- V - (tt)
Đội quân lều chiếu vẫn kềnh càng nghênh ngang tiến đi một cách loạn trật tự như bầy cua, lộn xộn bò không hàng không lối. Bốn pho tượng vẫn ung dung chậm chạp tiến giữa đám lộn xộn ồn ào ấy. Trên bành con tượng đi đầu, ông Tứ Thành Đề Lĩnh Bùi Thì-Nhuận vẫn vắt vẻo ngồi dưới chiếc tàn đỏ.
Cuối giờ Ngọ, đội nội tượng đến cửa Nam trường thi. Trên mình voi, người chưởng cơ đội quân Kim Ngô, cất ống loa lên, vừa nói vừa quay miệng loa khắp bốn phía:
— Lùi! lùi để bốn ông quận dẹp lối cho quan trường tiến trường...
Đội quân lều chiếu chạy giạt ra hai bên. Bốn pho tượng đứng sang hai bên cửa trường thi, để lối giữa trống.
Đội quân Kim Ngô vào trước, đứng sắp hàng hai bên vệ đường giữa hai vi giáp ất. Bốn cái võng đào, thứ tự đi giữa hai hàng rào voi và lính áo nẹp đỏ mà vào trường. Võng đầu, chung quanh có bốn tên lính cầm bốn lọng che, là võng quan Tri Cống Cử Thái Bảo, Quốc Sư Hoàn Quận Công Nguyễn Hoãn.
Võng thứ hai, kèm bốn lọng xanh, là võng quan Đề Điệu, Thự Phủ Sự, Huy Quận Công Hoàng Tố Lý. Võng thứ ba, che hai lọng, là võng quan Giám khão, tri Lễ phiên Kế Liệt hầu Bùi Huy Bích. Võng thứ tư, che một tàn, là võng quan Hành Tham Tụng Tứ Xuyên hầu Phan Lê Phiên.
Rồi, theo sau là một hàng tám võng tám quan phân khảo. Sau hàng tám võng ấy đến hai đội quân Nhưng Nhất, Nhưng Nhị. Rồi đến lũ người nhà các quan trường đứa nào đứa ấy mang tráp điếu chạy theo.
Các quan đã tiến trường - Cửa trường tạm đóng một lúc để các quan nhận công việc giữ trật tự trong trường.
Ngoài đường, tiếng bàn tán ồn ào như chợ. Ở một góc, người ta nhận thấy hai gia rể [16] bác Đồ Tốn vùng Hạ Hồng. Một sĩ tử đi qua thoảng nghe tiếng ông gia bảo chàng rể:
— Bá đạo, cứ bá dạo.
Người kia dừng bước lại hỏi:
— Bá đạo làm sao? Gia con ông định thi gian hay sao? Khéo chẳng lại mắc cái vạ Lê Quí Kiệt năm nọ.
Ông ba Chi Bình Vọng vội nói gạt đi:
— Chết! chết! thầy đừng nói nhảm mà vạ miệng chứ chẳng chơi. Chúng tôi bàn chuyện khác, không can thiệp gì đến chuyện thi cử cả.
Người kia dáng chừng say rượu, to tiếng sinh sự ngay:
— Việc gì cũng không bá đạo được! Việc gì cũng phải vương đạo hết. Anh này thật là danh giáo tội nhân!
Rồi một bọn học trò túm lại hỏi rối rít:
— Cái gì? Cái gì? Cái gì vương đạo với bá đạo?
Người kia chỉ ông ba Bình Vọng:
— Ông Ba quán Tí Hàn dặn chàng rể cứ bá đạo cứ bá đạo! Chẳng biết ông định xui chàng rể làm cái bá đạo gì trước cổng trường thi?
Ông cống Ngô Tiêm đi xem thi len vào nói:
— Bác nghe nhãng tai đó. Ông Ba nhà ta có đời nào lại nói chuyện bá đạo. Trọng Mỗ chi đồ, vô đạo Hoàn Văn chi sự [17]
Người kia hăng hái nói:
— Thì rõ tai tôi nghe thấy. Ông ấy đứng đực mặt ra thế kia là ông ấy thú nhận đó.
Được dịp chơi khăm lại ông Ba Chi Bình Vọng, bọn sĩ tử mỗi người nói xói nói móc một câu, Bác đồ Cuồng xứ Đoài nói mát:
— Ông ấy khinh bọn hậu bối chúng mình thì có, chứ ông ấy khi nào lại mở miệng nói bá đạo. Cái miệng ‘‘khải thánh học’’ có phải là cái miệng vừa.
Một người khác nói chêm:
— Cái miệng ăn nói toàn sách vở, cái bụng nghĩ toàn chuyện thánh hiền có đời nào xui ai làm điều bá đạo!
Trống trong trường vang ra ba hồi. Sĩ tử tắt câu chuyện đương nồng, ai nấy lắng tai nghe. Trên chòi bốn cổng, bốn tên đội Kim Ngô đã cất tiếng loa:
— Sĩ tử các trấn đầu đứng vào đấy để nghe tên mà vào trường.
Học trò các trấn chia rẽ nhau, người đến cổng Nam, người sang cổng Đông, kẻ chạy đến công Tây, kẻ sang cổng Bắc.
Trong khi rời bọn để sang cổng Bắc, bác Đồ Cuồng còn nói vớt một câu chuyện pha trò:
— Tôi người Sơn Tây phải đi trấn thủ Kinh Bắc, các bác ở lại mà trấn thủ trấn Đoài tôi.
Lại ba hồi trống nữa.
Trên chòi cổng đóng, tiếng loa gọi:
— Các sĩ tử Đông Đạo vào cổng Đông. Sĩ tử An Quảng vào trước, đứng lên trên. Sĩ tử Hải Dương vào sau, đứng xuống dưới.
Lại một dịp lên xuống ồn ào.
Loa lại cất lên:
— Nguyễn Thì Trung, An Bang xã, An Bang tổng, Hoành Bồ huyện, An Quảng trấn.
Một tiếng dạ ở sáu bảy miệng cùng ra. Nguyễn Thì Trung còn lúng túng với bộ lều chiếu, tráp tên người nhà trao lại. Trên chòi tiếng loa lại dục:
— Nguyễn Thì Trung!
Nguyễn Thì Trung luống cuống ôm đồ chạy vào, quên cả cầm giấy điểm danh và định chỗ. Tên lính Kim Ngô gọi giật lại:
— Bác khóa Trung! quên bản mệnh à?
Khóa Trung lộn lại cầm mảnh giấy vuông con tên lính Kim Ngô trao cho rồi vào, khi trên chòi tiếng loa thét:
— Phạm Mạnh Xứng! Giản Thủy xã...
— Trần Bình Chi...
— Cao Như Bình...
— Trần Trọng Tốn, Hòa Loan xã. Vĩnh Lại huyện.
Mọi người khẽ bão nhau:
— Bá đạo! bá đạo!
Cuối giờ Thân, học trò vào hết. Lều bốn vi căng ra đất san sát như bát úp.
Một ông đồ hớt hơ hớt hãi chạy lên nhà thập đạo kêu với quan Giám Trường:
- Bẩm Quan Lớn con đánh rơi mất ống quyển.
Quan giám trường, ông Tứ Thành Đề Lĩnh Bùi Thì Nhuận gắt:
— Ai sẵn người làm đầy tớ giữ ống quyển cho anh? Sao không treo nó vào cổ.
— Dạ con vẫn treo nó vào cổ. Lúc đông người tuột đi lúc nào không biết. Con xin cánh quyển [18]
— Lính Kim ngõ! trao cho nó quyển khác.
Một tên lính cầm quyển khác trao cho thầy đồ vô ý. Lúc thầy đồ cúi xuống lĩnh quyển thì, than ôi! ống quyển của thầy nó lại đập vào ngực thầy. Thì ra, trong khi chen chúc, ống quyển lẻn ra sau lưng, nhưng vẫn còn treo ở cổ. Tên lính vừa gắt vừa cười:
— Chao ôi! người mới ngợm. Sách vở mà cũng quên cũng đãng thế thì đỗ vài cái cống sinh đó.
Bẽn lẽn, thầy đồ về vi, vào khu tứ, thấy đều đóng chật ních, thầy lại lên trình quan giám trường:
— Khu con chật hết, không có chỗ cắm lều.
Quan Lớn cho phép con sang khu nhị còn rộng chỗ.
Ông Bùi Thì Nhuận nhận thấy thầy đồ quên ống quyển lúc nãy, vừa cười vừa nói:
— Đưa phiếu danh đây xem. Anh lại quên lần nữa cũng nên.
Thì quả nhiên, xem xong phiếu, ông phá lên cười:
— Tôi đọc kỹ lại phiếu danh, xin ông đồ Hồng Châu nghe cho kỹ:
— Đặng Quí Hỏa, có phải tên anh không, hay anh lại làm phiếu người khác!
— Dạ phải,
—... Đặng Quí Hòa, Hàm Giàng xã, Cẩm Giàng huyện... có đích là anh không? Hay anh đãng trí quên cả tên, cả làng, cả huyện.
— Dạ phải.
— Cẩm Giàng huyện, Hải Dương trấn, Vi Ất, khu nhị, khu nhị... Khỉ ơi là khỉ!
Thầy đồ vội hấp tấp chạy đi cắm lều.
Trời sắp tối. Tiếng vồ nện cọc lều vẫn chan chát. Sĩ tử chưa cắm hết lều.
Trời ngả dần mầu xám. Trong các lều đã le lói có ngọn lửa đèn dầu sở bằng đất Thổ Hà.
Tiếng giun dế đã bắt đầu rên rĩ như khúc nhạc âm ỷ não nùng. Trên nhà thập đạo, trên bốn chòi cổng, những ngọn bạch lạp cố hết sức phá màn tối trời đầu đông.
Trăng bắt đầu ló vừng gương bạc ở đằng đông, chiếu xuống hàng vạn cái lều khum khum san sát như bát úp trong trường thi. Dưới bóng trăng, vải lều cũ cũng như mới, đều tráng một mầu óng ánh dễ coi. Gió bấc lạnn lùng thổi lồng vào kẽ chân lều, khiến nó lung lay, bập bùng như muốn nhổ cọc mà bay. Đứng trên các chòi trông xuống, tựa như một bầy rùa vàng bạc động mui muốn bò.
Sĩ tử đã cắm xong lều, đương đề tên tuổi quê quán vào quyển và đương chép đầu bài.
Ở một khu, nghe tiếng thì thầm:
— Bá đạo thật! Gia rể nhà lão Ba Chi dùng bá đạo thật. Nó biết đầu bài trước.
— Không phải. Nếu thế thì khi nào nó lại dám lộ liễu ở giữa chỗ đông người.
— Lại còn không! Đầu bài hỏi một câu Mạnh Tử với một câu Luận Ngữ về Quản Trọng cùng bá đạo, thế mà lại chẳng là nó biết trước đầu bài hay sao?
— Có khi là ngẫu nhiêu. Biết đâu? Nó dặn rể nó chuyện khác cũng nên...
Ba hồi trống ‘‘diệt đăng’’ đã nổi. Rứt hồi trống đèn lửa trong lều tắt cả. Sĩ tự cắm đầu nghĩ, cắm đầu viết ‘‘tháu đấm’’.
Giờ tí, lác đác đã có người nộp quyển giữa lúc nhiều người còn lấy dấu ‘‘tí sơ’’ [19], còn cánh quyển.
Cuối Sửu, người nộp quyển đã hơi nhiều.
Lều cứ theo số người nộp quyển mà bớt số, Dần dần, trong trường chỉ còn vài trăm lều những sĩ tử nộp xong quyển ngủ lại trường thi và vài chục quyển chưa xong, sắp bị ngoại hạn.
Đầu mão, một hồi trống thu quyển lần cuối cùng. Lác đác khi đó có mươi mười lăm người lên nhà thập đạo nộp quyển.
Sáng ngày, lều nhổ đi hết, khu trường thi trông tựa một chiến trường-Thây nằm đầy đồng không có, nhưng có lá chuối gói bánh, giấy lộn vứt đầy trường. Máu chảy thành suối không có, nhưng có loang lổ hàng vạn miếng đất tròn tròn bị đè nhẵn, cỏ rẹt xuống. Sát khi không thấy ngất trời, nhưng ở đâu người ta cũng ngửi thấy mùi chả ba họ cơm nắm, ruốc bông [20]
☆
Một đêm kia, trời tối đã lâu, bọn lính gác trên cửa Tuyên Vũ thấy xa xa có hai chiếc đèn lồng.
— Quan nào đi đêm thế chẳng biết.
— Lại quan Ngoại Thành Đề Lĩnh đi tuần chứ gì.
— Này, anh em ạ, hình như đèn đi đến đây.
— Nói nhảm. Đèn đi đến đây làm gì!
— Kia kìa, nhìn mà xem. Chỉ còn cácb đây một quãng thôi. Đi lối này mà cứ tiến, chẳng đến cửa Tuyên Vũ này thì lên trời à?
Hai ngọn đèn lồng cứ tiến dần, đến sát cửa Tuyên Vũ, rồi có tiếng gọi:
— Ai canh trên ấy! Bảo mở cửa ra.
_ Ai?
— Mở ngay, quốc sư vào phủ có việc cần.
Bọn lính vội vàng xuống mở cửa.
Võng quan Quốc Sư Nguyễn Hoãn đi vào khỏi, cửa đóng rồi, lũ cai đội lính canh mới bàn tán mảnh cùng nhau.
Quốc Sư đương ở trường thi mà đêm bỏ trường thi vào phủ, tất có việc gì quan trọng lắm. Hay là học trò định phá trường?
— Hay họ phá rồi?
— Không phải, nếu thế thì quan Đề điệu, Giám trường về cũng được, việc gì Quốc Sư phải thân đến hầu Chúa thượng.
Chúa Trịnh đương ở nội tẩm, thấy tên tiểu hoàng môn [21] vào bảo có Quốc Sư xin vào ra mắt, hiện đương chờ lệnh ở Thảo Đường, liền ra lệnh đòi vào ngay hỏi:
— Đương đêm Quốc Sư đến chỉ giáo, chắc có việc gì quan trọng lắm.
— Thần phụng mệnh làm trường quan, kén chọn nhân tài...
Không để Nguyễn Hoãn nói nốt, Chúa cắt lời:
— Quốc Sư đến vì việc trường thi?
— Chính vậy.
— Có việc gì quan trọng?
— Có một quyển thần không biết nên lấy hay nên bỏ. Kể văn thì hay, lời lẻ cứng cáp, nhưng...
- Nhưng, làm sao?
— Nhưng lấy thì e... khuê giốc quá [22].
— Chi mà khuê giốc?
— Đầu bài ra về đoạn ấy... mà ở quyển này, tên học trò công nhiên dương nghĩa ‘‘bất tôn Chu’’, thần e... lộ liễu quá.
— Khanh có hồi phách lại để xem tên không?
— Bẩm có.
— Khanh có cho ta xem quyển ấy không.
Thần có mang vào đây trình ngự lãm.
Nguyễn Hoãn lấy trong tay áo ra một quyển thi đưa cho Chúa.
Xem hết một lượt, Chúa Trịnh nói:
— Khanh tạm lui ra Thảo Đường nghỉ. Khi nào ta nghĩ xong, thì ta cho triệu.
Nguyễn Hoãn vái rồi lui ra. Chưa xuống hết bực thềm, Tĩnh Đô Vương gọi giật lại.
— Ta nghĩ được rồi. Ta quyết rồi. Khanh đánh hỏng quyển ấy đi.
Nguyễn Hoãn hỏi:
— Chúa thượng còn cần truyền gì thần nữa không.
— Không. Khanh lui về trường thi ngay.
Nguyễn Hoãn chưa xuống hết thềm thì lần thứ hai, Tĩnh Đô Vương lại gọi lại.
— Nội các khảo quan, có ai biết quyển ấy không?
— Bẩm không.
— Thôi được. Khanh ra.
Nguyễn Hoãn ra rồi, Tĩnh Đô Vương ngồi trầm ngâm giờ lâu, rồi lại giơ quyển bài ra đọc lại.
Văn bài thế nào mà Quốc Sư cùng nhà Chúa phải để ý đến thế, độc giả chắc có người muốn biết. Dưới đây là bản lược dịch bài văn lạ lùng ấy. Tước bỏ những đoạn khai mào và đóng bài lề lối, bài văn đại khái ý như sau đây:
‘‘Bốn chữ vương đạo bá đạo là mấy tiếng thường dùng của nhà nho ta. Trên từ việc đế vương chinh phạt, dưới đến việc chữa bệnh, đánh bài, chỗ nào người ta cũng tha bốn chữ ấy vào.
‘‘Nói đến vua chúa dùng vương đạo thì Thành Thang, Chu Vũ ; nói đến vua chúa theo bá đạo thì Tề Hoan, Tấn Văn. Đánh bài, tỉ như đánh tổ tôm, cứ thuận ăn thuận đánh, cứ đánh đúng lề lối là vương đạo. Nếu lựa quân đánh sói cánh dưới, ăn kìm, đánh moi, hoặc, tệ hơn nữa, tráo bài hút nọc là lối chơi bá đạo - Đến cắt thuốc chữa bệnh mà cũng có vương bá ở trong, cái đó mới kỳ hơn nữa! Thuốc cắt những vị chính trong sách thuốc, như sâm; hoài, linh, thảo, xuyên, qui, thục, thược... là đơn vương đạo. Cắt những vị thuốc ngang như thủy ngân ban miêu, rau má, lá bạc thau... là đơn bá đạo.
‘‘Tóm lại, theo cái nghĩa người đời đã định từ trước đến giờ thi vương đạo cũng như chính đạo, mà bá đạo tựa như tà đạo. Định nghĩa như thế là hàm hồ quá mà oan cho người thiên cổ.
« Thế nào là vương đạo và bá đạo?
‘‘Theo như Mạnh tử: ‘‘... lấy sức mạnh giả nhân là bá ; lấy đức làm việc nhân là vương’’.
‘‘ Mạnh tử là người day tay mắm miệng nhất về hai chữ vương, bá. Ngay ở thiên đáp lời Lương Huệ Vương, thầy đã nói như đấm vào họng người ta về chữ lợi: ‘‘ Nhà vua cần gì nói lợi, chỉ nhân nghĩa mà thôi’’.
Hỏi việc Tề Hoàn, Tấn Văn, thầy bảo ‘‘Đồ đệ thầy Trọng Ni không nói việc vua Hoàn, vua Văn... Tôi nói chuyện vương đạo thay vào, cái đó nên chăng?’’
‘‘ Lại khi Công tôn Sửu hỏi thầy rằng: ‘‘Phu tử giá có địa vị trọng yếu ở nước Tề, thì cái công như Quản Trọng, Án tử lại có thể có được chăng? Vin lời Tăng Tày, thẩy lại già mồm chê Quản Tử: Quản Trọng được vua dùng chuyên như thế, giữ quốc chánh lâu như thế, mà công nghiệp thấp như thế; mày sao lại ví ta như Quản Trọng?’’ Rồi thầy nói trời nói đất, nói từ chuyện vua Thang đến vua Vũ Định, kể một sốc thánh hiền đời cổ, nói lớn rằng, đương thời bấy giờ ‘‘làm nửa việc của cổ nhân, công phải gấp đôi?’’
‘‘Người mà Mạnh Tử rhờ làm thầy là Khổng tử, đối với Quản tử, lại có ý kiến khác hẳn:
‘‘Tử Cống hỏi: ‘‘Quản Trọng không nhận chăng? Hoàn công giết công tử Củ, đã chẳng chết theo thì chớ, lại làm tướng cho Hoàn công!’’
‘‘Thầy đáp: ‘‘Quản Trọng làm tướng vua Hoàn Công, bá chư hầu, sửa lại thiên hạ. Cho tới ngày nay dân còn chịu ơn. Không có Quản Trọng, chúng ta đều bện tócc, cài khuy bên trái (như giống Rợ Hồ) cả rồi. Quản tử há như lũ thất phu thất phụ kia, bỏ mình ở nơi khe lạch, chẳng ai biết tới đâu!’’
‘‘Thánh vậy thay, đúng Chí Thành! Lời nói của ngài thật thông đạt, khác người lắm.
‘‘ Từ ngày vua U vương nhà Chu thất chính thế lực quân rợ Bắc đã bắt đầu tràn vào Trung quốc. Đến hồi vua Hoàn Công nước Tề lên ngôi, Quản Trọng làm tướng, rợ Bắc tràn vào diệt nước Vệ. Quản Trọng trong sửa quốc chính ngoài đuổi rợ Bắc, phong nước Hình, cứu nước Vệ, khiến Trung quốc thoát nạn rợ Hồ, ‘‘nước Hình được như về đất cũ, nuớc Vệ như quên nỗi bại vong’’.
‘‘Cứu được Trung quốc ra khỏi sự giầy xéo của các giống Rợ, sửa lại nước Tề đương loạn, thành trị, xếp đặt chư hầu cho có trật tự, công ấy mà thầy Mạnh nói là ‘‘công liệt như thử kỳ ti’’, thì công nào thầy mới cho là cao?
‘‘Xem ngữ ý thầy ở chương Công tôn Sửu thì dường như thầy muốn nói rằng: Ta không thèm làm đó thôi, nếu làm thì còn bằng trăm Quản Trọng. Ta có làm thì làm cái sự nghiệp vương giả kia, chứ cái sự nghiệp thấp hèn ‘‘lấy sức giả nhân’’ ta chẳng thèm làm nào.
‘‘Những kể chê người mà sự-nghiệp chưa có gì hơn người, bằng người, thường lấy một việc cao hơn tự gán cho mình. Ai có hỏi làm sao thì lại tạ khẩu: ‘‘Lúc đó một thì, nay lại một thì khác’’.
☆
‘‘Lúc đó một thì, bây giờ lại một thì khác, đó là lời nói của thầy Mạnh.
‘‘Quản tử hành bá đạo cũng là theo thì đó mà thôi!
Quản tử rằng:
‘‘... Nước mạnh nhiều thì họp mạnh đánh yếu mà đồ nghiệp bá. Nước mạnh ít thì họp yếu đánh mạnh mà đồ nghiệp vương. Nước mạnh nhiều mà bàn chuyện vương là ngu. Nước mạnh ít mà làm việc bá là mưu việc thất bại...’’
‘‘Đời Xuân thu chính là đời nước mạnh nhiều. Nhà Chu từ khi thất chính, chư hầu dần dần thoát ly quyền chính phủ trung ương, tự sửa sang lấy nước. Lúc Quản tử làm tướng nước Tề, mạnh nhất là các nước Sở, Tần, Tấn, Tề, Tống; thứ đến các nước Trịnh, Vệ, Lỗ; còn các nước Tào, Trần, Thái, Cử, Giang, Hoàng, Tùy, Yên... là nước yếu. Thế bấy giờ phải đồ bá. Trong các nước mạnh mà ngang nhiên khinh nhờn nhà Chu là nước Sở. Quản tử bèn hợp chư hầu, nên nước Sở, giúp nhà Chu để bước lên vị bá. Bá nghiệp của Quản tử, xét ra không có gì là lấy sức giả nhân cả. Còn việc gì nhân bằng cứu nòi giống Trung Hoa ra ngoài vết chân giầy xéo của Tây Nhung, Bắc Địch? Còn nhân nghĩa nào hơn việc làm cho nước Vệ mất thành còn, nước Tề nguy thành an? Quản tử tuy có giả danh giúp nhà Chu, nhưng đương thì ấy, không ‘‘hiệp thiên tử mệnh’’ thì sai khiến sao nổi chư hầu. Có sai khiến nổi chư hầu thì mới ‘‘khuông thiên hạ’’ được.
‘‘Hậu nho về sau bàn tán nát mãi, liệt hẳn ngũ bá là hạng bất nhân.
‘‘Vương học đạo học các ông Tống Nho hay đến nỗi rằng còn một nửa thiên hạ của nhà Tống hàng trăm năm bị bọn Khiết Đan, Tây Hạ giầy xéo!
«Vương học, đạo học các ông hay đến nỗi rằng còn một mảnh phía Nam Trường Giang các ông giữ không nổi, hết cống Khiết Đan, đến thờ Liêu, Kim, kết cục đến mất vào tay rợ Thát Đát.
‘‘Vương học đạo học các ông hay mà để nhà Tống đến nỗi ‘‘nhất Biện,,hị Hàng, tam Mân, tứ Quảng’’,[23]
‘‘Trộm nghĩ:
‘‘Liệt tiên vương ta,
‘‘Trên giữ tông thống cho Hoàng gia, dưới vỗ về trăm họ, công-nghiệp có thể sánh với Chu công, Y Doãn, tài đức có thể sánh với Chu Văn Thành Thang.
‘‘Vì nghĩ công nghiệp sâu dầy của đức Thái Tổ Cao hoàng đế mà chẳng nỡ để tông miếu nhà Lê không kẻ thờ cúng đó thôi, chứ thiên mệnh nhân tâm thật qui Trịnh đã lâu rồi.
‘‘Ngụy Võ đế rằng: Thiên mệnh bằng về ta thì ta làm Chu Văn Vương.
‘‘Làm Chu Văn Vưong tới nay đã cửu truyền [24] mà chưa có việc Ngụy Văn đế thụ thiện ở Hán [25]
‘‘ Liệt tiên vương ta thật quá nhún nhường vậy...’’
Tĩnh đô vương xem đi xem lại bài văn hai ba lần rồi mới lật trang bìa xem chỗ đề tên:
Trần trọng Tốn
Quán: Hải-Dương trấn, Vĩnh lai huyện, Hòa Loan tổng, Hòa Loan xã.
Phụ: Trần văn Canh ; nghiệp: nông.
Tổ phụ: Trần-văn Giáp ; nghiệp: nông.
Tằng tổ phụ: Trần văn Bính ; nghiệp, nông [26]
— Con nhà cầy ruộng mà học hành giỏi quá. Giá năm Ngọ mà ta có người này rồi, thì không có cái việc gàn dở của anh Vũ trần Thiệu [27].
Đêm hôm ấy, khuya lắm Tĩnh độ Vương mới đi nghỉ. Vừa chợp mắt đi, Vương nằm mộng thấy Vũ Trần Thiệu. Vương hỏi:
— Tiên sinh sao hoài thân đi thế?
— Vương thượng sai tôi việc ấy là bắt tôi chết. Quân sử, thần tử, thần bất tử bất trung [28]. Tôi chết thế là trọn đạo làm tôi.
— Tiên sinh vị chủ mưu mà bất trung [29] sao gọi là Khổng-đồ [30] được! Nói chi đến đạo làm tôi! Nhưng thôi, việc cũ bỏ qua. Khanh xem liệu ta có thể lên vị cửu ngủ [31] được chăng?
— Cái đó thì tùy Vượng thượng. Nhưng Vương thượng muốn lên vị cửu ngũ thi tôi xin đưa đến chỗ để lên vị ấy.
Rồi Vũ Trần Thiệu đưa Vương đến một cái lầu. Vào trong lầu, Vương thấy trên tường có treo một bức tranh vẽ một tòa cung điện bỏ hoang, trên đề bốn chữ Điện - Ấp, Vãn - Ảnh. Cạnh bức tranh ấy, một bức tranh khác cũng vẽ cảnh ấy nhưng cung điện chỉ còn tro tàn.
Vũ Trần Thiệu chỉ hai bức tranh:
— Đó, Vượng Thượng coi. Bức thứ nhất là cảnh Điện-ấp lúc xế chiều. Bức thứ hai là cảnh lâu đài cung điện Điện-ấp sau trận hỏa tai.
Chúa Trịnh nói:
— Điện-ấp là chữ Trịnh, phải không?
— Vương thượng tự hiểu lấy.. và... xin rước người lên trên thượng từng cho tới vị cửu ngũ.
Trịnh vương tay vịn cầu thang trèo lên, miệng đếm từng bực. Trèo tới bực bốn mươi mối, thang rung rinh như sắp đổ, không dám trèo nữa. Vừa toan xuống thì hốt nhiên thang gẫy, giật mình tỉnh dậy.
Chú thích:
[1] Ở nguyên văn là chữ cay đấng, tôi đổi là nguy.
[2] Tức là quan chủ khảo
[3] Đề điệu là ông quan chủ việc giám sát trật tự trong trường.
[4] Tức như bọn thơ lại
[5] Mỗi khi viết sai, muốn bỏ quyển cũ, phải lên xin quyển có dấu trường.
[6] Đến giữa Ngọ, phải xin dấu đóng vào giữa hai trang giấy vừa viết xong và đương viết giở.
[7] Tức là Thanh Hóa bây giờ. Ninh Bình xưa là Thanh Hoa ngoại trấn
[8] Vào hạt Hà Tỉnh và Quãng Bình bây giờ.
[9] Tức là chúa Trịnh Sâm. Lúc còn sống, là Tĩnh Đô Vương. Lúc chết mới tôn thụy là Thánh Tổ Thịnh Vương.
[10] Phủ Thế tử
[11] Thầy dạy học cho Thế tử.
[12] Tờ lên vua gọi là tấu, tờ lên Chúa gọi là khải.
[13] Thêm hiệu để xưng.
[14] là tước vương trên có một chữ Minh Đô Vương, bởi vậy đổi là Minh Vương.
[15] Đi thi đeo lọ nước vào trường uống. Sau chữ ấy nghĩa là đi thi và dùng một cách đùa bởn.
[16] Bố vợ, kêu là ông gia.
[17] Đồ đệ Trọng Mỗ không nói chuyện Tề Hoàn, Tấn Văn, Trọng Ni là tên tự Khổng Tử. Học trò kiêng đọc là Trọng Mỗ.
[18] Đổi quyển.
[19] Ban ngày thi thì giờ ngọ lấy đấu ‘‘nhật trung’’. Đêm thì thi đầu tí lấy đấu ‘‘tí sơ’’
[20] Thức ăn sĩ tử mang vào trường. Bài phú hing3 thi cổ có câu ‘‘ Chả ba họ cơm nắm ruốc bông, ăn một miếng nghĩ một câu, văn bài viết tháo’’.
[21] Lính hầu trong nội phủ Chúa
[22] Góc cạnh
[23] Nhà Tống trước đóng đô ở Biện, sau mất phía Bắc, lùi về đóng đô ở Hàng Châu, lần thứ ba, lần thứ tư lùi về Mân, lần thứ tư lùi về Quảng Đông cho đến mất hẳn.
[24] Truyền đến đời thứ chín.
[25] Được vua Hán nhường ngôi cho.
[26] Ngày xưa đi thi phải khai tên cha, ông và cụ, tục gọi là cung khai tam đại. [27] Năm ngọ, chúa Trịnh sai Vũ Trần Thiệu mang biểu sang nhà Thanh, xin thay nhà Lê làm vua? Trần Thiệu đến hồ Động đình đốt biểu rồi uống thuốc độc chết.
[28] Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung.
[29] Chữ Luận ngữ: vị nhân mưu nhi bất trung, nghĩa là vì người mưu mà chẳng trọn vẹn. Trịnh chủ đổi một chữ trong câu Luận ngữ cho câu nói thích hợp hơn.
[30] Học trò Khổng tử.
[31] Tức là vị Hoàng đế