← Quay lại trang sách

Phần Thứ Nhất.

I

Bernard tự nhủ:

- Bây giờ nghe như có tiếng bước chân ngoài hành lang thì phải.

Hắn ngẩng đầu nghe ngóng. Không phải: cha và anh hắn ở lại tòa án, mẹ hắn bận đi thăm viếng, chị gái đi dự hòa nhạc; còn thằng út, thằng Caloub, thì trường học đã cầm chân hắn mỗi ngày sau khi bãi trường. Bernard Profitendieu ở nhà hì hục học thi tú tài, còn ba tuần lễ trước mặt hắn nữa thôi. Gia đình tôn trọng sự tịch mịch của hắn, ngạ quỷ thì không. Bernard đã cởi áo veston mặc ngoài mà vẫn khó thở. Từ khung cửa sổ mở ra đường, chỉ có sức nóng ùa vào. Trán hắn nhễ nhại. Một giọt mồ hôi chảy xuống sống mũi, và rơi xuống lá thư hắn đang cầm nơi tay. Hắn nghĩ: “Diễn trò nước mắt rồi đây. Nhưng thà chảy mồ hôi còn hơn là chảy nước mắt.”

Phải, ngày tháng đã rành rành. Không nghi ngờ vào đâu được: thư liên quan đến Bernard, chính hắn. Thư gửi cho mẹ hắn, một lá thư tình mười bảy năm xưa, không kí tên.

- Chữ cái này là nghĩa gì? Chữ V, cũng có thể là N lắm chứ... Có nên hỏi mẹ không?... Mình hằng tin tưởng ở sự biết điều của mẹ. Mình tự do tưởng tượng một ông hoàng nào đó. Còn hơn nếu vỡ lẽ mình là con của một tên ma cô nào thì sao? Không biết cha đẻ là ai, mình mới đỡ sợ phải giống ông ta. Mọi cuộc điều tra đều sinh trói buộc. Đáng kể chăng là sự nhẹ nhõm. Đừng đào sâu. Hôm nay thế cũng đủ cho ta rồi.

Bernard gấp thư lại. Thư cùng một khổ giấy với mười hai lá thư khác trong gói. Một dải màu hồng buộc lại tất cả mà hắn không cần phải tháo ra, hắn chuồi thư vào đó để thắt cả xấp lại như cũ. Hắn đặt xấp thư vào chiếc hộp nhỏ rồi đặt chiếc hộp vào ngăn kéo bàn. Ngăn kéo không phải mở ra, nó đã tiết lộ bí mật bằng ngỏ trên. Bernard chắp nối những miếng rời của mặt gỗ đỡ tấm mã não phủ lên. Hắn nhẹ tay thận trọng, sập tấm mã não xuống, đặt lại lên trên đó hai giá đèn bằng pha lê cùng với chiếc đồng hồ kềnh càng mà hắn vừa mới đem ra sửa chơi.

Đồng hồ gõ bốn tiếng. Hắn vặn lại cho đúng giờ.

- Hai cha con ông dự thẩm và ông luật sư không về trước sáu giờ đâu. Ta đủ thì giờ. Thế nào cũng phải cho ông dự thẩm về thấy trên bàn tờ thư đẹp đẽ trong đó ta sẽ nói ý nghĩa sự ra đi của ta. Nhưng trước khi viết, mình thấy rất cần giải thông tư tưởng một chút đã và đi tìm gặp thằng bạn Olivier để cầm chắc một chỗ đậu, ít nữa là tạm thời. Olivier bạn thiết của ta ơi, đã đến lúc ta thử lửa tính chiều lòng của cậu và để cho cậu chứng tỏ giá trị của cậu với ta. Cái đẹp trong tình bạn của hai đứa chính là từ trước tới nay chúng ta chưa hề lợi dụng nhau. Nào! Yêu cầu giúp đỡ một việc ngộ nghĩnh chắc không đến nỗi tẻ nhạt. Phiền nỗi Olivier không ở một mình. Mặc, ta sẽ tìm cách tách riêng hắn ra. Ta muốn cho hắn hoảng kinh vì sự trầm tĩnh của ta. Chính trong cõi bất thường mình mới cảm thấy mình tự nhiên hơn hết.

Con đường T..., nơi Bernard Profitendieu sống cho tới hôm nay ở gần sát vườn Luxembourg. Tại đây, cạnh hồ nước Médicis, trên lối đi nhìn xuống hồ nước, mấy đứa bạn hắn có thói quen hẹn nhau mỗi ngày thứ tư từ bốn đến sáu giờ, chuyện trò về nghệ thuật, triết học, thể thao, chính trị và văn học, Bernard bước đi rất nhanh, nhưng khi qua khỏi cổng vườn, hắn nhác thấy Olivier Molinier và lập tức chậm chân lại.

Cuộc hội họp hôm đó đông đảo hơn lệ thường, có lẽ vì đẹp trời. Có vài đứa nhập bọn mà Bernard chưa quen. Mỗi đứa trong bọn trẻ này, hễ đứng trước cả bọn, là đóng một vai trò và hầu như mất hết tự nhiên.

Olivier bừng đỏ mặt khi thấy Bernard đi tới và, khá đột ngột, hắn bỏ người thiếu nữ đang chuyện trò, lảng ra xa. Bernard là bạn thân thiết nhất của hắn, vì thế Olivier vô cùng thận trọng không làm ra vẻ gì là kiếm tìm hắn; đôi khi hắn còn vờ vĩnh không trông thấy Bernard nữa là khác.

Trước khi tới với Olivier, Bernard phải đối đầu với nhiều nhóm, và chính vì cũng giả vờ không tìm kiếm Olivier nên Bernard còn chần chờ.

Bốn đứa bạn trong bọn đang đứng quanh một đứa nhỏ người để râu đeo kính xấp xỉ lớn tuổi hơn mấy đứa kia, đang cầm cuốn sách. Hắn tên Dhurmer. Dhurmer ngỏ lời với một đứa trong bọn một cách đặc biệt hơn, nhưng lấy làm sung sướng rõ rệt vì được cả bọn lắng nghe. Dhurmer nói:

- Mày nghĩ coi. Tao gắng tới trang ba mươi vẫn không thấy màu sắc gì hết, một chữ để mô tả cũng không. Chàng ta nói về một người đàn bà, áo đỏ hay xanh tao cũng chẳng hay chứ đừng nói gì. Tao, hễ không có màu sắc thì giản dị lắm, tao chẳng nom thấy gì.

Và vì cần đại ngôn, nhất là vì hắn cảm thấy mình bị coi như mất bớt vẻ chững chạc, hắn nhấn mạnh:

- Tuyệt đối không thấy gì hết.

Bernard không để tai tới thằng khoa ngôn nữa, hắn xét thấy không nên bỏ đi quá vội, nhưng hắn đã bắt đầu nghe bọn kia cãi cọ ở sau lưng và Olivier trở lại nhập bọn sau khi bỏ rơi người thiếu nữ; một đứa ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo Action Française.

Olivier Molinier, giữa bọn chúng, sao trông trịnh trọng thế! Hắn vẫn là một trong mấy đứa nhỏ tuổi nhất. Khuôn mặt còn trẻ thơ và ánh mắt của hắn biểu lộ sự sơ khai của tư tưởng. Hắn dễ đỏ mặt. Tính tình đằm thắm. Dù hắn tỏ ra hòa nhã đối với mọi người, không hiểu một sự dè dặt khó hiểu nào đó, một sự e ấp nào đó vẫn ngăn cách hắn với bạn bè. Hắn khổ tâm vì điều đó. Không có Bernard thì hắn đã khổ hơn.

Giống như Bernard lúc này, Molinier ghé vào từng nhóm một lát vì nể bạn, nhưng những điều hắn nghe, không có gì khiến hắn lưu tâm.

Hắn nhòm qua vai thằng đọc báo. Bernard, không quay lại, nghe Olivier nói:

- Mày không nên đọc báo, nó làm mày ứ huyết.

Và tên kia đáp trả lại chanh chua:

- Còn mày, hễ ai nói tới Maurras(1) là mày xanh mặt.

Tiếp theo, một tên thứ ba, giọng giễu, hỏi:

- Bộ mày thích những bài của Maurras sao?

Và tên thứ nhất đáp:

- Chán ngấy, nhưng tao thấy Maurras có lí.

Kế đó, một tên thứ tư mà Bernard không nhận ra giọng:

- Còn cái gì không làm mày ngấy, mày đều tưởng là thiếu bề sâu?

Tên thứ nhất cãi lại:

- Mày tưởng chỉ cần ngốc là chọc cười được ư?

- Lại đây! - Bernard vừa nói nhỏ giọng, vừa đột ngột nắm lấy tay Olivier. Hắn kéo Olivier đi ra xa mấy bước. - Trả lời mau, mình có chuyện gấp. Cậu có nói với mình là cậu không ngủ cùng một tầng lầu với hai ông bà, đúng không?

- Mình đã chỉ cửa phòng mình cho cậu rồi, cửa phòng mở ra ngay cầu thang, đi một nửa tầng lầu là lên nhà chính.

- Cậu có nói em cậu ngủ chung với cậu?

- Phải, thằng Georges.

- Cậu và Georges không thôi?

- Ừ.

- Thằng nhỏ biết kín miệng không?

- Nếu cần. Tại sao thế?

- Là thế này. Mình đã bỏ nhà, hay nói đúng hơn, tối hôm nay mình sẽ bỏ nhà. Mình chưa biết đi đâu. Cậu có thể chứa mình một đêm không?

Olivier mặt tái bệch hẳn ra. Chấn động quá mãnh liệt, hắn không đủ sức nhìn Bernard. Olivier bảo:

- Được, nhưng đừng đến trước mười một giờ. Mỗi đêm má xuống thăm hỏi trước khi đi ngủ rồi khóa cửa.

- Thế thì làm sao...

Olivier cười:

- Mình có chìa khóa khác. Cậu sẽ gõ cửa khe khẽ để khỏi đánh thức Georges nếu hắn ngủ.

- Liệu bác gác cổng có để mình vào không?

- Mình sẽ báo cho bác biết. Yên trí! Mình với bác ăn ý nhau lắm. Chính bác cho mình cái chìa khóa kia đấy. Hẹn gặp lại.

Hai người từ giã không bắt tay nhau. Và trong khi Bernard bỏ đi, nghiền ngẫm lá thư muốn viết mà ông dự thẩm sẽ phải bắt gặp khi trở về, thì Olivier, vốn không muốn người ta bắt gặp mình đứng riêng với Bernard, nên tìm tới Lucien Bercail mà bọn kia để cho đứng hơi riêng rời. Nếu không yêu Bernard nhất thì Olivier đã yêu thích Lucien lắm đấy. Bernard bạo gan bao nhiêu thì Lucien rụt rè bấy nhiêu. Ai nấy cảm thấy Lucien yếu ớt, dường như hắn chỉ sống bằng trái tim và trí tuệ. Hắn ít khi có can đảm sấn sổ tới, nhưng hắn đã mừng ra mặt ngay khi thấy Oilivier lại gần. Lucien có làm thơ chăng, mọi người đều nghi hoặc; tuy nhiên thiết tưởng Olivier là kẻ độc nhất được Lucien thổ lộ dự định. Cả hai lần ra mé khuôn viên.

Lucien bảo:

- Tôi muốn làm sao thuật lại, không phải chuyện một nhân vật, nhưng câu chuyện về một địa điểm, - đấy, chẳng hạn câu chuyện một lối đi công viên, như lối đi này, thuật lại những gì xảy ra - từ sáng tới chiều. Trước tiên bọn giữ em đến, rồi bọn vú em đeo những tấm dải... Không, không hẳn... trước tiên là người toàn màu xám tất cả, không phân biệt đàn ông đàn bà tuổi tác, để quét dọn lối đi, tưới cỏ, thay hoa, tóm lại để sửa soạn sân khấu và trang trí trước khi cổng mở, anh hiểu chứ? Bấy giờ bọn vú em vào. Bọn bé con vọc cát cãi cọ, bọn giữ em tát bọn nhỏ. Kế đó là các lớp học nhỏ bãi ra... thêm bọn đàn bà thợ thuyền nữa. Có những kẻ nghèo khó đến ngồi ăn trên ghế. Sau đó là bọn thanh niên kiếm tìm nhau, bọn khác trốn tránh nhau, bọn nữa đứng ngồi riêng, tư lự. Và kế đó là dân chúng, vào lúc nhạc trỗi lên và lúc các nhà hàng đóng cửa. Bọn học sinh, sinh viên như hiện giờ. Buổi chiều, bọn tình nhân hôn nhau, có những kẻ chia tay khóc lóc. Cuối cùng, hết ngày, một cặp người già... Và thình lình, một hồi trống khua: đóng cổng. Mọi người đi ra. Kịch chấm dứt. Anh hiểu chứ: một cái gì đó cho mình cái cảm giác thôi hết rồi của mọi thứ, cái cảm giác của sự chết... nhưng vẫn không nói tới cái chết, cố nhiên.

- Phải, tôi hiểu lắm, - Olivier đáp, hắn đang nghĩ tới Bernard chứ có nghe lọt chữ nào đâu.

Lucien hăng say nói tiếp:

- Chưa hết, chưa hết! Tôi muốn, trong phần coi như màn vĩ thanh, chứng minh chính cái lối đi này đây, ban đêm, sau khi mọi người bỏ đi hết rồi, thì thanh vắng, đẹp hơn ban ngày nhiều; trong cảnh im lặng mênh mông, mọi tiếng động trong thiên nhiên xuất thần: tiếng vòi nước, tiếng gió trong lá, và tiếng lảnh lót của con chim đêm. Ban đầu tôi nghĩ tới chuyện thêm vào đó những bóng tối, có lẽ thêm những bức tượng... nhưng tôi cho rằng như thế lại nhạt nhẽo hơn; cậu nghĩ sao?

Olivier phản đối hờ hững:

- Không, đừng thêm tượng vào, đừng thêm tượng vào.

Tiếp đó, dưới cái nhìn buồn bã của Lucien, Olivier sốt sắng lớn tiếng:

- Ờ, thành công được thì tuyệt đấy, cậu ạ.

* * *

(1) Charles Maurras (1868-1952) là nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình người Pháp. Ông là người sáng lập và nhà tư tưởng của tờ Action Française.

II

Trong thư từ của Poussin, tuyệt không có dấu vết một bổn phận nào của ông đối với cha mẹ. Sau đó không bao giờ ông ghi lại sự tiếc nuối sống xa cha mẹ. Tự ý bỏ đi sống ở La Mã, ông bỏ mất mọi ý muốn hồi hương, có thể nói mọi kỉ niệm luôn nữa.

PAUL DESJARDINS (Poussin)

Ông Profitendieu nóng lòng về nhà và nhận thấy ông bạn đồng nghiệp Molinier, hiện cùng sánh vai dọc đại lộ Saint-Germain, bước đi chậm quá. Ông Albéric Profitendieu vừa trải qua một ngày ở tòa án đặc biệt bề bộn: ông lấy làm lo lắng vì cảm thấy nằng nặng thế nào bên hông phải; ông mệt gan, gan của ông hơi dễ đau. Ông liên tưởng sẽ được tắm lát nữa, không có gì giúp ông nghỉ ngơi, rũ sạch âu lo trong ngày cho bằng tắm một trận tới nơi tới chốn; nghĩ trước tới tắm nên ông không dùng cữ chiều, cho rằng tắm, dù là nước ấm, với cái dạ dày trống rỗng mới thật là chu đáo. Đúng ra, đây có lẽ chỉ là một định kiến; nhưng định kiến là trụ cột của văn hóa.

Ông Oscar Molinier cố hết sức rảo bước theo ông Profitendieu, nhưng ông thấp người hơn nhiều và bắp thịt đùi kém nảy nở; hơn thế nữa, tim hơi bị màng mỡ dễ cho ông thở dốc. Ông Profitendieu, còn tráng kiện ở tuổi năm mươi, ngực thong dong và dáng đi nhanh nhẹn, có thể bước vượt bỏ ông bạn như không, nhưng ông là người rất giữ gìn thể thống; đồng nghiệp của ông cao niên hơn, kì cựu hơn trong nghề: ông phải kính trọng. Ông còn cần được người đời bỏ qua cho về khoản tài sản của ông, một tài sản kếch xù kể từ buổi cha mẹ vợ mất đi, trong khi đó của cải ông Molinier đều nằm trong lương bổng chủ tịch đoàn, lương bổng không đáng chi, và không tương xứng với địa vị cao cả mà ông chấp chưởng một cách quá uy thế nên khỏa lấp được sự kém cỏi của đồng lương. Ông Profitendieu sốt ruột mà dằn nén; ông quay nhìn ông Molinier và thấy ông này thấm chặm mồ hôi; rốt cục lại những điều ông Molinier nói khiến ông quan tâm vô cùng; nhưng quan điểm hai người không giống nhau và cuộc tranh luận bừng bốc lên.

Ông Molinier bảo:

- Anh cho dò xét trong nhà đi. Góp nhặt những lời tường trình của người gác cổng với con giúp việc giả mạo, thế là được. Nhưng anh hãy đề phòng, chỉ cần anh đẩy cuộc điều tra đi xa quá một chút là công chuyện nó vuột khỏi tay anh... Tôi muốn nói nó dễ bề lôi cuốn anh quá xa không như anh dự tưởng lúc ban đầu.

- Tính liệu như thế có dính líu gì tới luật pháp đâu.

- Nào, nào, anh với tôi, chúng mình đều rõ luật pháp phải như thế nào, và luật pháp nó như thế nào. Chúng ta chọn cái khả quan nhất mà làm, đồng ý; nhưng mà, dẫu làm hoàn hảo thế nào, chúng ta đi đến sự phiên phiến là cùng. Trường hợp làm anh bận tâm hôm nay lại là một trường hợp tế nhị đặc biệt: trong mười lăm tên bị cáo hoặc mai đây sẽ thành bị cáo do một tiếng nói của anh, hết chín tên là vị thành niên. Và có mấy đứa, anh biết đấy, là con cái những gia đình tăm tiếng. Cho nên trong lúc này tôi coi mọi cái trát tống giam nhỏ nhặt đều là vụng về lộ liễu. Báo chí của đảng phái sẽ nắm lấy nội vụ, thế là anh mở cửa cho đủ thứ tống tiền, bôi nhọ. Anh sẽ không làm gì nổi: dù anh thận trọng bao nhiêu, làm sao anh ngăn ngừa người ta nêu tên tuổi này tên tuổi kia... Tôi không có tư cách khuyên nhủ anh, và anh biết tôi muốn được anh khuyên nhủ hơn nhiều, anh là người mà tôi luôn luôn nhìn nhận và ngưỡng vọng cái cao kiến, minh mẫn, trực tính... Nhưng nếu ở địa vị anh, tôi sẽ hành động thế này: tôi tìm cách chấm dứt vụ xì căng đan ghê tởm này bằng cách tóm cổ bốn năm đứa chủ mưu... Phải, tôi biết chúng nó khó bắt, nhưng khổ nỗi, đó là nghề nghiệp chúng mình. Tôi sẽ ra lệnh niêm phong chỗ ở, niêm phong cái sân khấu những tấn tuồng kia đi, và dàn xếp sao để báo cho bọn con trời ấy biết, nhẹ nhàng, bí mật, và chỉ cốt sao ngăn ngừa tái phạm. À! Chẳng hạn như anh cứ cho bắt nhốt bọn phụ nữ; tôi sẵn sàng chấp thuận điều này; hình như ở đây mình phải đối phó với một vài thứ người ngợm hư hỏng không dò nổi và cần thanh trừng bọn đó trong xã hội. Tuy nhiên, một lần nữa, anh đừng bắt mấy thằng nhỏ; dọa cho chúng sợ là được rồi, kế đó chụp mũ chúng nó bằng cái nhãn hiệu “hành động không suy tính” và để cho chúng kinh ngạc một thời gian lâu vì chỉ bị một vố hết hồn không thôi. Anh nghĩ coi, ba đứa trong bọn chưa tới mười bốn tuổi và cha mẹ chúng chắc hẳn xem chúng như thiên thần trong trắng hồn nhiên. Nhưng, nói cho ngay, coi nào, nói giữa anh với tôi thôi, tuổi đó lẽ nào mình đã nghĩ tới đàn bà?

Ông đứng lại, hụt hơi vì nói thao thao hơn là vì đi, và sẵn nắm tay áo ông Profitendieu, buộc ông này dừng theo. Ông lại nói:

- Nói cách khác, ngày xưa nếu chúng mình có tư tưởng chuyện đó, thì nghĩa là tư tưởng một cách lí tưởng, bí nhiệm, sùng mộ, có thể nói như thế. Bọn nhỏ hôm nay, anh thấy chưa, chúng nó không còn lí tưởng... À, con cái anh thế nào? Cố nhiên, những điều này không phải tôi nói cho mấy đứa con anh. Tôi biết rằng với chúng nó, có anh coi ngó, sợ gì những sự lầm lỗi như thế kia.

Quả tình từ trước tới nay ông Profitendieu chỉ một nước tự hào vì con cái, nhưng không phải ông ảo tưởng: giáo dục có hay ho nhất đời đi nữa cũng không chế ngự những bản năng xấu; nhờ trời, lũ con ông không có bản năng xấu, có lẽ bọn con ông Molinier cũng thế; vì thế cả hai ông mặc nhiên khỏi lo những giao du xấu và đọc sách xấu. Nhưng cấm đoán những cái mình không ngăn ngừa nổi thì cấm đoán làm gì? Những cuốn sách cấm đọc, đứa trẻ đọc lén. Ông, đường lối của ông giản dị vô cùng: sách nào xấu, ông không cấm đọc; nhưng ông liệu thế nào cho bầy trẻ không ham đọc sách đó. Còn vấn đề bàn tới kia, ông sẽ suy nghĩ thêm và hứa, dù sao đi nữa, nếu có làm gì thì thông báo cho ông Molinier hay. Duy có việc kiểm soát kín đáo thì vẫn tiếp tục vì vụ tệ hại kéo dài đã ba tháng thì có thể cho nó kéo dài vài hôm hay vài tuần nữa vậy. Hơn nữa, vụ nghỉ hè sẽ lãnh phần phân tán bọn du đãng. Tạm biệt.

Bây giờ ông Profitendieu mới có thể bước vội.

Vừa về đến, ông đã chạy vào phòng tắm và mở mấy vòi nước trong bể. Antoine vốn mong ngóng ông chủ nãy giờ nên lại hóa ra giáp mặt ông nơi hành lang.

Lão bộc trung thành này ở trong gia đình mười lăm năm nay; lão đã chứng kiến bọn nhỏ lớn lên. Lão thấy được lắm chuyện; hồ nghi lắm chuyện khác, nhưng làm mặt không để ý những gì người ta muốn giấu giếm lão. Bernard không khỏi có thiện cảm với Antoine. Hắn không muốn ra đi mà không nói lời từ biệt lão. Và có thể rằng vì giận gia đình, hắn thích thổ lộ cho người giúp việc hèn mọn sự ra đi của hắn mà những người thân cận lại không hay; nhưng phải nói rằng khi Bernard phân phô thì không có ai ở nhà. Vả lại, Bernard khó lòng từ biệt mà người nhà khỏi kiếm cách níu giữ hắn lại. Hắn ngại giải thích. Với Antoine thì hắn có thể nói vỏn vẹn: “Tôi đi đây”. Nhưng vừa nói hắn vừa chia tay một cách trịnh trọng đến nỗi lão bộc kinh ngạc.

- Cậu không về xơi cơm sao?

- Về ngủ cũng không, bộc ạ.

Và vì Antonie ngơ ngác không biết phải hiểu như thế nào, không biết có nên gặng hỏi không, Bernard lặp lại đầy dụng ý hơn: “Tôi đi đây”, rồi nói thêm:

- Tôi có để lại lá thư trên bàn của... - hắn không thể quyết định nói: “của bố” nên sửa lại - ở trên bàn phòng làm việc. Chào bộc nhé.

Bắt tay Antoine, hắn xúc động như thể đang cùng một lúc giã từ quá khứ; hắn lặp lại lời chào thật nhanh, rồi bỏ đi, không để cho tiếng nấc lớn kịp dâng lên cổ họng vỡ òa ra.

Antoine kinh nghi không hiểu để cho hắn ra đi thế kia chẳng phải là một trọng trách hay sao - nhưng làm sao cầm giữ hắn lại được?

Dù sự ra đi của Bernard đối với mọi người trong gia đình là một biến cố bất ngờ, quái gở - Antoine vẫn cảm thấy thế - nhưng vai trò lão bộc vẹn toàn của lão là không lộ vẻ kinh ngạc. Lão không cần biết rằng ông Profitendieu chẳng hay. Có lẽ lão chỉ có thể hỏi hắn: “Ông lớn có biết cậu đi không?”; nhưng như vậy lão mất hết lợi thế và chẳng thích thú gì. Nếu lão có nóng lòng trông chờ ông chủ là để rủ rỉ vào tai ông bằng giọng bình thường, kính nhường và giống như một lời thông báo đơn giản Bernard nhờ lão chuyển lại, rủ rỉ câu nói mà lão đã ngâm nga soạn sửa:

- Thưa trước khi đi, cậu Bernard có để lại một lá thư cho ông lớn trong phòng làm việc.

Câu quá giản dị dễ trôi qua không được chú ý; lão hoài công tìm kiếm một điều gì đó lớn lao hơn và tự nhiên, mà vẫn không tìm thấy được gì. Nhưng vì chưa hề xảy ra chuyện Bernard vắng nhà, nên ông Profitendieu mà Antoine quan sát qua khóe mắt, không sao nén nổi giật mình:

- Sao? Trước khi...

Ông trấn tĩnh lại ngay, ông không nên để lộ sự kinh ngạc trước mắt một kẻ bề dưới; ý nghĩ mình là kẻ bề trên không rời ông phân li. Ông dứt lời bằng một giọng thật bình thản, giọng chủ nhân thật sự:

- Được rồi.

Và trong khi đi vào phòng:

- Bộc bảo thư để đâu?

- Thưa, ở trên bàn làm việc của ông lớn.

Ông Profitendieu, vừa vào phòng, quả nhiên trông thấy một bao thư đặt lồ lộ trước mặt chiếc ghế phô tơi, nơi ông quen ngồi viết; nhưng Antoine đâu đã dời gót nhanh thế, và ông Profitendieu đọc chưa được hai dòng thư thì đã nghe gõ cửa.

- Tôi quên thưa với ông lớn là có hai người đang chờ ở phòng khách nhỏ.

- Người nào thế?

- Thưa tôi không rõ.

- Họ đi với nhau?

- Hình như không ạ.

- Họ muốn gì ở tôi?

- Thưa không rõ. Họ mong yết kiến ông lớn.

Ông Profitendieu cảm thấy mất kiên nhẫn.

- Tôi đã bảo và nhắc đi nhắc lại là tôi không muốn ai đến đây quấy rầy tôi - nhất là giờ này; tôi có ngày giờ tiếp khách tòa... Tại sao bộc đưa họ vào?

- Cả hai người đều bảo có việc cần kíp trình bày với ông lớn.

- Họ đến lâu chưa?

- Gần một tiếng đồng hồ rồi ạ.

Ông Profitendieu đi vài bước trong phòng và quệt tay lên trán; tay kia ông cầm lá thư của Bernard. Antoine đứng trước cửa, đường hoàng, không lộ vẻ gì hết. Cuối cùng lão thích thú thấy ông dự thẩm mất bình tĩnh và lần đầu tiên trong đời nghe ông giậm chân quát tháo:

- Để tôi yên coi nào! Để tôi yên! Bảo họ tôi bận. Bảo hộ hôm khác đến.

Antoine vừa ra khỏi là ông Profitendieu chạy ra cửa:

- Antoine! Antoine!... Khóa nước trong bể lại luôn.

Thế mà định tắm đấy! Ông tiến tới bên cửa sổ và đọc:

Thưa ông,

Chiều hôm nay sau khi tình cờ phát giác được, tôi đã hiểu ra rằng tôi có bổn phận không còn coi ông như cha, và đó là điều nhẹ nhõm vô cùng đối với tôi. Tự cảm thấy quá ít yêu ông, lâu nay tôi ngỡ mình là thằng con lạc giống; thà biết chưa từng là con ông. Có lẽ ông mong mỏi tôi phải biết ơn ông vì đã được ông đối xử như con, nhưng trước hết tôi luôn luôn cảm thấy giữa các con ông và tôi một sự cách biệt trong lối đối xử, và về khoản này, tất cả những gì ông làm, tôi hiểu ông cũng khá nên tôi biết rằng sở dĩ thế chính là vì ông sợ xì căng đan, chính là để che đậy một tình cảnh không lấy chi làm thơm danh cho ông lắm - và sau hết là vì ông không thể làm sao khác. Thà ra đi không nhìn lại mẹ tôi, vì vĩnh biệt sợ tôi mềm lòng chăng và cũng vì trước mặt tôi, mẹ có thể tự cảm thấy lâm vào cảnh ngộ lỡ làng - điều này gây khó nghĩ cho tôi. Tôi không chắc tình của mẹ đối với tôi đã nồng nàn đến độ, bởi tôi thường hay ở nội trú, mẹ ít có thì giờ biết đến tôi, và bởi hình ảnh tôi không ngớt nhắc nhở mẹ một cái gì đó trong đời mà người mong bôi xóa đi, nên chi tôi nghĩ rằng người sẽ thấy tôi ra đi mà nhẹ lòng vừa ý. Nếu ông có can đảm, xin hãy nói với người rằng tôi không giận người đã sinh tôi làm đứa con hoang, trái lại là khác, tôi thích thế này còn hơn là ông sinh ra tôi. (Tôi xin lỗi nói lên điều đó, tôi không định viết cho ông những lời sỉ nhục, nhưng những điều tôi nói lên đây sẽ giúp ông khinh rẻ tôi, và điều này sẽ làm ông thoải mái).

Nếu ông muốn tôi giữ im lặng về những lí do thầm kín khiến tôi bỏ nhà ra đi, tôi xin ông đừng tìm cách bắt tôi trở về. Quyết định xa ông của tôi rất quyết liệt. Tôi không biết sự nuôi dưỡng tôi cho tới ngày hôm nay bắt ông tốn kém là bao, tôi có thể cam thân sống bám vào ông chừng nào tôi còn mờ mịt, nhưng điều khỏi nói, từ nay về sau, tôi muốn không thụ nhận gì nữa của ông. Ý nghĩ nợ nần gì của ông, đối với tôi, đều khó chấp nhận, và thiết tưởng, nếu bắt đầu lại tất cả tôi thà chết đói hơn là ngồi chung bàn với ông. May hình như tôi nhớ có nghe nói rằng mẹ tôi, khi kết hôn với ông, là người giàu có hơn ông. Do đó tôi có quyền nghĩ rằng tôi sống là chỉ do mẹ tôi đài thọ. Tôi cảm ơn mẹ, miễn cho mẹ những khoản còn lại, và xin người quên tôi. Ông sẽ tìm cách giải thích sự ra đi của tôi với những ai lỡ ra lấy đó làm ngạc nhiên. Tôi cho phép ông tấn công tôi (nhưng tôi thừa biết ông sẽ không chờ tôi cho phép mới làm).

Tôi kí bằng cái tên họ buồn cười vốn của ông, tôi muốn có phép gì trả lại nó cho ông, tên mà tôi chưa kịp làm dơ.

BERNARD PROFITENDIEU

T.B: Tôi để lại ở nhà ông mọi vật dụng của tôi, chúng thuộc về Caloub thì có lẽ chính đáng hơn, mong như thế giùm ông.

Ông Profitendieu lảo đảo tìm tới chiếc ghế. Ông muốn nghĩ ngợi, nhưng ý nghĩ quay cuồng hỗn loạn trong đầu. Hơn nữa, ông cảm thấy đau nhéo nhè nhẹ ở bên phải, đấy, bên dưới sườn, cứ thế không hết được: gan quặn đấy. Có nước suối Vichy ở nhà hay không nữa chứ? Vợ ông về rồi thì đã may! Làm thế nào cho bà biết Bernard bỏ nhà đây? Nên đưa lá thư cho bà chăng? Lá thư bất công, bất công ghê gớm. Ông bất bình là phải nhất. Nỗi buồn của ông, ông muốn coi đó như là bất bình. Ông thở mạnh và theo mỗi lần thở ra bật lên tiếng “ôi trời!” nhanh và yếu như tiếng thở dài. Cơn đau nhói bên mình hòa lẫn với cơn buồn, biểu lộ và định vị cho nỗi buồn. Dễ thường ông mang nỗi buồn nơi lá gan. Ông buông mình xuống ghế và đọc lại lá thư của Bernard. Ông nhún vai héo hắt. Lá thư rõ độc địa đối với ông, nhưng ông cảm nhận ra trong đó nào giận hờn, nào thách thức, phách lối. Không đời nào có ai trong bầy con của ông, con chính thức, viết nổi như thế kia, chính ông cũng chịu thôi, ông thừa biết thế, bởi lẽ không có gì trong con người chúng nó mà ông khỏi nhận biết dư vang trong chính mình. Đã đành ông luôn luôn cho rằng mình phải nên chê bai những gì cảm thấy là mới mẻ, thô bạo, và bất trị trong con người Bernard; nhưng ông không còn tin như thế nữa, ông cảm thấy rõ rằng chính vì những cái đó mà ông yêu hắn như chưa từng yêu mấy đứa con khác.

Từ hồi nãy đã nghe tiếng Cécile ở phòng bên cạnh, nàng nghe hòa nhạc về, ngồi bên cây đàn dương cầm và đàn đi đàn lại không thôi một câu trong một đoản khúc đò đưa. Cuối cùng ông Albéric Profitendieu hết chịu nổi. Ông hé mở cửa phòng khách và, bằng một giọng than van, gần như van xin, vì cơn đau gan bắt đầu hành hạ ông khốn đốn (hơn nữa, ông luôn rụt rè phần nào đối với con gái):

- Cécile con à, chắc có nước suối Vichy ở nhà không con? Nếu không có, thì con sai đi kiếm. Với lại con yêu của bố ngừng đàn tí xíu nhé.

- Bố đau ư?

- Đâu có, đâu có. Nhưng bố cần suy nghĩ tí xíu từ giờ cho đến bữa ăn, tiếng đàn của con làm bố rối trí.

Và vì đau đớn làm cho ông dịu dàng, ông nói thêm âu yếm:

- Con chơi điệu gì đó hay lắm. Điệu gì thế?

Nhưng ông bước ra không kịp nghe trả lời. Tuy nhiên con gái ông vốn biết ông không hiểu gì âm nhạc và lẫn lộn bài ca Viens, Poupoule với hành khúc của Tannhäuser (hay chính cô nàng đặt điều nói thế), Cécile cũng chẳng có ý định trả lời cho ông. Nhưng kìa, ông đã mở cửa ra lại:

- Mẹ con chưa về sao?

- Thưa chưa ạ.

Vô lí thế. Bà sẽ về tới quá chậm không đủ thì giờ nói với bà trước bữa ăn. Bày đặt được điều gì đây để tạm thời giải thích sự vắng mặt của Bernard? Ông vẫn không thể nói lại sự thật, không thể phơi bày cho lũ con biết cái bí mật về vụ lạc lòng phút chốc của mẹ chúng. Chao ơi! Mọi sự đã được hoàn toàn tha thứ, lãng quên, tu chỉnh. Đứa con út chào đời đã thắt chặt sự dàn hòa giữa hai người. Thế mà bỗng đâu cái bóng ma phục thù kia đục từ quá khứ lên, cái tử thi kia mà sóng xô tấp vào...

Thôi chứ! Cái gì nữa đấy? Cửa phòng làm việc của ông mở ra không tiếng động; mau mau, ông chuồi lá thư vào túi áo trong, màn cửa nhấc lên thật khẽ. Thằng Caloub.

- Bố này, câu La-tinh này nghĩa là gì? Con không hiểu gì hết.

- Bố đã bảo con đừng có đi vào mà không gõ cửa. Với lại bố không muốn con vào quấy rầy bố mãi thế này. Con quen nhờ vả và nương tựa vào người khác thay vì đem sức mình ra. Hôm qua là bài toán hình học, hôm nay là một... câu La-tinh của ai đấy?

Caloub chìa cuốn vở:

- Họ không nói, nhưng mà, đây này, bố coi: bố thế nào cũng nhận ra. Họ đọc cho viết, nhưng chắc con viết sai. Con muốn biết con viết có đúng không đã...

Ông Profitendieu cầm lấy cuốn vở, nhưng ông đau quá lắm. Ông dịu dàng đẩy thằng bé ra:

- Lát nữa. Sắp sửa ăn rồi. Anh Charles về chưa?

- Anh xuống phòng làm việc rồi. (Luật sư Charles tiếp khách ở tầng trệt).

- Con đi nói với anh lên gặp bố. Nhanh lên.

Tiếng chuông reo! Đến bây giờ bà Profitendieu mới trở về, bà xin lỗi đã về muộn, bà hẳn đã đi thăm nhiều nơi. Bà ái ngại thấy chồng đau. Làm gì được giúp ông? Quả tình sắc diện của ông bệnh lắm. Ông sẽ không ăn được đâu. Ăn không có ông vậy. Nhưng sau bữa ăn bà sẽ cùng mấy đứa con lên gặp ông. - Còn Bernard? - Ừ nhỉ, thằng bạn của Bernard... bà biết cái thằng bày vẽ toán cho nó, chắc nó đến đây đem Bernard đi ăn rồi.

Profitendieu cảm thấy dễ chịu hơn. Lúc đầu ông sợ mình đau quá không mở miệng nổi. Mà lại cần giải thích sự khiếm diện của Bernard nữa. Bây giờ ông biết mình cần nên nói gì, dù có đau lòng. Ông cảm thấy mình vững tâm và quyết tâm. Mối lo sợ duy nhất của ông là vợ ông sẽ cắt ngang mà khóc lóc, la lối, sợ bà đâm quẩn trí...

Một giờ sau, bà bước vào với ba con, bà tới gần. Ông để bà ngồi sát cạnh ghế ông. Bằng giọng ra lệnh, ông nói nhỏ:

- Mẹ nó hãy cố ngồi yên, và đừng nói lời nào, nghe không? Sau đó mẹ nó và tôi sẽ chuyện trò với nhau.

Và trong khi nói, ông nắm bàn tay của bà trong hai tay mình.

- Nào, ngồi xuống, các con. Bố lúng túng thấy các con đứng trước mặt thế kia như khảo hạch. Bố có chuyện rất buồn phải nói với các con... Bernard đã từ biệt chúng ta và chúng ta không còn gặp lại Bernard... trong một thời gian. Hôm nay bố phải cho các con biết điều mà lúc đầu bố đã che giấu các con, vì bố thích được thấy các con yêu Bernard như anh em, vì mẹ và bố yêu Bernard như con. Nhưng Bernard không phải là con của bố mẹ... Một người cậu của Bernard, em của mẹ đẻ Bernard khi lâm chung gửi gắm Bernard cho nhà mình... người cậu đó đã đến hồi chiều xin lại Bernard.

Một bầu im lặng nặng nề tiếp theo mấy lời của ông và mọi người nghe tiếng Caloub thút thít. Ai nấy chờ đợi, nghĩ rằng ông sẽ nói thêm.

Nhưng ông khoát tay:

- Bây giờ các con hãy ra ngoài. Bố cần nói chuyện với mẹ.

Tất cả đi xong xuôi, ông Profitendieu ngồi hồi lâu không nói năng gì. Bàn tay bà để trong đôi tay ông như thể chết rồi. Bằng bàn tay kia, bà đưa khăn lên mắt. Bà chống khuỷu tay vào chiếc bàn lớn, và quay mặt khóc. Qua những tiếng khóc nấc lay động người bà, ông Profitendieu nghe bà thì thào:

- Ôi! Mình ác thế... Ôi! Mình đã đuổi nó đi.

Hồi nãy, ông định không đưa lá thư của Bernard cho bà, nhưng đứng trước lời buộc tội bất công thế kia, ông chìa lá thư:

- Này, mẹ nó đọc đi.

- Tôi không đủ sức.

- Mình phải đọc mới được.

Ông không còn nghĩ tới cơn đau. Ông đưa mắt theo dõi bà suốt lá thư, từng dòng một. Hồi nãy trong khi nói, ông khó lòng ngăn nổi nước mắt, bây giờ ngay lúc mối xúc động bỏ rơi ông, ông nhìn vợ. Bà nghĩ sao? Vẫn một giọng trần tình, qua những tiếng nức nở như cũ, bà tiếp tục thì thầm:

- Trời! Tại sao mình nói cho nó... Đáng lẽ mình không nên nói cho nó...

- Ô hay, mình thấy rõ ràng tôi có nói gì với nó đâu... Đọc thư kĩ xem.

- Tôi đã đọc kĩ... Nhưng thế thì làm sao nó khám phá ra? Ai nói với nó?

Trời! Thế nghĩa là bà vẫn khăng khăng! Vì thế mà âm sắc của bà thê lương! Tai ương này đáng lẽ thắt chặt hai người lại. Ôi thôi! Ông Profitendieu mơ hồ nhận thấy tư tưởng của hai người rẽ lối khác nhau. Và trong khi bà phàn nàn buộc tội, đòi hỏi, ông tìm cách hướng cái đầu óc khăng khăng kia về những tình cảm tín mộ hơn, ông nói:

- Hình phạt đấy.

Ông đứng lên, vì nhu cầu tự nhiên muốn chế phục; bây giờ ông ưỡn thẳng người, quên và không kể gì tới cơn đau đớn mình mẩy, và nghiêm nghị, âu yếm, thị oai, đặt tay lên vai Marguerite. Ông thừa biết rằng bà bao giờ cũng chỉ ăn năn một cách không toàn vẹn về câu chuyện mà ông luôn muốn coi như sự yếu lòng nhất thời; giờ đây ông muốn nói cho vợ rằng mối bi ai này đây, sự thử thách này đây có thể dùng vào việc chuộc lại lỗi lầm, nhưng ông loay hoay tìm kiếm một mẫu lời nói sao cho vừa ý mình mà lại có hi vọng được thông cảm. Một bên vai của Marguerite cưỡng lại cái ấn tay nhè nhẹ của ông. Marguerite dư biết rằng, bao giờ cũng vậy thế nào ông cũng xuất khẩu một lời giáo dục luân lí nào đó nhân những chuyện đời nhỏ nhặt nhất, chịu làm sao nổi; mọi sự đều được ông giải khai và diễn dịch theo giáo điều của ông. Ông cúi xuống bà. Ông rắp tâm nói thế này đây:

- Mình thấy chưa: tội lỗi không sinh được gì tốt đẹp. Mình hà tất che đậy lỡ lầm. Khổ! Tôi đã hết sức với nó, tôi đối với nó như đối với con đẻ. Bây giờ trời cho ta thấy là sai lạc nếu ta tưởng rằng...

Nhưng ngay từ câu đầu ông ngừng nói.

Và có lẽ bà hiểu mấy tiếng đầy ý nghĩa kia, có lẽ những tiếng ấy đã vào sâu trong tim bà, chẳng thế mà bà nức nở trở lại, còn dữ dội hơn trước, sau một hồi ngưng khóc; kế đó là gập người xuống như chực quỳ gối trước mặt ông, ông khom lưng nâng giữ vợ mình. Bà nói những gì qua nước mắt. Ông cúi sát môi vợ. Ông nghe:

- Mình thấy rõ... Mình thấy rõ... Trời! Tại sao mình lại tha thứ cho tôi? Trời! Đáng lẽ tôi không nên trở về.

Gần như ông bắt buộc phải đoán ra lời lẽ của vợ. Bà nín bặt liền đó. Không thể giãi bày nhiều hơn. Chẳng lẽ nói mình cảm thấy bị bó thân trong thứ tiết hạnh do ông đòi hỏi, chẳng lẽ nói mình chết ngạt, hay bảo mình đã ăn năn thì lỗi lầm gì nữa? Lỗi lầm đó giờ phút này bà lấy làm ân hận rồi. Ông thẳng người lên, bằng một giọng oai phong nghiêm nghị, nói:

- Mình ạ, tôi e rằng mình hơi cố chấp tôi hôm nay. Khuya rồi. Ta đi ngủ là hơn.

Ông đỡ bà đứng dậy, rồi đưa về phòng, hôn lên trán bà, kế đó quay vào phòng giấy và ngồi phịch xuống ghế. Lạ chưa, cơn đau gan đã lắng dịu, nhưng ông cảm thấy rời rã. Tay vẫn bưng lấy trán, ai oán quá, ông không khóc nổi. Ông không nghe tiếng gõ cửa, nhưng cửa xịch mở, ông ngước đầu lên: Charles, con trai ông.

- Con vào thăm hỏi bố.

Charles vào tới gần. Anh đã hiểu đầu đuôi. Anh muốn cho bố biết là anh đã hiểu. Anh mong bày tỏ lòng xót thương, yêu mến, mối tận tình với ông, thế nhưng, điều khó tin ở một luật sư: anh diễn đạt vụng về không ai bằng: hay có lẽ anh đâm ra vụng về hễ khi nào tình cảm anh thành khẩn. Anh ôm bố hôn. Cái cách anh lân la đặt tựa đầu lên vai cha rồi để yên đấy một lát tỏ cho ông biết anh đã hiểu. Anh đã hiểu quá rõ nên chi giờ đây, khẽ ngước đầu lên, anh cất tiếng hỏi, một cách vụng về, như mọi cái gì anh đã làm, nhưng lòng anh quá bấn loạn không hỏi không được:

- Thế Caloub?

Câu hỏi phi lí, vì Bernard càng khác mấy đứa con kia, thì nơi con người Caloub cái vẻ gia thống càng dễ nhận. Ông vỗ vai Charles:

- Không, không, con yên tâm. Bernard không thôi.

Nghe thế, Charles trịnh trọng bảo:

- Chúa đuổi thằng ăn bám...

Nhưng ông ngăn lại, ông đâu có cần ai nói thế với ông?

- Con đừng nói.

Cha con không còn gì để nói với nhau. Ta hãy để họ đó. Bây giờ là gần mười một giờ. Ta hãy để bà vợ ông Profitendieu ở lại trong phòng, ngồi trên chiếc ghế nhỏ ít tiện lợi. Bà không khóc, không nghĩ gì hết. Hơn thế nữa, bà muốn bỏ trốn đi, nhưng bà sẽ không trốn. Hồi ở với tình nhân, cha của Bernard, chúng ta không cần biết là ai, bà tự nhủ: mình làm gì rốt lại cũng không phải con đàn bà hiền lương. Bà sợ tự do, sợ tội ác, sợ thảnh thơi, nên mười hôm sau bà quay về nhà day dứt. Ngày xưa song thân bà bảo bà như thế này là phải lắm: con chẳng bao giờ biết con muốn gì. Ta hãy tạm biệt bà. Cécile đã ngủ rồi. Caloub nhìn ngó ngọn đèn sáp mà ngao ngán; đèn sẽ không còn đủ để cho phép hắn đọc hết cuốn truyện phiêu lưu giúp hắn nguôi quên sự bỏ nhà ra đi của Bernard. Tôi tò mò muốn biết Antoine kể lại được những gì cho chị bếp nghe, nhưng làm sao nghe được hết bây giờ. Đã đến giờ Bernard phải đi tìm gặp Olivier. Đêm nay hắn ăn ở đâu, hay hắn có ăn chăng, tôi không biết nữa. Hắn đi ngang qua trước buồng lão gác cổng không trở ngại, hắn nhón nhén lên cầu thang...

* * *

III

Sung túc và yên bình sinh loài bạc nhược; chính ngay điều vất vả mới là mẹ can đảm.

SHAKESPEARE

Olivier đã lên giường chờ mẹ đêm đêm vào tận giường hôn hai con nhỏ. Hắn có thể thay quần áo trở lại để tiếp Bernard, nhưng hắn chưa chắc Bernard có đến không, và sợ đánh thức thằng em Georges thường mau ngủ và dậy trễ; cũng có thể hắn không nhận ra điều gì bất thường.

Nghe một tiếng gì như tiếng cào cửa rụt rè, Olivier vọt ra khỏi giường, đút chân vội vào đôi giày nhẹ và chạy ra mở. Không cần phải bật đèn, ánh trăng đủ soi sáng gian phòng. Olivier đưa tay ôm chầm lấy Bernard.

- Chờ cậu gớm! Mình không thể tin cậu đến. Hai bác biết cậu không ngủ nhà đêm nay?

Bernard nhìn thẳng trước mặt, trong bóng tối. Hắn nhún vai.

- Cậu nghĩ rằng tôi phải xin phép, hả?

Giọng nói hắn lạnh lùng mai mỉa bắt Olivier lập tức cảm thấy cái vô lí của câu hỏi. Hắn vẫn chưa hiểu rằng Bernard đã ra đi “thật sự”, hắn tưởng Bernard chỉ định ngủ lang đêm nay thôi và không giải thích rõ cái hành vi đột ngột của mình. Hắn hỏi:

- Bernard định khi nào về?

- Không bao giờ!

Mọi sự tỏ rõ trong đầu óc Olivier. Hắn quyết tỏ ra mình theo kịp những cảnh huống và không để cho một cái gì đến làm giật mình, thế mà hắn cũng buột miệng:

- Cậu làm một việc tày trời.

Về phần Bernard, hù bạn một chút xíu không hại gì, nhất là hắn cảm nhận được vẻ khâm phục lóe ra trong lời buột miệng, nhưng hắn nhún vai lần nữa. Olivier nắm bàn tay Bernard, hắn nghiêm trọng lắm, hắn lo lắng hỏi:

- Nhưng mà... tại sao cậu bỏ đi?

- Ôi! Chuyện gia đình. Không nói cho cậu được.

Và để tránh vẻ quá trang nghiêm, hắn đùa nghịch dùng mũi giày hất rớt chiếc giày nhẹ lủng lẳng nơi chân Olivier, vì cả hai ngồi ở thành giường.

- Thế cậu đi đâu sống?

- Không biết.

- Và sống bằng cái gì?

- Để coi.

- Cậu có tiền không?

- Đủ ăn điểm tâm ngày mai.

- Rồi sau đó?

- Sau đó phải tìm cách. Mệt! Tìm khắc ra. Rồi cậu coi, mình sẽ kể lại cho cậu.

Olivier phục bạn sát đất. Hắn biết Bernard tính người nhất quyết, thế mà hắn bán tín bán nghi đến hồi sắp sửa cạn lương thực và quẫn bách, hắn không trở về sao? Bernard dám chắc với hắn: sẽ thử thách bất cứ điều gì chứ không trở về sống cạnh người nhà. Và vì hắn lặp lại nhiều lượt và mỗi lần mỗi thêm hung bạo: bất cứ điều gì - nên chi Olivier se sắt bất an. Hắn muốn nói mà không dám. Cuối cùng, hắn mở lời trong khi cúi đầu và nói bằng một giọng không tin tưởng:

- Bernard à... dù sao, cậu không có ý định...

Nhưng hắn ngừng nói. Thằng bạn hắn ngước mắt lên và, không cần nom rõ Olivier, nhận ra sự lúng túng của Olivier. Bernard hỏi:

- Ý định gì? Cậu muốn nói gì? Nói đi. Ý định ăn cắp phải không?

Olivier lắc đầu. Không, không phải điều đó. Olivier bỗng nhiên òa khóc, hắn lật bật ôm siết Bernard.

- Cậu hứa là đừng...

Bernard ôm lấy Olivier, rồi cười đẩy hắn ra, Bernard hiểu:

- Điều đó thì mình hứa. Không, mình không làm tên ma cô đâu.

Và tiếp:

- Thật ra ma cô thì tiện nhất đấy, nhỉ?

Nhưng Olivier cảm thấy yên tâm; hắn thừa biết câu cuối cùng nói ra chỉ làm ra vẻ vô liêm sỉ mà thôi.

- Thi cử của cậu?

- Phải, cái đó mới phiền. Dẫu sao mình không muốn để cho rớt. Mình tưởng đã chuẩn bị, đúng hơn cốt sao hôm đó đừng mệt trong người. Mình phải giải quyết sự việc thật nhặm lẹ. Hơi cầu may đấy, nhưng mà... mình sẽ qua khỏi, rồi cậu xem.

Cả hai lặng im chốc lát. Chiếc giày nhẹ thứ hai bị hất rớt. Bernard:

- Cậu cảm lạnh bây giờ. Ngủ lại đi.

- Không, cậu đi ngủ mới đúng chứ.

- Giỡn! Nhanh lên nào! - Và hắn ra sức bắt Olivier trở lại chiếc giường đã nhàu nhò.

- Nhưng còn cậu? Ngủ đâu?

- Bất cứ đâu. Ngủ dưới đất. Trong xó. Mình phải tập cho quen.

- Không, này. Mình muốn nói với cậu cái này, nhưng không cảm thấy cậu ở sát bên mình thì mình chẳng nói được. Cậu chui vào giường với mình.

Và sau một lát Bernard cởi bỏ áo quần xong xuôi rồi đến với hắn:

- Bernard biết không, cái mình nói với cậu lần trước ấy... Xong rồi. Đạt được mục tiêu.

Bernard hiểu lờ mờ. Hắn nằm sát người vào Olivier. Olivier nói tiếp:

- Nghĩa là lợm giọng được, cậu ạ. Gớm guốc... Xong xuôi, mình muốn nhổ, muốn mửa, muốn bứt da, muốn tự tử.

- Cậu nói quá đáng.

- Hoặc là muốn giết ả, con đó...

- Con nào đấy? Dù sao, cậu không làm ẩu đấy chứ?

- Không, ả là mèo thân thiết với Dhurmer, Dhurmer giới thiệu mình với cô ả. Cái lối nói chuyện của ả làm mình ê ẩm nhất. Nói không nghĩ. Mà lại đần độn thế! Những lúc đó mà không câm cái mồm lại thì mình không hiểu nổi. Muốn bưng mồm ả, muốn bóp cổ ả đi.

- Khổ thân! Nhưng cậu phải nghĩ rằng Dhurmer chỉ chịu tặng cậu một con nhỏ ngốc nghếch thôi chứ... Ít nhất nó cũng đẹp?

- Cậu tưởng mình nhìn mặt ả à?

- Cậu ngốc. Cậu đáng yêu. Thôi ngủ nào... Ít ra cậu đã hưởng...

- Cóc khô! Chính cái đó làm mình tởm nhất: dù sao mình cũng làm được... đúng như mình ao ước.

- Thế à! Hay đấy, bạn.

- Xin cậu. Nếu đó là tình yêu thì mình chán mứa lắm rồi.

- Cứ làm như bé bỏng ấy!

- Mong thấy cậu lâm sự.

- Mình à! Cậu biết không, mình không chạy theo. Mình đã nói với cậu: mình chờ chuyện lạ. Thế thôi, một cách dửng dưng, chuyện đó đối với mình không nói lên được gì. Dù sao, nếu mình...

- Nếu cậu sao...

- Nếu con đó... Thôi. Ngủ.

Và hắn quay lưng lại đột ngột, khẽ nhích ra khỏi thân hình có hơi nóng kia làm hắn lướng vướng. Nhưng lát sau Olivier đã hỏi:

- Này... cậu tin Barrès sẽ được đắc cử không?

- Chậc!... Chuyện mắc dịch!

- Thây kệ! Này... nghe cái này tí...

Hắn đè lên vai Bernard, Bernard quay lại.

- Anh chàng ta có bồ.

- Thằng Georges?

Thằng nhỏ vờ ngủ nhưng lắng nghe hết, dỏng tai trong tối, khi nghe tên mình, hắn nín thở.

- Điên à! Mình nói Vincent chứ! (Lớn tuổi hơn Olivier, Vincent vừa xong những năm y khoa đầu tiên).

- Anh có nói với cậu hả?

- Không. Anh không dè mình biết. Bố mẹ mình không hay biết gì hết.

- Nếu hay, hai bác có nói gì không?

- Không biết. Chắc có lẽ mẹ sẽ rầu rĩ. Bố sẽ yêu cầu anh cắt đứt hoặc là cưới.

- Đấy! Bọn thượng lưu lương thiện không hiểu rằng người ta có thể lương thiện theo một lối khác họ. Làm sao cậu biết?

- Đầu đuôi thế này: từ dạo sau này Vincent ra đi ban đêm khi bố mẹ mình đã ngủ đâu đấy rồi. Anh bước xuống thật khẽ, nhưng mình nhận ra bước chân anh ở ngoài đường. Tuần vừa rồi, thứ ba thì phải, đêm nực quá mình nằm không nổi. Mình đứng ở cửa sổ cho dễ thở hơn. Mình nghe cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại. Mình nhoài người ra, và khi Vincent đi ngang qua cây đèn, mình nhận ra anh. Lúc đó đã quá nửa đêm. Đó là lần đầu tiên. Mình muốn nói: Lần đầu tiên mình để ý thấy. Nhưng từ khi đã hay rồi, mình dò xét, ấy không chủ tâm đâu nhé... và hầu như mỗi đêm mình nghe anh ra đi. Anh có chìa khóa riêng và bố mẹ mình dọn dẹp phòng cũ của Georges với mình làm thành phòng thăm bệnh để sau này có bệnh nhân. Phòng của anh ở bên cạnh, bên trái phòng chứa đồ đạc, trong khi các phòng còn lại ở phía bên mặt. Anh có thể đi ra đi về khi nào tùy ý mà không ai hay biết. Thường thường mình không nghe anh về, nhưng tối hôm kia, thứ hai, mình không hiểu cái gì xui khiến, mình đang nghĩ tới dự tính ra báo của Dhurmer đấy chứ... Không ngủ được. Mình nghe tiếng nói trong cầu thang, mình cứ tưởng là Vincent.

- Lúc đó mấy giờ? - Bernard hỏi, không phải vì háo hức biết mà để tỏ ra quan tâm.

- Ba giờ sáng thì phải. Mình thức dậy và kê tai sát cửa. Vincent đang nói với một người đàn bà. Hay đúng hơn chỉ có cô nàng nói.

- Thế làm sao cậu biết đúng là anh Vincent? Bao nhiêu người thuê nhà đều đi ngang trước cửa phòng cậu kia mà.

- Quả như thế, đôi khi thật khó chịu: khuya chừng nào, họ leo lên lầu làm ồn chừng ấy, bất kể người ngủ... Thế thì chỉ có thể là Vincent; mình nghe cô nàng lặp lại tên Vincent. Cô nàng nói với anh... Ồ! Nói lại ngấy quá...

- Cứ nói coi.

- Cô nàng nói: “Vincent, anh ơi, mình ơi, đừng bỏ em!”

- Cô ta gọi thế nào?

- Cô này gọi anh Vincent bằng “vous”!

- Ừ. Kì cục nhỉ? Kể tiếp đi.

- “Anh không có quyền bỏ rơi em bây giờ. Anh muốn em ra làm sao đây? Anh muốn em đi đâu? Nói cho em một lời. Trời! Nói đi.” Rồi cô gọi lại tên Vincent và lặp lại: “Anh ơi, anh ơi”, bằng một giọng não nuột hơn, và nhỏ dần. Tiếp theo mình nghe một tiếng huỵch (hai người chắc hẳn ở nơi cầu thang), tiếng động như của vật gì ngã. Mình nghĩ là cô nàng quỳ gối xuống.

- Thế còn anh, anh không trả lời gì hết sao?

- Chắc anh bước lên mấy bực cấp cuối cùng: mình nghe cửa phòng đóng lại. Và sau đó cô nàng đứng nán một lúc lâu gần sát đây, gần như sát cửa của mình. Mình nghe cô khóc nức nở.

- Đáng lẽ cậu nên mở cửa ra cho cô.

- Dám đâu. Vincent sẽ nổi đóa lên nếu biết mình hay chuyện của anh. Với lại mình sợ cô ngượng bị bắt gặp đang khóc lóc. Biết nói gì với cô chứ.

Bernard đã quay mặt lại với Olivier.

- Ở địa vị cậu, mình mở cửa rồi đó.

- Nói gì! Cái gì mà bao giờ cậu chẳng dám. Hễ cái gì thoáng qua đầu là cậu làm.

- Cậu trách mình đó ư?

- Không, mình muốn như cậu.

- Cậu nom thấy cô nàng kia có thể là ai?

- Làm sao biết nổi? Thôi, ngủ ngon.

- Này... có chắc thằng Georges không nghe lỏm tụi mình?

Bernard rỉ tai Olivier. Cả hai nghe ngóng một lát. Olivier bình giọng nói theo:

- Không, nó ngủ; với lại nó chả hiểu gì đâu. Cậu biết hôm nọ nó hỏi bố gì không?... Tại sao bọn...

Lần này Georges không nín được nữa, hắn nhổm dậy trên giường và cắt ngang câu của thằng anh, quát:

- Anh ngốc, anh không thấy tôi cố ý sao?... Ừ đó, nãy giờ hai người nói gì tôi nghe hết, tưởng gì! Các người khỏi lo. Chuyện anh Vincent tôi biết lâu rồi. Nhưng bây giờ các anh gắng nói nhỏ lại, tôi buồn ngủ đây. Hay là nín đi.

Olivier quay mặt vào tường. Bernard không ngủ, ngắm nghía gian phòng. Ánh trăng làm cho phòng có vẻ lớn thêm. Thật ra, hắn biết gian phòng này qua loa. Ban ngày Olivier không có mặt ở đây, một đôi lần hắn tiếp Bernard đều ở phòng trên lầu. Ánh trăng bây giờ lần tới chân giường nơi Georges vừa thiếp ngủ; hắn nghe gần hết những điều anh hắn kể, hắn có lí do để mộng mị. Phía trên chiếc giường của Georges, ta nhận ra một tủ sách nhỏ có hai ngăn với sách học. Trên một chiếc bàn gần giường của Olivier, Bernard nhác thấy một cuốn sách lớn khổ hơn, hắn với tay cầm lấy sách để nhìn nhan đề: Tocqueville(2); nhưng khi hắn muốn đặt sách xuống bàn, cuốn sách sểnh và tiếng động đánh thức Olivier.

- Dạo này cậu đọc sách của Tocqueville à?

- Dubac cho mình mượn đó.

- Cậu thích không?

- Hơi nhạt. Nhưng có nhiều cái được lắm.

- Này. Mai cậu làm gì?

Ngày mai, thứ năm, học sinh được nghỉ. Bernard tính gặp lại Olivier thì phải. Hắn định không còn đặt chân đến trường nữa; hắn cho là không cần đến những giờ học cuối cùng và hắn soạn thi một mình.

Olivier bảo:

- Ngày mai, mười một giờ rưỡi mình ra ga Saint-Lazarre đón tàu từ Dieppe đến để gặp ông cậu Édouard ở Anh về. Buổi chiều, ba giờ, mình sẽ đi gặp Dhurmer ở viện Louvre. Thì giờ còn lại mình phải học.

- Cậu Édouard?

- Ừ, em cùng cha khác mẹ với mẹ mình. Cậu vắng nhà đã sáu tháng, còn mình biết cậu qua loa thôi, nhưng mình yêu cậu lắm. Cậu không biết mình đi đón và mình sợ nhận không ra. Cậu không giống ai trong gia đình hết, con người cậu hay lắm.

- Cậu ấy làm gì?

- Viết văn. Mình đọc gần hết sách của cậu, nhưng lâu nay cậu không xuất bản gì nữa.

- Tiểu thuyết?

- Ừ, những loại tiểu thuyết.

- Sao Olivier không hề đề cập với mình?

- Vì cậu sẽ đòi đọc, và nếu cậu không thích thì...

- Thì sao? Nói tiếp đi.

- Thì mình buồn. Đấy.

- Thế cái gì khiến cậu bảo là cậu Édouard hay lắm?

- Mình không biết nữa. Mình đã bảo mình hầu như không biết đến cậu. Đúng hơn, đó là một dự cảm. Mình cảm thấy cậu quan tâm đến nhiều thứ mà bố mẹ mình không quan tâm, và người ta có thể nói với cậu đủ chuyện. Ngày nọ, trước khi cậu ra đi không được bao lâu, cậu đã ăn tại nhà mình; đang khi trò chuyện với bố, mình cảm thấy cậu nhìn mình mãi và mình bắt đầu lúng túng, mình sắp sửa bỏ phòng đi ra - lúc bấy giờ ở phòng ăn, mọi người còn chần chừ sau khi dùng cà phê, nhưng cậu đã bắt đầu hỏi bố về mình, điều này làm mình lúng túng thêm và bố bỗng nhiên đứng lên đi lấy mấy câu thơ mình vừa làm xong, mấy câu thơ mà mình đã ngu xuẩn trưng ra với bố.

- Thơ của Olivier hả?

- Có chứ, cậu biết mà, bài thơ mà cậu cho là giống như bài Bao lơn(3) đấy. Mình biết nó chẳng có giá trị gì hay chẳng đáng bao nhiêu, bố đưa ra làm mình giận quá. Trong một lúc, giữa khi bố lục lạo mấy câu thơ, chỉ có cậu Édouard và mình trong phòng, và mình cảm thấy đỏ phừng cả mặt, mình không tìm được gì để nói năng với cậu nên nhìn lảng đi nơi khác, mà cậu cũng thế, cậu bắt đầu vấn thuốc hút: kế đó, có lẽ để cho mình thoải mái phần nào vì chắc chắn cậu thấy mình đỏ mặt, cậu đứng dậy quay nhìn ra cửa sổ. Cậu huýt gió khe khẽ. Thình lình cậu nói với mình: “Cậu lúng túng hơn con nhiều.” Nhưng mình tin cậu tử tế mà nói thế. Cuối cùng bố trở vào, bố đưa mấy câu thơ của mình cho cậu, cậu đọc. Mình cáu đến độ nếu cậu khen, chắc mình sẽ nói hỗn lại. Dĩ nhiên bố chờ đợi những lời đó - những lời khen - và vì cậu không nói năng gì, bố hỏi: “Thế nào? Cậu nghĩ sao?” Nhưng cậu đã cười bảo bố: “Khó bàn trước mặt anh”, thế là bố cũng cười bỏ đi ra. Và sau đó, khi chỉ có cậu và mình, cậu bảo mình rằng cậu thấy thơ mình dở lắm, nhưng mình vui lòng nghe cậu nói như thế; và cái làm mình vui lòng hơn nữa là, cậu vụt trỏ hai câu thơ, hai câu độc nhất mình khoái trong bài thơ, cậu nhoẻn miệng cười nhìn mình bảo: “Hay đấy.” Cậu mình như thế đó, không hay sao? Và giọng cậu nói với mình, Bernard phải biết! Muốn ôm cậu mà hôn. Rồi cậu bảo mình rằng cái sai lầm của mình là khởi đi từ một ý nghĩ, và mình để cho chữ nghĩa dẫn dắt không đúng mức. Thoạt tiên mình không hiểu rõ, nhưng mình chắc rằng bây giờ mình thấy cậu muốn nói gì rồi - và cậu có lí. Mình sẽ giải thích cho Bernard nghe lần khác.

- Bây giờ mình hiểu Olivier muốn có mặt lúc cậu Édouard đến.

- Đâu có! Mình kể cho Bernard nghe chuyện chẳng nhằm vào đâu, và không hiểu sao mình lại kể. Tụi mình đã bày tỏ cho nhau biết bao nhiêu chuyện khác nữa.

- Cậu bảo mười một giờ rưỡi phải không? Làm sao biết ông cậu đến chuy