- II - Chén rượu áp-kinh
SÁNG hôm sau, quán Tí-Hàn có một cuộc hội ẩm to. Ngoài các ông đồ ông cống trọ ở đấy ra, chủ nhân lại có mời thêm hai người khách ở trên phố xuống nữa. Chủ khách ngồi đâu đấy rồi, chủ nhân đứng dậy nói:
— Tối hôm qua, nhân vì ông đồ Tốn gặp một điều kinh hoàng, nên gọi là nhà quán tôi có chén rượu, áp kinh [1] mời ông, và cùng anh em bà con mua vui trước ngày tiến trường. Xin bà con cùng tôi cạn cốc rượu này rồi ông đồ xứ Đông mở mào câu chuyện hôm nay cho bà con nghe.
Mọi người cạn cốc, rồi giục:
— Bác đồ nói cho anh em nghe câu chuyện chiều tối qua. Rượu áp-kinh uống rồi thì nói đi!
Đồ Tốn nói, mọi người yên lặng nghe.
— Chiều hôm qua tôi ở nhà trọ bác cống Ngô Tiêm ở phường Giảng Võ về. Về đến trước Giám trăng đã lên, phỏng chừng vào lúc cuối giờ dậu đến giờ tuất. Lúc đó tôi thấy ở cái bãi cỏ trước Giám có bóng một người đàn bà. Yên chí là hoáng mắt, tôi cứ đi như thường và vẫn để ý nhìn cái bóng ấy. Càng gần trông càng rõ: dải yếm lụa bạch, áo dài năm vạt bằng lụa trắng phấp phới trước gió, khăn bịt mõ quạ, mặt tròn trái soan, dáng người óng ả ; bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in vào mắt. Bụng bảo dạ “Con cái nhà ai mà tối rồi còn đứng thẩn thơ ở đây. Tuồng này không phải thiện nhân thì phải”. Tôi cố đi lướt qua thật gần để nhìn rõ mặt. Khi cách độ một ngũ thì nó gọi tận tên mình:
— Bác đồ Tốn đi đâu mà về muộn thế?
Tôi kinh ngạc hỏi lại:
— Sao cô biết tên tô?
— Tôi còn lạ gì ai mà không biết. Tôi ở trước cửa Khổng sân Trình thì phải biết tên những ông nho, ông đồ, ông cống, ông nghè.
Cho là phường đĩ bợm, tôi vừa đến sát cạnh vừa nói:
— Thế khoa này đỗ ông cống ông nghè thì tôi cùng cô sẽ cùng làm cái nhà ở đây để cùng nhau canh cửa Khổng sân Trình.
Lạ thay! tôi tiến đến đâu, nó lùi đến đó mà lại lùi về phía cái hồ trước Giám. Tôi nghĩ bụng “Đến bờ hồ, mày có lùi đi đường giời!” Đến sát vệ hồ, nó đi lướt trên mặt nước mà sang bên bãi cỏ ở giữa hồ. Khi đó tôi mới tỉnh ra, biết là ma, liền rảo bước đi thẳng. Đi được mươi bước, có tiếng gọi giật lại: “Bác Đồ! Bác Đồ! cho em theo với!” Rồi nó hát:
Đi đâu vội mấy anh ơi!
Dừng chân nghe hết đôi lời nước non!
Tôi quay lại thì nó đương đi sau, cách mình chừng vài trượng nữa thôi.
Nhìn xuống mâm rượu, đồ Tốn nhắc cả bàn:
— Xin anh em cầm đũa ăn đi đã chứ. Cạn tuần rượu sau, tôi xin nói nốt.
Chủ nhân cũng cười xòa:
— Ồ mà nghe chuyện tôi cùng quên cả phận sự chủ nhân của một bữa rượu. Nào, xin mời các ông cầm đũa. Uống lượt rượu nữa rồi ta nghe nốt chuyện.
Mọi người ăn uống. Cạn tuần rượu thứ hai, đồ Tốn nói tiếp:
— Mà lúc ấy xem như nó muốn đến gần mình mà lôi kéo. Tôi vội vàng chạy, tai vẫn văng vẳng tiêng hát:
Qua nơi cửa Khổng sân Trình,
Mà anh chẳng đoái chút tình cùng em.
Tự đó tôi sợ quá, mê loạn hẳn thần trí, một mạch chạy về. May cũng chỉ còn mươi trượng đường nữa thôi. Vào tới nhà, tôi còn tưởng như nó còn ở sau lưng hát hổng và đuổi theo nắm lại.
Chủ nhân rót chén rượu thứ ba mời:
— Chén rượu áp kính thứ ba để ông đồ trấn tỉnh hẳn và... làm bài thơ áp-kinh cho bà con được nghe cái tài văn nôm nổi tiếng của ông đồ Tốn đất Hạ Hồng.
Đồ Tốn nâng chén rượu:
— Giấc ngủ đêm qua áp kinh được một nửa. Chén rượu thứ nhất đủ áp kinh hẳn rồi. Chén rượu thứ hai để thưởng thức cách điều nhẫm[2] của chủ nhân ông. Chén rượu thứ ba này thì đủ để nẩy hứng làm thơ.
Nói xong đồ Tốn cả cười, cả mâm rượu đều cười rầm rộ. Họ cười nhất về câu nói ngụ ý xa xôi mà rõ rệt của bác đồ xứ Đông “ thưởng thức cách điều-nhẫm của... chủ nhân ông...”
Bác đồ Cuồng nói pha trò:
— Quân tử viễn bào trù [3], ông Ba Bình Vọng có vào bếp nấu ăn đâu mà bác nói rằng thưởng thức cách điều nhẫm của chủ nhân ông?
— Lại càng đáng thưởng thức...
Rồi cả lũ lại phá lên cười.
Họ cười về cái giọng nói lững lờ bỏ lửng của đồ Tốn định ý nói cách điều-nhẫm của lệnh ái, nhưng tới tiếng “của” lại kéo dài giọng ra, rồi tiếp vào ba tiếng chủ nhân ông.
Chủ nhân ông, ông Ba Bình-Vọng cũng hiểu ý tinh ma ấy. Nhưng vì chiều khách ông không nỡ cự, liền kéo câu chuyện vào chỗ cũ:
— Cười lắp chuyện mãi thế? thầy đồ Hạ Hồng? Còn bài thơ áp kinh thầy định chây với bà con chăng? Hứng thơ có rồi thì làm thơ, nghĩ thơ rồi
đọc thơ đi chứ? Không lẽ chỉ hứng cười!
— Thưa vâng. Rượu áp-kinh, thơ áp-kinh rồi thì còn thiếu cái gì cái gì... áp -kinh nữa. Ông ba hứa cho tôi cái áp-kinh thứ ba thì tôi xin làm cái áp-kinh thứ nhì.
— Thi hãy đọc thơ đi đã.
— Phụng mạng! thần phụng-mạng! Nhưng thần xin uống nốt chén rượu thứ tư đã. Cạn chén, xin có thơ.
— Nếu không có?..
— Thì xin trói tôi vào gốc thông suốt ngày để nghe tiếng thông reo và trúc ngâm gió.
— Cứ uống cạn chén rồi đọc thơ đi đã.
— Đi đã rồi thì làm sao?
— Rồi thì thi đỗ cống sinh, rồi thì đi thi hội, thi đình, đỗ Tiến-Sĩ, Hoàng-Giáp chứ lại còn rồi thì làm sao nữa?
— Còn làm sao nữa chứ! Thi đỗ Tiến-Sĩ rồi thì lấy vợ đẹp, rồi thì có người cưới làm chồng.
— Thì hãy làm thơ đi đã, xem khẩu khí có đáng làm ông nghè khoa này không.
— Hễ đáng thì ông cho tôi cô Tường-Loan nhà ông nhé.
Đồ Tốn nói đến đó làm cho cả mâm rượu lại cười to hơn trước. Rồi thì hơi men chếnh choáng, các ông đồ cũng nhả nhớt mà reo lên:
— Phải đó! đồ Tốn làm thơ đi rồi cụ Ba thưởng cho cô gái cụ.
Câu chuyện đến đó đã ra ngoài khuôn nhiều quá. Lúc khác thì chủ nhân giận mà bỏ về phòng khách ngay. Nhưng khi đó, nửa vì ông cũng chếnh choáng hơi men, nửa vì ông cũng không muốn phật ý bọn học trò say rượu, mà phá đám cuộc vui, nên ông cũng cười mà trả lời lạnh lẽo một tiếng:
— Vâng.
Đồ Tốn tay cầm chén rượu đưa lên môi, đầu gật gù lẩm nhẩm, đùi rung rung ra dáng đắc ý.
Một lát, ông ngửa cổ uống mội hơi hết chén rượu rồi dõng dạc nói:
— Xin bà con nghe thơ áp-kinh của đồ Tốn Hạ Hồng.
Rồi ông lớn giọng ngâm từng câu từng tiếng bài thơ ông vừa nghĩ xong:
Ông đồ Hạ Hồng lên kinh thi,
Trọ quán Tí-Hàn, nhà Ba Chi.[4]
Bông hồng thấp thoáng qua thông trúc
Thông trúc khuất bóng chẳng thấy gì.
Ngồi nhà ngắm hoa âu cũng chán,
Tới kinh ngồi xó, có thằng Mán.
Buồn chân có lúc đồ đi chơi,
Thăm cửa Đại Hưng cùng Phủ Doãn.
Thăm dẫy hàng Ngang dẫy hàng Đào
Xem trong các phố có cô nào
Cô nào ròn trẻ lại xinh xinh
Vào phố [5] miệng vội cất tiếng chào,
Chào cô hàng đắt tựa tôm tươi
Nhân dịp thịnh khoa kiếm một người
Một người tuấn nhã mà lịch sự
Đại khái na ná như đồ tôi.
Tới đó cả mâm bẻ:
— Ồ hay! Bác đồ này làm thơ lạc đề quách rồi! Bài thơ áp-kinh tả cái gặp gỡ cùng nỗi hãi hùng của bác hôm qua kia mà.
— Thì những cái tôi vừa nói cũng là cái để áp kinh cả đấy chứ! Thơ văn thì phải rộng rãi chứ có đâu hẹp hòi. Rồi tôi xin nói đến hết cả. Các bà con nghe tiếp giùm:
Chơi láo đã chán mới chợt tỉnh
Rằng chuyện văn bài chưa chút đỉnh
Hôm qua nhớ ra đi tìm bạn
Bác cống Ngô Tiêm ở làng Bỉnh.
Câu chuyện văn bài kéo hết buổi
Đến lúc ra về đã gần tối.
Gần tối đi qua hồ trước Giám.
Cuối thu trời lạnh thêm gió thổi.
Phía đông trăng cũng vừa mời lên.
Qua khe cành lá bóng đua chen
Nhìn ra bãi cỏ lại vừa thấy
Bóng hồng trên bãi dạo gót sen.
Gió bay dải yếm lụa trắng nuốt
Trăng soi mặt hoa rõ mồn một
Bóng dáng óng ả người tầm thước
Mặt hoa như cười như ủ dột.
Buồn tình đồ mới hỏi thăm chơi.
Sao đến nơi này mà lả lơi
Dè đâu cô gái réo tên tớ.
Ruột tớ khi đó rối tơi bời
Bụng tuy đã giợn, miệng còn cứng.
Hỏi lại: “Sao cô biết tên tôi”.
Cô ả nhoẻn mép lẵng lơ nói:
“Em đây biết hết thảy mọi người
Ở trước cửa Thánh thì phải biết.
Hết thẩy học trò ở trên đời.
Đồ liền đến gần toan nọ kia
Mình thì cứ tiến nó cứ lùi
Tiến mãi tiến mãi vẫn chưa tới
Lùi mãi lùi mãi vẫn chưa thôi
Bụng mình bảo dạ: “Mày lùi mãi”
Hồ ở sau lưng; chạy đằng giời
Chỉ tiến bước nữa thì nắm được,
Ai ngờ nó làm mình rụng rời.
Lướt trên mặt hồ thoăn thoắt bước
Thôi! Đích yêu tinh chẳng còn sai
Đồ liền rảo bước bước thật nhanh
Tiếng hát sau lưng lại lanh lảnh
Đồ liền ù té cấm đầu chạy,
Tiếng gọi đàng sau càng đanh đảnh
Hết hồn, một mạch đến nhà trọ
Anh em hú vía hồi lâu tỉnh.
Tỉnh ra còn sợ đến sáng nay
Chén rượu áp-kinh được uống ngay.
Nhấp một chén rượu hết nỗi sợ
Nhấp chén thứ hai đã thấy say,
Say rồi thi tứ lại nẩy ra
Góp mấy vần nôm tỏ tình ta.
Tỏ ra ai biết cho ta nhỉ?
Thấu nỗi cho không hoa hỡi hoa?
Thấp thoáng dưới từng khóm trúc xa.
Bóng ai tha thướt dưới giàn hoa?
Mãi gầy in vóc người thanh tú
Tuyết trắng pha da nuocè1 đặm đà.
Cô, ý ngượng ngùng còn ẩn mãi?
Ta, tình thành thật phải phô ra!
Một mai đồ Tốn lên nghè Tốn
Thì chán nhà vàng để chứa hoa.
Đọc hết bài thơ, đồ Tốn lại uống một hơi hết chén rượu nữa:
— Tôi hãy tự thưởng cho thơ tôi và cái cao tình của tôi trước rồi chủ nhân và anh em bà con nghĩ đáng thưởng thì xin cứ thưởng cho.
Ông đồ Cuồng múc một chén rượu, trong hũ ra.
— Tôi hãy xin thay anh em thưởng bác một chén đã. Còn chủ nhân có thưởng hay không, cái đó xin tùy lòng.
Đồ Tốn uống hết chén rượu rồi quay sang chủ nhân:
Thế nào? Ông Ba, có đáng thưởng không?
— Đáng.
Cả bọn lại cười ầm ỹ. Đồ Tốn lại uống chén nữa. Cuộc rượu, kéo mãi đến quá giờ tí, ai nấy đều say tít cung thang.
Sáng hôm sau, lúc tỉnh rượu rồi, mọi người mới hối hận những câu nói bông lơn ngoài khuôn lễ giáo tối vừa qua. Đồ Tốn, tuy rằng xưa nay vẫn là người ngạo nghễ ngông nghênh, nhưng cũng lấy những câu đùa của mình hôm trước là quá đáng. Cả bọn sĩ tử trọ học ở quán Tí -Hàn, nhất là Đồ Tốn - người nào cũng ngó sang cái nhà Bắc Song xem chủ nhân đã dậy chưa để dò la thái độ. Họ đều sợ họ bị mất giá trước con mắt chủ nhân là người xưa nay họ vẫn kính, vẫn trọng, vẫn e sợ vì tính nết nghiêm nghị, vì đức hạnh thanh cao. Một điều vô ý trong phép giao tế xoàng xoàng, đối với ông đã là một tội lớn đổi với sĩ hạnh [6] rồi; một điều sơ suất cỏn con trong khuôn lễ giáo, đối với ông đã là một điều ác lớn đối với danh giáo [7] rồi. Kẻ phạm những điều vô ý đó, kẻ làm những điều sơ suất đó. không kể hành vi nặng nhẹ, ông đều cho là danh giáo tội nhận. Mấy việc con con sau đấy chứng cho ta rõ cái tính khắc nghiệt lạ lùng của ông nhà nho ấy.
Đứa cháu bé ông mới lên bốn, một hôm vì mẹ nỏ rửa ráy cho nó, nó tức, nó mắng lại mẹ nó là chó. Giá là người ta thì mắng qua đứa cháu nhỏ. Ông không thế. Ông gọicha mẹ nó đến mắng một tràn kịch liệt đến nỗi đứa bé đương khóc phải nín hơi thin thít mà nghe xem ông nó có đánh bố mẹ nó không?
Lại một hôm khác, hai người cháu gọi ông là bác đánh cờ với con ông. Cờ tàn xoay giống nước cờ thế. Người con hỏi người cháu:
— Thế cờ này em gọi là thế gì?
— Thế cờ này con tốt vào cung rồi ra thì mới khỏi thua, nhưng vào cung thì gần thành tốt lụt. Thế này ta gọi tạm là “Tử kiến Nam Tử vu Trần” Tử vào cung kiến nàng Nam-Tứ thì mới qua nổi nước Trần vô sự, nhưng vì sự vào cung ấy mà thiên hạ reo sau xe mà ngờ cái đạo đức của Phu tử mà thầy Tử-Lộ mới chẳng đẹp lòng...
Ông nghe thấy, gọi cả con lẫn cháu vào nọc ra đánh một trận rồi kể tội với một tràng chữ nghĩa lôi thôi.