- VI - Viếng sống thành Thăng-long
Một buổi sáng hôm đầu tháng Một, trời chưa rõ mặt người, hai ông đồ Trạc phường Đồng Xuân và đồ Ngọc phường Đồng Lạc đã thức dậy cả, đương cùng nhau ngồi uống nước chè ở nhà Đồ Trạc. Hai ông ngồi ngay cạnh cái cửa sổ tròn trông ra củi phương đình cùng cây đề đình Đồng xuân, tức là chỗ hai tháng trước ông đồ Trạc thấy con yêu Đồng Xuân.
Hôm ấy trời đã chuyển sang đông.
Cây đề trong sân đình đã trút hồ hết lá, không ngâm gió như độ cuối hạ đầu thu nữa. Cái cửa sổ tròn bấy giờ cũng có cái liếp che kín.
Trong nhà, trên một bộ ghế ngựa đã mọt trải một chiếc chiếu rách, hai ông đồ đương ngồi hưởng hương trầm nghi ngút với ấm chè tàu cuối mùa. Đồ đạc sơ sài cũ kỹ trong nhà, ghế mọt giường tre, đối với cái nhà kiểu đại khoa, hoành rui đều trạm long hóa, hoa điểu, làm lộ hẳn cái vẻ sa sút của chủ nhân. Nhất là bộ ấm chén chuyên chè, cái lư trầm nghi ngút nó lại càng làm cho nỗi sa cơ ấy càng thêm rõ rệt đáng thương. Bộ đồ chè kiểu ‘‘Tô Vũ mục dương’’, cái ấm chuyên da chu trái tộm, cái khay bằng cũ gô xưa, cái lư đốt trầm bằng đồng Tụ, những cái ấy phải đặt trên cái kỷ gụ, cái sập gụ, ở giữa những câu đối hoành phi vàng son rực rỡ mới là đúng chỗ, đúng nơi.
Những cái đó là cái vết rớt lại từ cái đời trưởng giả hào hoa vài mươi năm về trước của ông Đồ. Những cái ấy, dù nghèo kiết đến đâu, ông cũng cố giữ lại, một là ông nghiện hãm văn bằng nước chè hương trầm, hai là muốn giấy rách giữ lấy lề đôi chút.
Ta cứ tưởng tượng một quyển sách, giấy mọt đục gần hết, chất giấy đã bở ra như cám mà cái bia phất cậy quang dầu, cái gáy lề gai phủ sơn vẫn cứng ở trong, những hàng chữ còn sót lại, nét chữ mềm mại mà sương kinh; ta cứ tưởng tượng một quyển sách như thế là ta có thể mường tượng được tất cả cái khu ông Đồ ở và toàn thể những vật chứa ở trong, từ người đến đồ vật. Cái bìa phất cậy quang dầu là kiểu nhà đại khoa của ông quan cũ nhà Lê kia ; cái gáy sơn then bóng lộn là những bộ ấm chén lư trầm kia ; những tờ giấy mủn ra như cám là những giường chõng cùng chổi cùn rế rảch kê luộm thuộm vứt lôi thôi kia; mà những chữ nét trông sương kinh là bản thân ông Đồ Trạc kia. Cầm quyển sách bìa sách gáy cứng, ai cũng muốn mở ra xem. Khi mở ra, bị mùn giấy bay ra bám vào quần áo vào chân tay, người ta đã toan gập lại hoặc vứt vào xó, nhưng, ngó hàng chữ tốt, người ta lại phải dằn lòng giở từng tờ mà ngắm nghía không thôi.
Chè chuyên năm ấm rồi mà trời vẫn chưa sáng. Thỉnh thoảng, sốt ruột, ông Đồ hé bức cửa phên ra nhìn, thì một ngọn gió Bắc lạnh lùng lại tạt vào lạnh giá đến xương.
Ngồi trơ mãi ra đâm chán, Đồ Ngọc buông một câu khôi hài:
— Chúng ta ngồi ‘‘đãi đán’’ thế này kém gì Chu-Công [1]
Đồ Trạc không nói gì, vẫn còn vẻ căm hờn vì thi hỏng. Câu khôi hài của bạn làm cho ông khó chịu, ông gắt liền:
— Bác thì chỉ được cái chuyện cợt nhả cả đời, sung sướng lắm đấy mà còn cợt nhả!
— Chẳng sung sướng mà cũng chẳng buồn bả gì cả. Tôi coi như một tiếng sóc đĩa mà thôi. Bốn đồng ngửa sấp cứ việc trút tiền kẻ nọ vào người kia, cứ việc mua cười bán khóc của người ‘‘khát nước’’ [2]. Tôi đây cao hứng đánh chơi mấy tiếng, có vẻ gì mà tức tối với vui buồn! Tiếng bạc chập tối, nửa đêm, tôi cũng chẳng thèm quan tâm, nói gì đến tiếng bạc về sáng!
Thấy bạn vẫn thiu thỉu rầu rầu, Đồ Ngọc vỗ mạnh vào vai bạn:
— Bác Trạc! việc gì mà ủ rủ thế? Chính bác bảo không nên thi nữa kia mà! Bác đi thi là vì tôi nèo ép chứ bản tâm bác định thôi hẳn nghề ‘‘đeo lọ’’ kia mà! Tôi buồn thì còn có lý, chứ bác buồn thì còn có nghĩa lý gì?
Mấy câu của bạn khiến cho ông sực nhớ ra tự lấy mình làm buồn cười.
- Ừ bác ạ, buồn cười thật. Mình thật bản tâm cũng vô tâm chuyện đỗ hay hỏng. Thi là thi mà chơi cho biết cái vẻ ‘‘thịnh khoa’’ của nhà nước mà thôi. Thế mà lúc hỏng nó cũng thế nào trong dạ.
Nó chẳng thế nào cả. Nó là một sự tập quán của linh hồn. Con chó nằm ở cũi mà cũng cào như nằm ở đống rạ; con mèo phóng uế trên hòn đá cũng cào cào để chôn phân khi phóng uế ngoài vườn là nghĩa làm sao? Các nhà bác vật học, dựa vào những thuyết khoa học, cắt nghĩa rằng:
Con mèo con chó trước kia đều là giống thú rừng trước khi làm giống thú nhà. Khi ở rừng, mèo phải cào đất chôn phân đánh mất dấu tích, đễ tránh các thú dữ ; chó phải cào cỏ lá để làm ổ nằm. Tính ấy di truyền hàng ức triệu đời thành một cái thiên tính. Thiên tính ấy tới nay cứ việc phát lộ dù chẳng có ích gì.
Ông Đồ Trạc buồn vì thi hỏng nhiều quá rồi, cái buồn ấy thành một thiên tính. Thiên tính ấy gặp dịp là phát lộ ra, là rầu rầu buồn bã, chứ chẳng phải ông có quan tâm lắm về chuyện hỏng thi, khoa thi ổng tin là cuối mẻ.
Từ hôm hỏng thi ông càng tin lời nói con yêu cây đề. Câu nói đã đúng phần dưới thì tất phải đứng phần trên: Quân đã bất đệ rồi, thì rồi đây, quốc cũng tương vương. Bởi thế ông định cùng bạn là ông Đồ Đồng Lạc, cùng bạn hỏng thi, đi chơi khắp ba mươi sáu phố phường một phen, đi thăm hết cả các cửa Đại Hưng, Tuyên Vũ... tất cả tám cửa ô, tất cả các đền chùa danh thắng, tất cả những quán cũ lầu xưa, tất cả những cung vua, phủ chúa, phủ Lượng, phủ Doãn, phủ Thừa...
Đi chơi để thăm lần cuối cùng cái chốn ‘‘ long bàn hỗ cứ’’ [3], trước ngày loạn lạc mà các ông tin là sắp tới nay mai, trước ngày cái nơi lầu son gác tía, dân cư trù mật thành một đóng tro tàn.
Cuộc đi chơi này, theo ý định của hai ông, có tính cách như một cuộc ‘‘điếu lai nhật chiến trường [4]như cổ nhân. Bởi thế, các ông định dùng cả một ngày đi chơi.
— Mãi chửa sáng.
— Tiết trời bây giờ sang đông, ngày ngắn lắm. Đến mười sáu tháng này đã đông chí [5] rồi kia mà …À! bác Trạc, tí nữa tôi quên mất. Đêm qua nằm mãi không ngủ được, nghĩ được một bài thơ Nôm nghe cũng được.
— Ừ, bác đọc lên nghe rồi tôi phê phách vào nữa, bác thôi sao [6] vào nữa thì trời vừa sáng đó.
— Nhưng tôi chỉ mới nghĩ được có sáu câu thôi. Mà tôi không muốn nối nữa, vì sáu câu ấy nhất khí, nối thêm e thơ mất hay.
— Bác cứ đọc, rồi tôi xem có thể nối được thì tôi nối.
Rồi Đồ Ngọc đọc:
Hắt hiu án sách, dầu vơi đĩa.
Lác đác sân hoa, lá trút cành
Người cứ mong hoài, đêm vẫn tối!
Trời còn trên mãi, sáng chưa tinh.
Bực mình suốt cả năm canh vắng,
Ngủ chẳng yên cho, dậy chửa đành.
Đồ Trạc tấm tắc khen:
— Hay, hay quá! Lời văn bác nhẹ nhàng lắm,
— Nhưng tôi sợ sái, nhất là câu cuối.
— Tôi lại lấy làm hay nhất, có ý vị nhất.
— Thì tôi cũng chịu câu ấy là hay. Hay thì có hay, nhưng mà sái chết. Ngủ không yên, dậy chửa đành, thận thế bác rồi suốt đời lúc nào cũng ‘‘chẳng yên’’ với ‘‘chửa đành’’ cả thôi.
— Không! Ý tôi định nói rằng: Thôi hẳn chuyện đời đi thì cũng chưa yên một bề mà sắn tay làm chuyện kia khác thì chưa đến lúc.
— Tôi cũng hiểu ý bác như thế, nhưng mà sái thì vẫn sái.
— Vâng thì sái. Sái tôi chịu. Nhưng bác hãy nghĩ mà tiếp hai câu nhất nhị tôi còn bỏ dở đi đã.
— Thôi, thơ nhất khí thế là hay. Đừng thêm bớt gì vào nữa, tôi mà thêm thì lại họa xà thiêm túc [7] ngay.
Tới đó, trống tan canh trên cửa ô Hàng Đậu bắt đầu đánh. Đồ Ngọc bảo bạn:
—Thôi canh tan rồi, ta đi đến bãi chiến trường nay mai đi thôi.
Hai người cùng đứng dậy bắt đầu đi. Ra tới cửa. Đồ Trạc hỏi bạn:
— Ta bắt đầu đi lối nào?
Bắt đầu hãy ra cửa ô Hàng Đậu đã, rồi theo đường đê Đĩnh nhĩ [8] ta đi lên cửa ô An Hoa, rồi theo đường Cổ Ngư ta về thăm đền Quán Thánh cùng chùa Trấn Quốc. Rồi lên chơi Khán sơn, Nùng sơn, về Giám. Thăm Giám xong đến phường Tả Bà Ngô ăn cơm xong rồi đi thăm Lượng quốc Phủ, Đại hung môn, phủ Doãn, Kình thiên tháp, Thủy quân hồ. Cuối cùng xuống thăm trường Bắn, đàn Nam giao rồi lại quay về thăm hồ Hoàn Kiếm, núi Ngọc sơn. Xong đó ta theo lối Hàng Sũ qua Hàng Bè, về phường Đồng Lạc ăn cơm chiều ở nhà tôi rồi nghỉ luôn ở tôi, Hôm nay tiết Đại tuyết vào giờ Dậu, tối đến lạnh, ta ở nhà đánh chén cho vui.
☆
— Dân tộc Việt-nam cứ tiến dần về Nam Thành Thăng-long cứ tiến dần về Đông.
Thành Thăng long bắt đầu dựng hồi cuối nhà Tùy, vào khoảng niên hiệu Đại nghiệp đời vua Tùy Dạng đế. Quan nhà Tùy cũng không định làm thành, chỉ xây một bức tường vuông chu vi chín trăm bộ (ước chừng 1400 đến 1500 mètres), để làm chỗ ở và nha môn của quan Thái thú. Bức tường vuông mỗi bề không nổi bốn mươi thước tây ấy gọi là Tư Thành và phỏng chừng ở vào địa phận làng Kim Mã bây giờ. Khách đi chơi bây giờ nếu đi con đường từ chợ Bưởi đến Cầu giấy thì đi được chừng hơn một cây số sẽ có hai lối dốc đi xuống con đường đi đến trường Đua ngựa. Khách đứng trên con đường cao, giữa đôi bên con đường dốc, mà nhìn thẳng xuống con đường đi trường Đua ngựa. Rồi khách tưởng tượng rằng con đường ấy đâm thẳng vào cổng hậu cái Tư Thành kia.
Nhà Đường dựng nước ta thành một Đô hộ phủ. Tới năm Đại lịch thứ hai đời vua Đường Đại Tông, các quan cai trị nhà Đường xây thêm vòng thành bọc chung quanh Tư thành. Thành ấy, mặt Bắc chạy từ chỗ đường Parreau rẽ xuống trường Đua ngựa đến chỗ đường Parreau tiếp với đường vòng quanh đô thành (Route Ciculaire) ở địa phận làng Nghĩa Đô; mặt Tây tiếp đấy chạy theo đường vòng đến Ô Cầu Giấy; mặt Nam từ Ô Cầu Giấy, chạy theo con đường xe điện đến địa phận làng Vạn Phúc ; mặt Đông chạy thẳng hướng Nam đến hướng Bắc nối chỗ góc làng Vạn Phúc với đoạn đường Parreau rẽ xuống trường Đua ngựa. Thành ấy gọi là La thành.
Năm 862 — Đường Ý Tông, niên hiệu Hàm Thông thứ hai - quân Nam - Chiếu ở Vân nam xuống xâm lược Giao châu, La thành. Mãi tới năm 866 quan Tĩnh Hải Tiết độ sứ [9] Cao Biền mới lấy lại được La thành. Khi đó thành đã bị tàn phá hồ hết. Cao Biền mới đắp thêm lần thành nữa, gọi là Đại La thành. Đại la thành gồm một lần thành ở trong và một lần quách ở ngoài. Lần thành ở trong tiếp vào và ở phía Đông La thành cũ. Hai con đường Parreau (từ góc Đông bắc La thành cũ tới chỗ Biên sắt phân địa giới Hà nội Hà đông bây giờ và đường đi Ô-Cầu-giấy là hai mặt Bắc nam của thành. Lần quách ngoài đi theo con đường từ Ô Cầu giấy qua làng Giảng Võ) đến Ngã tư chợ Dừa (ngã tư Khâm thiên hàng Bột); rồi lại từ đó chạy theo con đường đi cửa Ô đồng Dầm (gần làng Kim liên bây giờ) ; rồi lại từ đó theo con đường đi qua cửa Ô Cầu Rền (bây giờ vào chỗ ngã tư dưới bót cảnh sát và trường Trần văn Khánh); rồi theo đó qua làng Thanh nhân mà nối vào lần quách chạy theo bờ sông Nhị hà cho tới cửa ô An hoa (bây giờ là Yên phụ).
Đại La thành chu vi bốn ngàn bộ (chừng trên dưới 6 kilomètres rưỡi). Lần quách ngoài chu vi một vạn hai ngàn bộ (chừng hơn 19 kilomètres).
Bây giờ, tuy La thành, Đại La thành đều không còn nữa, nhưng nó đã vạch đường cho những con đường chạy vùng ngoại ô đô thành Hà nội. Đoạn nào đường cao như đê, tức là chạy vào giữa nền cũ bức tường đất thành Đại La.
Nhà Lý nối vào phía đông Đại la thành cũ mà xây một lần thành vuông nữa, gọi là Thăng Long thành. Những núi Khán sơn, Nùng sơn đều là những mô đất vua nhà Lý xây đắp lên để chữa phong thủy [10] cho đế đô Thăng Long thành sau này bua mấy hồi tàn phá.