũng là tôi nhà vua.
[9] Đời chúa Trịnh mỗi khi nói đến chế độ hiện hành, người ta thường dung hai chữ “cố sự”. Nghĩa là việc ấy, chế độ ấy là việc cũ từ xưa chứ không phải ai mới đặt để ra.
[10] Thống nhất đây nghĩa nặng vì phần quyền chính hơn vì thổ địa.
[11] ý trời long người về họ Trịnh.
[12] Khi nhà Lê trung hưng, vua Lê Anh-Tôn là người nhà quê, Chúa Trịnh kiếm ra ở làng Bộ Vệ (Thanh Hóa) rồi tôn lên làm vua, Lê Anh Tôn là dòng dõi Lê Trừ, anh vua Lê Thái Tổ.
[13] Chỉ Trịnh Kiểm.
[14] Không ai khe kẽ mà nói vào đâu được.
[15] Chỉ Giám, đền thờ Khổng Phu Tử.
[16] Cái đồng hồ bằng nước cổ.