Phần Thứ Hai.
I
BERNARD GỬI OLIVIER
Thứ hai.
Cậu,
Phải nói ngay cho cậu biết mình rớt rồi. Không thấy mình, chắc cậu đã hiểu. Mình sẽ thi lại vào tháng mười. Một dịp may độc nhất đã đến với mình để chu du. Mình vồ lấy ngay, và không ân hận. Phải quyết định tức tốc, không kịp suy nghĩ, không kịp từ giã cậu nữa đấy. Về việc này, mình được giao phó bày tỏ cho cậu hay rằng người đi với mình rất lấy làm ân hận ra đi không gặp cậu. Vì cậu biết ai đem mình đi chứ? Cậu đã đoán ngay..., Édouard đấy, người cậu lẫy lừng của cậu đấy. Mình đã gặp ông ngay buổi chiều ngày ông đến Paris, trong những hoàn cảnh khá hi hữu và giật gân mà mình sẽ tường thuật sau. Nhưng cái gì cũng hi hữu trong câu chuyện này, và, hễ nghĩ tới, đầu óc mình quay cuồng. Hôm nay mình vẫn còn ngần ngại tin là chuyện thật, rằng chính mình viết thư này cho cậu, mình, ở đây, ở Thụy Sĩ cùng với Édouard và... Thôi, phải nói hết cho cậu mới được, nhưng cần nhất là hãy hủy thư đi và giữ lấy cho riêng cậu những lời này.
Cậu thử tưởng tượng người đàn bà khốn nạn bị anh Vincent của cậu bỏ rơi, người mà cậu đã nghe nức nở một đêm nào, gần cánh cửa của cậu (mà cậu đã quá dại dột không mở, cậu cho phép mình nói thế), lại là bạn thân của Édouard, con đẻ của Vedel, chị của Armand bạn cậu. Không nên kể lể những điều này với cậu mới phải, vì phương hại đến danh dự một người đàn bà, nhưng không kể với ai thì mình chết mất... Một lần nữa: hãy giữ riêng cho cậu. Cậu đã biết nàng mới lấy chồng, chắc cậu biết ít lâu sau đó nàng ngã bệnh và đi trị bệnh ở miền Nam. Chính ở đây nàng làm quen với Vincent, tại Pau. Chắc cậu cũng biết việc này. Nhưng điều mà cậu không biết là cuộc gặp gỡ đó lôi kéo theo nhiều việc về sau. Đúng thế, cậu ạ! Ông anh vụng về trời đánh của cậu để lại cho nàng một hòn máu. Nàng mang bầu trở về Paris, nơi đây nàng không dám gặp cha mẹ, lại càng không dám quay đầu về với chồng. Trong khi đó anh cậu chèn ép nàng vào những điều kiện mà cậu đã rõ. Miễn cho cậu những lời bình, nhưng có thể cho cậu hay rằng Laura Douviers không một lời trách móc oán than gì về anh cậu. Trái lại, nàng bịa ra đủ điều khả dĩ dung thứ cung cách của anh. Tóm lại, một người đàn bà kì tuyệt, một bản sắc toàn hảo. Và một người khác chắc chắn cũng kì tuyệt, là Édouard. Vì nàng không còn biết làm gì, đi đâu, ông cậu đề nghị với nàng đưa nàng đi Thụy Sĩ và lúc đề nghị mình đi theo, vì đi một mình với nàng, ông không tự nhiên, vẫn biết đối với nàng ông chỉ có tình bạn. Thế là cả ba chúng mình ra đi. Sự việc quyết định trong năm giây đồng hồ, vừa vặn kịp làm va li sắm sửa áo quần cho mình (vì cậu biết mình bỏ nhà ra đi không đem theo gì). Trong trường hợp này, Édouard sao mà dễ mến thế, phương chi ông cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng chính mình đã giúp ông. Đúng đấy cậu, ông là một người chơi đẹp.
Cuộc đi khá khó nhọc vì Laura quá mệt và vì tình trạng của nàng (cái thai bước sang tháng thứ ba) đòi hỏi nhiều sự nương dưỡng, và vì địa điểm định đi tới (vì những lí do nói ra quá dài dòng) là địa điểm có đường đi khá khó khăn. Mà Laura thì thường khi nhiễu sự vì không chịu phòng xa, phải ép buộc nàng mới xong; nàng nhắc nhở hoài hủy rằng diễm phúc cho nàng hơn cả là có một tai nạn gì xảy ra.
Cậu nghĩ chúng mình săn sóc chi li cho nàng. A! Người đàn bà đáng phục thay, cậu ạ! Mình cảm thấy mình là con người khác với con người trước khi quen biết nàng và có những ý tưởng mà mình không dám tỏ bày ra nữa, những mối động tâm mà mình kiềm hãm, ở bên nàng, như thể buộc mình phải tư tưởng thanh cao. Điều này vẫn không ngăn cản cuộc chuyện trò giữa ba chúng mình có tính cách thật phóng khoáng, Laura chẳng phải người đàn bà quá khép kín - và chúng mình nói đủ chuyện; nhưng mình quả quyết với cậu rằng, đứng trước mặt nàng, có nhiều điều mình hết muốn bông đùa và bây giờ lộ ra vô cùng nghiêm trọng.
Cậu lại đâm ra tin mình yêu nàng. Ấy! Nếu thế thì, cậu ạ, có lẽ cậu cũng không nhầm. Điên thật, nhỉ? Cậu có hình dung ra mình, yêu một người đàn bà có thai, mà dĩ nhiên mình quý trọng và không dám chạm đầu ngón tay? Cậu thấy mình đâu có đổ đốn...
Khi đến Saas-Fée, sau vô số khó khăn (chúng mình thuê cáng cho Laura, vì xe cộ không đi tới đây), khách sạn chỉ có thể ứng cho chúng mình hai phòng, một phòng lớn hai giường và một phòng nhỏ, trước mặt người chủ khách sạn, có giao ước rằng mình sẽ chiếm phòng nhỏ - bởi, để che giấu lí lịch, Laura nhận là vợ của Édouard; nhưng hàng đêm chính nàng chiếm phòng nhỏ và mình sang với Édouard ở phòng kia. Mỗi buổi sáng là cả sự lỉnh kỉnh để che mắt bọn giúp việc. May hai phòng thông nhau, cũng đỡ.
Thế mà chúng mình ở đây đã được sáu hôm, mình không viết cho cậu sớm hơn là vì lúc đầu mình quá bỡ ngỡ và mình phải thỏa hiệp với chính mình đã. Nay mình mới bắt đầu nhận ra mình.
Édouard cùng với mình tổ chức một vài chuyến dạo núi, thật lí thú, nhưng thật tình xứ này mình không thích lắm. Édouard cũng thế. Ông cho rằng phong cảnh có tính cách “lớn lối”. Hoàn toàn đúng.
Cái tốt nhất ở đây, là không khí mình thở, cái không khí tinh tấn lọc sạch buồng phổi cho mình. Có điều chúng mình không muốn để Laura ở nhà một mình quá lâu, vì cố nhiên nàng không thể đi theo chúng mình. Xã hội người trong khách sạn khá vui. Đủ quốc tịch. Trên hết, chúng mình giao du với một bà bác sĩ người Ba Lan đi nghỉ hè ở đây với đứa con gái và thêm một thằng bé được người ta gửi nhờ. Có thể nói chính là để tìm gặp thằng bé này mà bọn mình lặn lội tới đây. Nó mắc phải một thứ bệnh thần kinh mà bác sĩ săn sóc theo một phương pháp hoàn toàn mới mẻ. Nhưng điều lợi hơn cả cho thằng bé, thằng bé dễ thương thật tình, là nó si mê đứa con gái bà bác sĩ, lớn hơn nó mấy tuổi và quả tình là đứa con gái đẹp nhất mà mình được thấy. Từ sáng tới tối chúng không rời nhau. Cả hai thật khả ái với nhau khiến không ai nghĩ đến chuyện ghẹo chúng.
Mình chẳng học gì nhiều cả, và không mở một cuốn sách nào kể từ buổi ra đi, nhưng mình nghĩ ngợi nhiều. Nói chuyện với Édouard thật hữu ích phi thường. Ông không nói trực tiếp với mình nhiều, dù ông vờ coi mình như thư kí; nhưng mình nghe ngóng ông chuyện trò với người khác, nhất là với Laura là người được ông thích kể lể dự định của ông. Cậu không lường nổi điều đó hữu ích cho mình đến đâu. Có nhiều hôm mình tự nhủ phải ghi chép lại, nhưng mình tin mình nhớ hết. Có nhiều hôm mình mong cậu gớm, nhưng không thể nào ân hận cho những gì đã xảy ra đến với mình, cũng không mong thay vào đó được điều gì. Dù thế nào, cậu hãy thầm nhủ rằng mình không quên là nhờ cậu mình mới quen Édouard, và mình được hạnh phúc là nhờ cậu. Gặp lại mình, mình tin rằng cậu sẽ thấy mình thay đổi, nhưng vẫn là bạn của cậu, không suy suyển và sâu xa hơn bao giờ hết.
Thứ tư.
T.B. Thứ tư, - Chúng mình vừa từ một chuyến đi vĩ đại trở về liền đây. Lên ngọn Halladin - mấy người hướng dẫn buộc dây vào chúng mình, nào băng hà, vực, tuyết đổ nhào, v.v.. Nằm một chỗ khuất, giữa tuyết và tuyết, chất chồng với bọn du khách khác, chúng mình, khỏi nói, suốt đêm không chợp mắt. Sáng lại ra đi trước bình minh... Thôi nhé cậu, mình không nói xấu Thụy Sĩ nữa đâu: lên đến trên cao, khi đã hết nhìn thấy những khu trồng trọt, cây cối, tất cả những gì nhắc nhở sự biển lận, mê muội của loài người, ta muốn hát, muốn cười, muốn khóc, muốn bay, muốn đâm đầu vào không trung hay muốn quỳ gối xuống. Thương cậu.
BERNARD
Bernard là người quá bộc tuệch, quá tự nhiên, quá trong sạch, hắn hiểu sai về Olivier quá nhiều, nên không e dè gì về cái sống tình cảm dị hình mà lá thư của hắn sẽ khơi dậy trong người Olivier; một thứ như thủy triều làm bằng giận dỗi, thất vọng, điên tiết lẫn lộn. Olivier cảm thấy mình bị bứng ra khỏi lòng của Bernard và Édouard. Tình bạn của hai người đã loại tình bạn của hắn. Nhất là một câu trong thư Bernard hành hạ hắn; giá như linh cảm tất cả những gì Olivier nhận ra qua lá thư, Bernard đã không viết câu: “Ở trong phòng”, Olivier lẩm nhẩm - và lòng đố kị như con rắn ghê tởm trườn mình quằn quại trong lòng hắn. “Hai người ngủ trong một phòng!”... Còn có cái gì mà hắn khỏi tưởng tượng ra ngay? Trí óc hắn đầy ắp những hình ảnh không trong sạch mà hắn cũng không tìm cách đuổi đi. Hắn không đố kị riêng người nào, Édouard hay Bernard, mà cả hai. Hắn hình dung bọn họ, lần lượt hay luôn cả hai người, và thèm được như họ. Hắn nhận được thư vào giữa trưa. “Thế thì thôi!...”, hắn nhắc đi nhắc lại đến hết ngày. Đêm nay, quỷ địa ngục nhập vào người hắn. Sáng mai hắn tung mình đến Robert. Bá tước chờ đợi hắn.
* * *
II
NHẬT KÍ Édouard
Tôi tìm ra bé Boris không khó khăn. Hôm sau buổi đến nơi, nó hiện ra ở sân thượng khách sạn và bắt đầu nhìn ngắm núi non qua cái viễn kính đóng trên một cái giá, để cho khách sử dụng. Tôi nhận ra nó ngay. Một đứa con gái lớn hơn nó một ít đến theo liền sau đó. Tôi ngồi gần kề, trong phòng khách có cửa sổ lớn mở ra, và không để mất một lời nào trong câu chuyện của chúng. Tôi rất muốn ngỏ lời với nó, nhưng tôi nghĩ nên thận trọng hơn bằng cách liên lạc trước với mẹ của đứa con gái, là một bà bác sĩ người Ba Lan được người ta gửi gắm Boris và bà coi ngó nó sát nút. Bé Bronja là đứa con gái thật tuyệt diệu, chắc cũng được mười lăm tuổi. Tóc nó vàng hoe thắt bím chảy dài xuống người, tia mắt và thanh âm có vẻ thần thánh hơn là người. Tôi viết ra những lời nói của hai đứa bé:
- Boris à, mẹ muốn chúng mình đừng có sờ vào kính. Boris không muốn lại đây cùng dạo chơi sao?
- Ừ muốn lắm chứ. Không, không muốn.
Hai câu tương phản được nói ra một hơi. Bronja chỉ ghi nhận câu sau và nói lại:
- Sao thế?
- Trời nóng quá, trời lạnh quá. (Nó đã rời viễn kính.)
- Nào, Boris, nói biết nghe nào. Boris biết mẹ thích bọn mình đi chơi với nhau. Nón để đâu rồi?
- Vibroskomenopatof. Blaf blaf.
- Là nghĩa thế nào?
- Không có nghĩa.
- Thế thì nói làm gì?
- Để Bronja khỏi hiểu.
- Nếu không có nghĩa gì thì Bronja không hiểu cũng chẳng sao.
- Nhưng nếu có nghĩa đi nữa, tronja cũng chẳng hiểu đâu.
- Nói là để cho người khác hiểu chứ.
- Bronja muốn mình chơi trò đặt chữ để hai đứa riêng hiểu.
- Boris hãy gắng nói câu kéo cho thông đã.
- Mẹ Boris nói tiếng Pháp, Anh, Lỗ, Nga, Thổ, Ba Lan, Ý, Tây Ban Nha, Ba Lục Quả, Xi Xi Tu.
Những tiếng này được nói ra rất lẹ, như trong một cơn cuồng hứng.
Bronja bật cười:
- Boris khi nào cũng kể toàn chuyện không có thật là tại làm sao?
- Bronja không bao giờ tin chuyện Boris kể là tại làm sao?
- Khi nào có thật thì Bronja tin.
- Làm sao biết khi nào thì thật? Hôm nọ Boris tin Bronja lắm đấy chứ, khi Bronja kể chuyện thiên thần đấy. Này, Bronja: nếu Boris cầu nguyện ghê lắm, thì bronja có chắc là Boris cũng trông thấy được thiên thần không?
- Có thể thấy được, nếu Boris bỏ cái thói nói dối và nếu Chúa muốn cho Boris thấy; nhưng Chúa sẽ không cho Boris thấy nếu Boris chỉ cầu nguyện xin thấy mà thôi. Có nhiều cái thật đẹp, nếu mình bớt quấy, mình sẽ thấy hết.
- Bronja à, Bronja không quấy nên mới thấy được thiên thần. Còn Boris lúc nào cũng là thằng quấy.
- Tại sao Boris không tìm cách làm cho hết quấy? Boris bằng lòng hai đứa mình đi miết cho tới chỗ (đến đây là sự chỉ định một địa điểm mà tôi không biết) và đến đó cả hai đứa mình sẽ cầu nguyện Chúa và Mẹ Đồng Trinh cứu giúp cho Boris hết quấy.
- Phải. Không, thế này chứ: mình lấy một cái cây, Bronja nắm một đầu còn Boris đầu kia. Boris nhắm mắt lại và Boris hứa đến nơi mới mở mắt ra.
Hai đứa rời xa một đỗi; và trong khi chúng đi xuống bực cấp của sân thượng, tôi còn nghe Boris:
- Đấy, khoan, không phải đầu này. Chờ Boris chùi sạch đã.
- Sao thế?
- Tại Boris có đụng vào đấy.
Bà Sophroniska tiến lại phía tôi, khi tôi đang ngồi một mình, bữa ăn trưa xong xuôi, và chính tôi cũng đang tìm cách làm quen với bà. Tôi kinh ngạc thấy bà cầm trên tay tác phẩm mới nhất của tôi: bà hỏi tôi, nhoẻn miệng cười rất thanh nhã, rằng có phải là hiện đang được hân hạnh ngỏ lời với tác giả chăng: kế đó tức thì bà thao thao phê phẩm cuốn sách của tôi. Lời phê của bà, khen và chê, đối với tôi có vẻ thông minh hơn những người mà tôi thường nghe, dù quan điểm của bà chỉ là quan điểm văn chương. Bà bảo tôi bà hầu như chỉ quan tâm tới những vấn đề tâm lí và tới những gì có thể chiếu rọi tâm hồn con người bằng ánh sáng mới mẻ. Nhưng hiếm hoi thay, bà nói thêm, là bọn nhà thơ, kịch hay văn, biết chối nhận một thứ tâm lí dọn sẵn (thứ tâm lí duy nhất khả dĩ vừa lòng độc giả, tôi nói với bà thế).
Bé Boris được mẹ nó ủy thác trong dịp hè. Tôi dằn lòng không để lộ những lí do khiến tôi quan tâm đến nó.
- Khó chắt chiu nó lắm. - Bà Sophroniska bảo tôi. - Vòng giao thiệp của mẹ nó không được gì cho nó hết. Mẹ nó có bảo đi Saas-Fée cùng với tôi và Boris, nhưng tôi lại chỉ bằng lòng trông nom đứa bé nếu bà hoàn toàn giao phó nó cho tôi săn sóc thôi, bằng không, có chữa được cho nó không, tôi đâu chịu trách nhiệm. Ông nghĩ coi, - bà tiếp lời, - mẹ nó cứ đặt đứa bé vào một tình trạng kích động liên miên, làm cho những sự xáo trộn thần kinh dễ bề nảy nở trong người nó. Từ khi người cha chết, bà mẹ phải làm ăn. Bà chỉ dạy dương cầm và tôi phải nói là người đánh đàn vô song; nhưng lối chơi đàn quá tinh vi của bà không làm vừa lòng đại quần chúng được. Bà mới quyết định hát trong những buổi hòa nhạc, trong các hộp đêm, bước lên sân khấu. Bà đem Boris theo vào lô riêng của bà; tôi nghĩ rằng không khí giả tạo của rạp hát chỉ tổ làm cho đứa bé mất quân bình. Mẹ nó yêu nó lắm, nhưng nói cho ngay, thà nó đừng sống với mẹ nữa.
- Thật ra thì nó mắc phải gì? - Tôi hỏi.
Bà cười:
- Ông muốn biết tên chứng bệnh của nó chứ gì? Ấy! Nói ra một cái tên bác học hay ho, ông chẳng biết thêm được gì.
- Bà cho tôi biết nó đau gì thôi.
- Một mớ xáo trộn vặt vặt, những tật, những chứng, có thể nói: nó bệnh thần kinh, và thói thường ta săn sóc bằng vệ sinh và cho nghỉ ngơi ở nơi thoáng. Dĩ nhiên một cơ thể tráng kiện sẽ không để cho những xáo trộn đó tự tiện sinh sôi. Nhưng nếu vì suy nhược mà xáo trộn dễ bề sinh sôi đi nữa thì đó cũng chẳng phải là nguyên nhân chính. Tôi tin rằng mình luôn luôn có thể tìm ra căn do sự rúng động đầu tiên của đương sự phát sinh từ một biến cố nào đó cần nên khám phá cho ra. Con bệnh, kể từ khi trở nên ý thức được nguyên nhân, đã lành bệnh hết nửa. Nhưng thường khi nguyên nhân đó vuột ra khỏi kí ức của con bệnh: có thể nói rằng nó lẫn vào bóng tối bệnh trạng; chính tôi đang lục lạo nó ở đàng sau chỗ ẩn núp đó để đưa nó ra ánh sáng, tôi muốn nói, đưa nó vào trong vòng nhãn quan. Thiết tưởng một cái nhìn sáng suốt gột sạch lương tâm giống như lằn ánh sáng lọc nước nhiễm trùng.
Tôi thuật lại cho bà Sophroniska cuộc đàm thoại mà tôi nghe lỏm hôm qua và theo đó tôi có cảm tưởng Boris đã bình phục từ lâu.
- Cũng còn lâu tôi mới biết hết những gì cần biết về dĩ vãng của Boris. Tôi bắt tay vào việc điều trị cũng chưa lâu lắc gì.
- Thưa, chữa trị thế nào?
- Có gì đâu! Chỉ để cho nó nói. Mỗi ngày tôi sống một hai giờ bên nó. Tôi đặt câu hỏi, nhưng ít lắm. Điều quan trọng là thu phục được lòng tin tưởng của nó. Tôi đã biết nhiều chuyện. Tôi linh cảm nhiều chuyện khác. Nhưng thằng bé còn thủ thế, nó ngượng; nếu tôi nằng nặc thúc bách quá hay mạnh tay quá, tôi sẽ đi ngược lại điều tôi mong mỏi có được, là một sự thả lỏng hoàn toàn. Nó sẽ chống đối. Chừng nào tôi hãy còn chưa xóa bỏ sự thủ ý, e ấp của nó...
Công cuộc sát hạch mà bà nói với tôi đây có vẻ xâm phạm đến độ tôi khó lòng kiềm chế một động tác phản đối; may sao tính hiếu kì của tôi mạnh hơn.
- Thế có nghĩa là bà trông chờ thằng bé tiết lộ một vài điều trắng trợn chứ gì?
Đến lượt bà phản đối:
- Trắng trợn? Muốn được chẩn bệnh thì không còn gì gọi là trắng trợn. Tôi cần biết tất cả và đặc biệt là những cái người ta lo giấu giếm hơn cả. Tôi phải điều động Boris cho đến khi nó thú nhận hoàn toàn, chưa được thì không thể trị cho nó lành bệnh nổi.
- Hẳn nhiên bà ngờ nó nhiều điều thú nhận với bà? Xin lỗi, bà chắc không mớm cho nó nhiều điều mà chính bà mong muốn nó thú nhận chứ?
- Đã hẳn mối bận tâm đó không rời bỏ tôi và chính nó mách bảo cho tôi khí chậm. Tôi đã mục kích nhiều ông dự thẩm vụng về vô tình mớm cho một đứa bé lời khẩu cung được bày vẽ sẵn và đứa bé, dưới áp lực thẩm vấn, đã nói dối một cách thiện tín hoàn toàn, tin tưởng vào những điều tai hại giả tưởng. Vai trò của tôi là để cho mọi sự đưa đẩy và nhất là tuyệt không mớm ý. Muốn thế, cần kiên nhẫn phi thường.
- Tôi nghĩ rằng ở đây phương pháp cũng giá trị ngang bằng với người điều động.
- Tôi không dám nói thế. Tôi đoan chắc với ông rằng, sau một thời gian thực hành, mình sẽ đi đến một sự thuần thục phi thường, một thứ thần diệu, một thứ linh tính, nếu ông muốn. Tuy nhiên đôi khi ta có thể lao mình vào những lối đi lầm lạc, điều quan trọng là đừng nằm lì trong đó. Này, ông có biết chúng tôi khởi đầu nói chuyện như thế nào không? Boris bắt đầu bằng cách thuật lại cho tôi giấc mơ của nó hồi đêm.
- Ai bảo bà nó không bịa?
- Nó bịa đã sao?... Chuyện bịa đặt nào của óc tưởng tượng bệnh hoạn cũng tiết lộ.
Bà im lặng một lát, kế đó:
- Bịa đặt, tưởng tượng bệnh hoạn... Không! Không phải thế. Chữ nghĩa đánh lạc chúng ta. Boris, trước mặt tôi, nói mơ sang sảng. Hàng sáng, suốt một giờ đồng hồ, nó chịu sống trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó với những hình ảnh hình thành vượt sự kiểm soát của lí trí. Hình ảnh thu góp lại, liên kết với nhau không theo sự hợp lí thông thường nhưng theo những cảm ứng bất ngờ; nhất là chúng đáp đúng một sự đòi hỏi nội tâm huyền bí, chính sự đòi hỏi đó là cái cần khám phá; và những lời bông lông của một đứa bé hữu dụng cho tôi còn hơn là sự giải thích thông minh nhất có thể thực hiện được với con bệnh đầy ý thức hơn cả. Nhiều cái ra ngoài vòng luận lí, và kẻ nào muốn hiểu đời mà chỉ áp dụng có lí trí thì khác nào kẻ tự phụ lấy kẹp mà gắp lửa. Trước mặt y chỉ còn miếng gỗ than, thoắt một cái đã hết ngọn.
Bà lại ngừng nói và bắt đầu lật cuốn truyện của tôi.
- Đấy, sao các ông chẳng đi thật sâu vào lòng người, - bà nói lớn, rồi bỗng cười tiếp. - Ấy! Tôi không nói riêng gì ông: khi tôi nói các ông có nghĩa là những người viết tiểu thuyết. Phần lớn nhân vật của các ông như thể được xây dựng bay trên mặt đất, không nền móng, không có lớp hạ tầng. Tôi thật tình tin rằng, ở các thi sĩ, người ta tìm thấy nhiều điều thật hơn; mọi cái sáng tạo thuần lí trí đều sai lạc. Nhưng thôi, ở đây tôi bàn tới chuyện chẳng dính dự gì đến tôi... Ông có biết cái gì nơi con người của Boris đánh lạc hướng tôi? Đó là điều tôi tin rằng nó rất trong sạch.
- Sao bà bảo điều đó lại đánh lạc hướng bà?
- Vì nếu thế thì tôi không còn biết tìm đâu ra nguyên ủy của bệnh. Mười lúc thì hết chín, người ta tìm ra nguyên ủy loại xáo trộn như thế là một điều thầm kín to lớn xấu hổ.
Tôi nói:
- Trong mỗi chúng ta thì có lẽ người ta tìm ra, nhưng may chúng ta không vì thế mà bị bệnh tất cả.
Đến đây, bà Sophroniska đứng lên, bà vừa thấy Bronja đi qua cửa sổ. Bà chỉ đứa bé gái nói:
- Đấy, thầy thuốc thật sự của Boris đấy. Nó kiếm tôi, tôi phải cáo từ ông, nhưng sẽ gặp lại, ông nhỉ?
Những điều mà bà Sophroniska trách cuốn truyện không trình bày ra cho bà, những điều ấy tôi vẫn hiểu; nhưng ở đây một số lí do nghệ thuật, một số lí do cao hơn vượt ra ngoài tầm của bà, chính chúng bắt tôi nghĩ rằng một nhà văn hảo hạng theo trường phái tự nhiên không thể thành một nhà viết tiểu thuyết hảo hạng được.
Tôi giới thiệu Laura với bà Sophroniska. Hai người có vẻ tâm đầu ý hiệp và tôi lấy làm mừng. Tôi ít phải áy náy tách mình đi lẻ khi biết hai người đang trò chuyện với nhau. Tiếc rằng Bernard ở đây không tìm ra bạn cùng lứa; nhưng dù sao kì thi phải chuẩn bị cũng cầm chân nó một số giờ trong ngày. Tôi đã có thể trở lại bắt tay vào cuốn truyện của tôi.
* * *
III
Mặc cho cái vẻ bề ngoài thoạt tiên như thế, và dù mỗi người, nói theo chữ của người đời, đóng góp “mỗi người một ít”, mọi việc chỉ êm đẹp có một nửa giữa ông cậu Édouard và Bernard. Laura cũng không cảm thấy vừa lòng. Vừa lòng sao được? Hoàn cảnh buộc nàng thủ một vai trò bất đắc dĩ, tính hiền lương của nàng khiến nàng lúng túng ở trong đó. Cũng như những người con gái sẵn lòng yêu và dễ dạy hóa thành những người vợ chí thú, thì đây Laura, vốn muốn nương tựa, cần phải thích ứng, và cảm thấy mình kiệt lực từ buổi mình như tấm hình mất khung. Vị thế của nàng đối diện với Édouard ngày càng có vẻ sai trật. Điều mà nàng lấy làm khổ sở hơn cả, chỉ cần ngưng đọng tư tưởng một chút, điều trở nên khó chấp nhận, là sống bám vào con người bảo trợ này, hay nói khác hơn: là không đền đáp được gì, hay đúng hơn nữa: là Édouard không đòi hỏi nàng đền đáp gì, trong khi nàng cảm thấy mình sẵn sàng thuận cho chàng mọi điều. “Ân huệ,” lời của Tacite(10) do Montaigne thuật lại, “chỉ dễ chịu chừng nào ta có thể mang trả”; và có lẽ điều này chỉ đúng với những tâm hồn cao thượng, mà đương nhiên Laura thuộc loại này. Trong khi nàng những mong cho, thì chính nàng không ngớt nhận, và điều này khiến nàng hận Édouard. Hơn thế nữa, hễ hồi tưởng, nàng thấy như thể Édouard gạt gẫm nàng khi đánh thức dậy trong lòng nàng một mối tình mà nàng cảm thấy còn sống nóng, kế đó lại lẩn trốn tình và để nó vô hiệu. Há chẳng phải là lí do thầm kín lôi kéo những lí do lầm lạc của nàng, lôi kéo sự thành thân của nàng với Douviers, một sự thành thân mà nàng cam chịu, mà Édouard đưa nàng đến; kế đó, liền sau đó là lí do của sự buông xuôi của nàng theo lời mời gọi của mùa xuân? Bởi, nàng vẫn tưởng tới Édouard. Và, vì không thể tự giải thích cho mình sự lạnh nhạt của tình nhân, nàng quy lỗi về mình, tự nhủ mình có thể thắng được tình nhân nếu mình đẹp hơn hay bạo hơn; và, không ghét chàng nổi, nàng buộc tội mình, hạ giá mình, phủ nhận giá trị mình, từ khước lí do hiện diện của mình và hết nhìn nhận ưu điểm của mình.
Hãy nói thêm rằng cái lối sống nhổ trại này, vì cách sắp xếp của các phòng buộc phải thế, có thể đối với những người bạn kia là vui thú, thì lại làm tổn thương mọi nét tính e lệ trong nàng. Và nàng không thấy thoáng hiện một lối thoát nào cho tình trạng này, dù sao vẫn khó lòng kéo dài thêm.
Laura chỉ đào ra được chút ít an ủi và vui tươi khi bày biện ra trước mặt Bernard những nghĩa vụ mới mẻ làm mẹ đỡ đầu hay làm chị cả. Nàng cũng dễ cảm xúc đối với sự ngưỡng mộ của tên thiếu niên đầy vẻ khả ái; sự mến mộ đặc hưởng cầm giữ nàng lại trên triền dốc khinh bỉ bản thân, chán ngán, dễ đưa những kẻ bất định nhất đến những quyết định quá trớn. Mỗi buổi sáng, Bernard, khi nào không bị lôi kéo đi ngao du vào núi trước bình minh (vì hắn thích dậy sớm), để ra trọn hai giờ đọc Anh văn ở bên nàng. Kì thi hắn phải dự vào tháng mười là cái cớ dễ dàng cho hắn.
Thật tình ta không thể nói rằng nhiệm vụ thư kí đã chiếm nhiều thì giờ của hắn. Nhiệm vụ không được minh định, Bernard, hễ thi hành nhiệm vụ là đã hình dung mình ngồi trước bàn viết, viết theo lời đọc của Édouard, chép lại sạch sẽ những bản thảo, Édouard nào có đọc gì đâu; bản thảo, giá như có, vẫn được khóa kín trong hòm; giờ nào trong ngày Bernard cũng tự do, nhưng vì hoàn toàn tùy Édouard muốn sử dụng nhiều hơn một tấm lòng hăng hái chỉ đòi hỏi được sử dụng, nên chỉ Bernard không thắc mắc gì cho lắm về rảnh rỗi của mình và không thắc mắc về việc không đáng hưởng cái nếp sống khá rộng rãi này mà hắn hiện sống nhờ lòng khoan dung của Édouard. Hắn đã quyết không để mình lúng túng theo những lo âu. Hắn tin tưởng, tôi không dám bảo là ở trời, nhưng ít ra là ở ngôi sao chiếu mạng, và hắn tin rằng hắn được quyền hưởng một hạnh phúc nào đó giống như buồng phổi được hưởng không khí hít thở. Édouard là kẻ phân phối, giống như, theo Bossuet, nhà hùng biện thiên sứ là kẻ phân phối túi khôn của nhà trời. Huống chi, nếp sống hiện tại, Bernard cho là tạm bợ, đinh ninh có thể trang trải một ngày nào đó, và trang trải ngay khi hắn sẽ biến thành tiền bạc những của cải mà hắn dè chừng là vô lượng trong lòng hắn. Điều đúng ra làm hắn bực tức, là Édouard không lí tới vài cái năng khiếu mà hắn cảm nhận nơi mình vốn không tìm thấy ở Édouard. “Ông chẳng biết dùng mình.” Bernard nghĩ, dằn tự ái xuống rồi khôn ngoan nghĩ tiếp ngay. “Mặc”.
Nhưng thế thì, giữa Édouard và Bernard, sự khó xử do đâu mà có? Bernard thì có vẻ thuộc loại người tìm thấy lòng vững tin của mình trong sự chống đối. Hắn không chịu để cho Édouard trịch thượng và trước khi bị ảnh hưởng, hắn kình chống Édouard vốn không hề nghĩ đến việc uốn nắn hắn, khi thì giận dỗi, khi thì buồn lòng cảm thấy hắn bướng bỉnh, chực tự vệ hay ít ra là chực thủ thế. Rốt cục chàng hoài nghi không hiểu mình đã lỡ một bước chăng khi đem theo hai người mà hình như chàng ráp đôi là chỉ để cho cả hai liền tay chống lại chàng. Vô phương đi sâu vào tình cảm thầm kín của Laura, chàng coi sự lẩn tránh và thủ ý của nàng như là sự lạnh nhạt. Nếu hiểu rõ khúc nôi, chàng sẽ bối rối, Laura hiểu như thế; chung quy mối tình bẽ bàng chỉ còn dụng sức vào việc trốn tránh và nín tiếng mà thôi.
Giờ uống trà thường ngày quây tụ cả ba người vào trong gian phòng lớn; nhiều khi bà Sophroniska, được mời cũng góp mặt với họ, nhất là những ngày Boris và Bronja bỏ đi chơi. Với tuổi tác của chúng, bà vẫn để cho thật tự do; bà hoàn toàn tin tưởng ở Bronja, biết Bronja rất thận trọng, đặc biệt đối với Boris, còn Boris tỏ ra đặc biệt dễ nghe lời đối với Bronja. Vùng này thì an toàn, vì đối với chúng nó dĩ nhiên làm gì có chuyện mạo hiểm vào núi, đến như leo trèo các tảng đá kề cạnh khách sạn cũng không. Hôm ấy hai đứa trẻ được phép đi tới tận dưới chân ngọn băng hà, miễn đừng ra khỏi đường đi là được; bà Sophroniska, được mời uống trà, bạo miệng đến nỗi dám yêu cầu Édouard nói cho mọi người nghe về cuốn truyện tương lai của chàng, nếu chàng không lấy thế làm điều.
- Làm điều gì đâu, nhưng tôi không kể được.
Thế mà chàng như muốn nổi giận khi Laura hỏi chàng xem (đúng là câu hỏi vụng về) “cuốn truyện nó có giống cái thứ gì không”.
- Không giống cái thứ gì hết, - chàng lớn giọng, và như thể chàng chỉ chờ chực có lời khiêu khích đó. - Tại sao phải làm lại những cái mà người khác đã làm, hay chính tôi đã làm, hay nhiều người khác có thể làm?
Édouard vừa thốt nên những lời vừa rồi đã cảm thấy ngay không ổn và quá trớn và vô lí; ít ra, đối với chàng là có vẻ không ổn và vô lí; hoặc ít ra chàng sợ Bernard xét thấy như thế.
Édouard rất dễ bị nhột nhạt. Hễ ai đề cập với chàng về công việc của chàng, và nhất là hễ ai khiến chàng nói việc mình ra, tưởng chừng chàng mất bình tĩnh.
Chàng hoàn toàn khinh miệt sự khoác lác thường có của tác giả, chàng cũng hết lòng triệt hạ sự khoác lác của chính mình, nhưng chàng thích tìm thấy trong sự kiêng dè của người khác một sự vỗ về cho tính nhún nhường của mình; sự kiêng dè ấy thiếu mất ư, là lập tức nhún nhường tan hoang. Chàng rất quan tâm đến lòng quý mến của Bernard. Phải chăng để chinh phục lòng quý mến đó mà Édouard chưa chi đứng trước mặt hắn đã để cho cơn trào lòng nổi giận? Đó là cách dễ đánh mất lòng quý mến đó hơn cả, Édouard cảm thấy rõ như thế lắm chứ, chàng đã nhủ lòng, đã thầm nhắc nhở; thế mà, quyết định bao nhiêu đi nữa, hễ đứng trước mặt Bernard là chàng hành động khác hẳn ý muốn của mình ngay, và phát ngôn theo một lối mà chàng xét thấy là vô lí ngay (mà vô lí thật). Do đó người ta có thể nghĩ rằng chàng thích hành động như thế. Nhưng không, tôi không tin thế. Muốn bị chúng ta nhếch mép, mà muốn được chúng ta yêu thích cũng thế, một chút ít tự phụ đã đủ.
- Phải chăng, trong các loại văn nghệ, - Édouard diễn giảng, - vì tiểu thuyết vẫn là loại tự do hơn cả, vô luật lệ hơn cả... Có lẽ vì thế chăng, vì sợ ngay cái tự do đó (vì bọn văn nghệ sĩ nào thèm khát tự do hơn cả thường khi là bọn hốt hoảng hơn cả một khi đã được tự do) vì thế mà tiểu thuyết luôn luôn sợ phải bám víu vào thực tại chăng? Và tôi không nói riêng gì tiểu thuyết Pháp. Luôn cả tiểu thuyết Anh, tiểu thuyết Nga đã thoát được gò bó như thế đấy, vẫn làm nô lệ cho sự giống nhau trùng hợp. Tiến bộ duy nhất mà tiểu thuyết dự liệu, là tiến gần tới sự tự nhiên hơn nữa. Nó không hề được làm quen với sự “mòn góc cạnh một cách khủng khiếp” như Nietzsche(11) nói, và không hề làm quen với sự tách lìa cuộc sống một cách chủ ý, là hai đặc tính đã tô bồi cho bút pháp những kịch phẩm Hy Lạp chẳng hạn, hay những bi kịch thế kỉ XVII của Pháp. Có cái gì hoàn hảo hơn và nhân bản thâm sâu hơn những tác phẩm ấy? Nhưng quả nhiên là nhân bản một cách thâm sâu mà thôi, không tự hào là nhân bản một cách lồ lộ, hay ít ra không tự hào là thực tế một cách lồ lộ. Như thế vẫn là một tác phẩm nghệ thuật.
Édouard đứng lên, và, vì sợ lộ rõ vẻ giảng bài nên vừa nói chàng vừa rót nước, rồi đi đi lại lại, rồi vắt miếng chanh vào tách, nhưng vẫn nói tiếp:
- Nhân vì Balzac là một thiên tài, và vì mọi thiên tài dường như ghép vào nghệ thuật mình một lối giải quyết quyết định và độc nhất, người ta đã bày ra điều lệ rằng đặc tính của tiểu thuyết là cạnh tranh với “tình trạng dân giả” Balzac đã xây dựng tác phẩm của mình, nhưng không hề có ý đặt luật tắc cho tiểu thuyết; bài của ông viết về nhà văn Pháp Stendhal nêu rõ điều đó. Cạnh tranh với “tình trạng dân giả”! Làm như thể chưa có đủ bọn người ngợm cục súc ở đời này! Tình trạng dân giả mà làm gì chứ! Tình trạng là tôi, nghệ sĩ! Còn dân giả hay không, tác phẩm của tôi không có ý cạnh tranh cái gì hết.
Édouard bừng bừng, có lẽ giả tạo phần nào, bây giờ ngồi xuống lại. Chàng vờ không nhìn Bernard; nhưng chàng nói là để cho hắn. Nếu ngồi một mình với Bernard, chàng đã không biết nói gì, chàng biết ơn hai người đàn bà đã thúc đẩy chàng.
- Có khi tôi thấy hình như trong văn chương, thí dụ như trong kịch của Racine, tôi không phục gì cho bằng cuộc bàn cãi giữa Mithridate và con cái, dù ta biết rõ rằng cha con đời nào có thể nói năng với nhau như thế chứ, dù sao (đúng ra tôi phải nói là: chính vì thế) các người cha và hạng con cái dễ nhận diện mình qua đó. Khi định vị và đưa ra cái cá biệt là ta giới hạn. Chân lí về tâm lí có chăng là khi nó riêng biệt, quả như vậy, nhưng nghệ thuật thì chỉ có nghệ thuật tổng quát. Tất cả vấn đề là ở đấy, chính thế, diễn cái tổng quát bằng cái riêng biệt, nhờ cái riêng biệt mà diễn cái tổng quát. Tôi châm ống điếu được chứ?
- Xin tự nhiên, tự nhiên, - Sophroniska nói.
- Đấy! Tôi muốn tiểu thuyết làm sao vừa thật như thực tế, vừa xa rời thực tế, vừa riêng biệt vừa tổng quát đồng thời vừa có nhân tính mà vừa ảo tưởng, như Athalie, như Tartuffe hay Cinna.
- Thế... đề tài tiểu thuyết đó?
- Không có đề tài, - Édouard vụt đáp, - và có thể đó là cái đáng lạ lùng hơn cả. Cuốn tiểu thuyết của tôi không có đề tài. Phải, tôi biết lắm, tôi nói đây có vẻ lớ ngớ. Nếu bà muốn, ta hẵng cho rằng nó không có một đề tài mà thôi vậy... “Một đoạn đời”, chữ của trường phái tự nhiên. Khuyết điểm lớn của trường phái này là bao giờ cũng cắt cái đoạn đời theo mỗi một chiều, chiều dài theo thời gian. Tại sao không là chiều rộng? Hay chiều sâu? Còn tôi, tôi không muốn cắt gì hết. Hiểu giùm tôi: tôi muốn đưa mọi thứ vào, vào trong tiểu thuyết đó. Khỏi có cắt xén chỗ này hay chỗ kia để ngăn chặn cái chất của nó lại. Từ hơn một năm nay viết nó, chẳng hề có biến sự nào mà tôi lại không đổ tháo ra, lại không có ý muốn cho vào tác phẩm: thấy được gì, biết được gì, tất cả những gì mà đời sống tôi, đời sống người mách bảo cho tôi...
- Rồi kết tinh các cái lại chứ?
Sophroniska hỏi, ra vẻ chăm chú hết mực, nhưng e có một phần mai mỉa. Laura không ngăn nổi nụ cười nhẹ. Édouard khẽ nhún vai rồi nói tiếp:
- Thế cũng chưa phải là điều tôi muốn thực hiện. Điều tôi muốn, một đàng là trình bày thực tại, đàng khác là trình bày chính cái nỗ lực kết tinh thực tại mà tôi vừa nói.
- Trời đất, anh bắt độc giả chán chết được, - Laura bảo, nàng không còn che giấu nổi nụ cười lâu hơn, phát ra cười thẳng thắn.
- Không đâu. Muốn được thế, xin theo dõi ý tôi, tôi bày ra một nhân vật tiểu thuyết gia đặt làm khuôn mặt trung ương, còn như đề tài cuốn truyện, nếu muốn, thì chính là sự vật lộn giữa những gì mà thực tại cung ứng cho người viết tiểu thuyết và những gì y định làm.
- Phải, phải, tôi hình dung ra, - Sophroniska lễ phép nói, sắp sửa bị nụ cười của Laura lây sang. - Cũng khá lạ đấy chứ. Có điều, anh cũng biết, trong tiểu thuyết trình bày bọn trí thức là luôn luôn nguy hiểm. Bọn họ bắt công chúng nhừ nhẫn, rồi cũng chỉ khiến cho bọn họ thốt toàn những lời láo lếu, và hễ bọn họ chạm vào cái gì là truyền một vẻ trừu tượng thế nào vào đó.
Laura lớn tiếng:
- Vả lại tôi thấy rõ điều này sẽ phải xảy ra: trong vai trò tiểu thuyết gia đó, anh sẽ không làm gì khác hơn là tự họa lấy mình.
Từ nãy giờ, nói chuyện với Édouard, Laura đã lấy giọng chế giễu, là điều chính nàng không ngờ, Édouard cũng mất hết điểm tựa, nhất là khi chàng bắt gặp một thấp thoáng trong ánh mắt tinh quái của Bernard. Édouard cãi:
- Không có đâu, tôi cần tạo ra nhân vật đó thật khó chịu.
Laura sẵn trớn:
- Đấy: mọi người sẽ nhận ra được anh qua nhân vật đó, - nàng vừa nói vừa cười giòn giã thẳng thắn khiến ba người kia cười theo.
Sophroniska cố làm nghiêm trở lại, hỏi:
- Thế cốt truyện xong chưa ạ?
- Thưa dĩ nhiên là chưa.
- Nói lạ! Sao lại dĩ nhiên chưa?
- Bà nên hiểu, cốt truyện cho loại truyện đó, ngay từ trong tinh thể của nó, là một điều không thể chấp nhận. Nếu định trước bất cứ gì là sẽ lệch lạc mất. Tôi chờ thực tại mách bảo cho tôi.
- Thế mà tôi vẫn tưởng ông muốn xa rời thực tại chứ.
- Nhân vật tiểu thuyết gia của tôi muốn xa rời, nhưng tôi không ngớt đưa hắn trở về lại thực tại. Thật sự, đề tài là đó: sự vật lộn giữa những sự kiện được thực tại đề ra và thực tại ý niệm.
Tính cách phi luận lí trong lời lẽ chàng có vẻ hiển nhiên, lộ liễu một cách nặng nhọc. Rõ ràng đầu óc chàng đang ấp ủ hai yêu sách bất tương hợp, và chàng thì nằng nặc muốn hòa hợp cả hai.
Sophroniska lịch sự hỏi:
- Thế ông viết được nhiều rồi?
- Cái đó còn tùy theo cách bà quan niệm. Nói cho ngay, chính cuốn truyện, tôi chưa viết dòng nào. Nhưng lao tâm thì đã lắm. Tôi tưởng tới nó hằng ngày, không ngừng. Lối làm việc của tôi kì lắm, ôi xin thưa cùng mọi người: tôi ghi hằng ngày vào sổ tay cái tình trạng cuốn truyện thành hình trong óc tôi; vâng, tôi đang thủ một loại nhật kí, như viết nhật kí về một đứa con... Nghĩa là thế này, mỗi sự khúc mắc tuần tự đề ra, thay vì bằng lòng giải quyết (mà mọi nghệ phẩm cũng chỉ là tổng số hay tích số những giải đáp cho một số lượng những khúc mắc nhỏ nhặt liên tiếp), tôi lại dàn bày ra, tôi nghiên cứu, mỗi một khúc mắc đó. Đấy, cuốn sổ tay chứa đựng sự bình phẩm liên tục về cuốn tiểu thuyết hay còn hơn thế nữa; về tiểu thuyết nói chung. Hãy nghĩ tới sự lợi ích cho chúng ta nếu Dickens hay Balzac thủ một cuốn sổ tay như thế; phải chi chúng ta có được nhật kí về cuốn Luyện Tình cảm, hay cuốn Anh em Karamazov! Sự tích của tác phẩm, sự tích sự hoài thai của tác phẩm! Đáng mê biết bao nhiêu... hữu ích còn hơn chính tác phẩm...
Édouard mơ hồ ước mong được yêu cầu đọc những lời ghi chép đó. Nhưng cả ba người, không ai lộ chút hiếu kì nào. Trái lại là khác:
- Khổ cho anh, - Laura nói đượm buồn. - Cuốn truyện đó, em thấy rõ là chẳng bao giờ anh viết ra.
Édouard bồng bột vọt miệng:
- Ấy! Tôi xin nói một điều là: nếu thế, tôi cũng không cần. Phải, nếu viết không thành, thì nghĩa là sự tích cuốn truyện đối với tôi đáng quan tâm hơn chính cuốn truyện, nó đã chiếm chỗ cuốn truyện, và như thế càng hay.
- Ông không sợ, khi rời thực tại, mình lạc vào những vùng trừu tượng thê thảm, và tạo thành một tiểu thuyết không phải bằng người sống động mà bằng tư tưởng sao? - Sophroniska ngại ngùng lên tiếng.
- Vẫn được chứ sao! - Édouard mạnh tiếng hơn. - Lẽ nào vì bọn vụng về lỡ sểnh chân vào đó mà ta phải kết án tiểu thuyết tư tưởng sao? Về loại tiểu thuyết luận đề, cho tới nay người ta chỉ dọn cho chúng ta toàn tiểu thuyết luận đề mạt hạng. Nhưng đâu có chuyện như thế, các người nghĩ coi. Tư tưởng... tư tưởng, thú thật, làm tôi quan tâm còn hơn là con người. Tư tưởng sống, tranh đấu, ngắc ngoải như người ta vậy. Dĩ nhiên có thể bảo rằng mình biết tư tưởng cũng chỉ là do người, cũng như biết có gió là nhờ những lau sậy uốn mình; nhưng mà gió quan trọng hơn lau sậy chứ.
- Gió vẫn có thể không can hệ gì đến lau sậy, - Bernard ướm lời.
Sự xen lời của Bernard làm Édouard đánh thót, chàng chờ đợi hắn nãy giờ.
- Phải, tôi biết: tư tưởng chỉ có là nhờ người ta, nhưng điều bi thảm là: tư tưởng sống bám vào người.
Bernard nghe ngóng câu chuyện chăm chú vừa phải, hắn lấy làm ngờ lắm, và thiếu chút nữa hắn cho Édouard là phường mơ hão; nhưng trong những giây phút về sau, sự hùng biện của chàng làm hắn cảm, hắn cảm thấy tư tưởng mình rạp đầu dưới ngọn gió hùng biện kia; nhưng, Bernard thầm nhủ, như ngọn lau sau khi gió đã qua mất, tư tưởng mình ngỏng đầu dậy tức thì. Hắn hồi tưởng nhiều điều học trong lớp: đam mê dẫn dắt con người chứ không phải tư tưởng. Cùng lúc, Édouard nói tiếp:
- Hiểu giùm tôi: điều tôi muốn làm là một cái gì như thể là nghệ thuật tấu khúc. Và tại sao trong âm nhạc thì làm được mà trong văn chương lại không được chứ...
Sophroniska cãi lại rằng âm nhạc là một nghệ thuật có tính cách toán học, và, hơn thế nữa, bây giờ chỉ nên đặc biệt kể đến con số mà thôi, loại bỏ cái vẻ bi ai và nhân tính ra ngoài, Bach đã thành tựu đại tác phẩm trừu tượng về nỗi chán chường, một thứ điện đài thiên văn mà chỉ có một số hiếm hoi kẻ nhập môn vào tới được. Lập tức Édouard phản công lại rằng chàng cảm thấy điện đài ấy đáng quý, chàng cho đó là điểm cuối cùng và chóp đỉnh của sự nghiệp Bach.
Laura bồi thêm:
- Sau đó thiên hạ thoát khỏi cái nạn tấu khúc trong một thời gian dài. Hết tìm ra chỗ nương tựa, xúc cảm của con người đi tìm nơi khác vậy.
Cuộc đấu khẩu rối rắm theo những lối xảo ngôn. Nãy giờ ngồi im và bắt đầu sốt ruột, Bernard hết chịu nổi; bằng một vẻ vô cùng nhã nhặn, quá đáng nữa là khác, lần nào hắn ngỏ lời với Édouard cũng thế, nhưng bằng một vẻ khoái hoạt nào đó hình như làm cho vẻ nhã nhặn thành một lối nói chơi, Bernard góp lời:
- Tôi xin lỗi, vì có biết nhan đề cuốn sách của ông, vì tò mò đấy thôi nhưng thiết tưởng ông đã vui lòng làm ngơ. Hình như nhan đề đó báo trước một câu chuyện thì mới phải chứ?...
- Thế à! Nói nhan đề ra cho mọi người nghe với, - Laura lên tiếng.
- Nếu Laura muốn... Nhưng tôi báo trước tôi có thể sửa đổi. Tôi sợ cái tít đó phần nào phỉnh phờ... Bernard nói đi.
Bernard nói:
- Ông cho phép?... Bọn làm bạc giả. Nhưng bây giờ, đến lượt ông, ông cho chúng tôi hay: bọn làm bạc giả... là những ai thế?
- Tôi đâu có biết, - Édouard đáp.
Bernard và Laura hết nhìn nhau lại nhìn Sophroniska, người ta nghe có tiếng thở ra thườn thượt, do Laura thì phải.
Thật tình khi nghĩ đến bọn làm bạc giả, Édouard thoạt tiên nghĩ đến một vài đồng nghiệp và nổi hơn hết là nghĩ tới bá tước Passavant. Nhưng liền đó, sự gán ghép được nới rộng vô cùng, và theo ngọn gió tâm tưởng từ La Mã hay từ nơi khác thổi về, những nhân vật chính của chàng tùy theo đó mà trở thành bọn mục sư hay bọn đảng viên mật đảng. Trí óc chàng, nếu được buông thả, sẽ chao nhanh vào cõi trừu tượng cho chàng trầm đắm tha hồ trong đó. Những ý nghĩ về mậu dịch, giảm giá, lạm phát sẽ dần dà chiếm chỗ trong sách của chàng, cũng như những lí thuyết về y phục chiếm chỗ trong cuốn Sartor Resartus của Carlyle - trong cuốn này những lí thuyết đó tiếm vị của nhân vật. Édouard đâu có thể nói ra những điều ấy, chàng im lặng một cách vụng về nhất, và sự im lặng của chàng có vẻ như một thú nhận bí lối, nó bắt đầu làm cho ba người kia khó nghĩ vô cùng. Cuối cùng chàng mới hỏi:
- Có ai đã có dịp cầm bạc giả trong tay chưa?
- Thưa có, - Bernard đáp; nhưng tiếng “Chưa” của hai người đàn bà lấp mất tiếng của Bernard.
- Được rồi! Hãy tưởng tượng một đồng tiền vàng mười franc giả. Thật ra nó chỉ đáng giá hai xu thôi. Chừng nào không nhận biết là giả thì nó vẫn đáng giá mười quan. Thế thì, giả như tôi khởi đi từ ý tưởng là...
Bernard sốt ruột ngắt lời:
- Nhưng tại sao lại khởi đi từ một ý tưởng? Nếu ông khởi đi từ một sự kiện được dàn bày rõ ràng thì ý tưởng sẽ tự nó đến ăn nhập vào đó. Giả như tôi viết Bọn làm bạc giả, tôi sẽ bắt đầu bằng cách trình bày mẩu bạc giả, cái đồng tiền nhỏ ông vừa đề cập đấy... tôi có đây.
Vừa nói, hắn rút trong túi áo gi lê một đồng tiền mười franc nhỏ, vứt xuống bàn.
- Đấy, cũng kêu lanh lảnh gần như đồng tiền khác. Dễ thường người ta đoán chắc là bằng vàng. Tôi đã bị nhầm sáng hôm nay, cũng như ông bán tạp hóa thối tiền cho tôi cũng bị nhầm, chính ông bảo tôi như thế. Chắc nó không nặng bằng nhau, nhưng vẫn lấp lánh và tiếng ngân cũng gần giống như đồng tiền thật; lớp mạ thì bằng vàng, cho nên dù sao giá trị cũng hơn bốn xu một tí, kì thật thì bằng thủy tinh. Dùng nhiều, nó sẽ trong trẻo ra. Đừng, ông đừng xát, hỏng mất của tôi, Chưa chi trông nó đã gần trong suốt từ bên này sang bên kia rồi đó.
Édouard cầm đồng tiền lên và nhìn ngắm tò mò chăm chú lắm.
- Nhưng còn ông bán tạp hóa lấy đồng tiền này của ai?
- Ông ta không biết. Ông đoán là ông giữ cất nó đã nhiều ngày trong ngăn kéo. Ông thối cho tôi, đùa bỡn thế thôi, xem thử tôi bị mắc lỡm không. Thú thật tôi đã chực lấy, nhưng vì ông lương thiện, ông giải ngộ cho tôi, rồi để lại cho tôi với giá năm franc. Ông muốn cất giữ để đưa ra cho bọn mà ông gọi là bọn ‘tay chơi”. Tôi đã nghĩ rằng là khó có tay chơi nào trội hơn tác giả của Bọn làm bạc giả; tôi lấy là để đưa ra cho ông đấy. Nhưng bây giờ ông đã xem xét rồi thì trả lại tôi vậy! Tôi thấy thực tại không khiến ông lưu tâm, thì thôi!
Édouard bảo:
- Tôi lưu tâm chứ, nhưng nó làm tôi xốn xang.
- Đáng tiếc, - Bernard nói.
NHẬT KÍ Édouard
Cùng đêm ấy - Sophroniska, Bernard, và Laura chất vấn tôi về cuốn truyện. Tại sao tôi chịu nói? Chỉ vì nói ra toàn những điều lảm nhảm. May ngắt ngang được vì hai đứa bé trở về; chúng đỏ phừng cả người, hổn hển ra vẻ đã chạy nhiều. Về tới là Bronja chồm ngay tới mẹ, tôi tưởng chừng nó chực khóc. Bronja nói lớn:
- Mẹ ơi, mẹ rầy Boris một tí đi mẹ. Nó đòi nằm truồng giữa tuyết đấy.
Sophroniska nhìn Boris đang đứng ở bực cửa, gằm gằm và nhìn chằm chằm có vẻ gần như ghét hận; bà làm ra vẻ không nhận thấy sự biểu lộ tình cảm khác thường của thằng bé, nhưng bà cũng đã lên tiếng, trầm tĩnh lạ lùng:
- Này cháu, Boris, buổi chiều không nên làm thế. Nếu cháu thích, sáng mai mình sẽ đến nơi đó, nhưng cháu sẽ thử đi chân không trước đã...
Bà dịu dàng vuốt ve trán con gái, nhưng con bé đột ngột ngã ra đất và lăn lộn. Chúng tôi cũng khá ngại, Sophroniska xốc lấy nó và đem đặt lên ghế sô pha. Boris, không nhúc nhích, gương mặt ngớ ngẩn nhìn cảnh tượng.
Tôi tin những phương pháp giáo dục của bà Sophroniska tuyệt hảo trên mặt lí thuyết, nhưng có thể bà lạm dụng sức bền bỉ của con cái.
- Bà làm như thể cái tốt bao giờ cũng phải thắng cái xấu, - tôi bảo bà như thế sau đó một tí, khi chỉ có mình tôi với bà. (Sau bữa ăn, tôi đi hỏi thăm tình hình của Bronja đã bỏ bữa ăn).
Bà bảo:
- Thật vậy. Tôi vững tin rằng cái tốt phải thắng. Tôi có lòng tin.
- Nhưng quá tin tưởng thì bà có thể nhầm lẫn...
- Hễ khi nào tôi nhầm, tức là lòng tin của tôi không đủ mạnh. Hôm nay, khi để cho bọn nhỏ đi chơi, tôi yếu lòng để lộ một tí lo âu, chúng nó cảm nhận ra mà sinh ra cớ sự.
Bà cầm lấy tay tôi:
- Ông có vẻ không tin uy lực những điều xác tín... tôi muốn nói: tin cái tác dụng của những điều xác tín.
Tôi cười bảo:
- Tình thật tôi không phải là kẻ tin chuyện thần bí.
Bà vụt nói tràn đầy hùng khí:
- Còn tôi! Tôi hết lòng tin tưởng rằng, nếu không có thần bí, ở đời này không có gì lớn, không có gì đẹp hết.
Khám phá thấy trên danh sách du khách có tên Victor Strouvilhou. Theo lời chỉ dẫn của ông chủ khách sạn, chắc hẳn nó rời Saas-Fée hai hôm trước khi chúng tôi đến, sau khi ở lại đây gần một tháng. Tôi cũng tò mò muốn gặp lại nó. Có thể bà Sophroniska có lui tới thấy nó. Phải hỏi bà mới được.
* * *
(10) Tacite (~56 - ~117) là một nhà sử học La Mã nổi tiếng.
(11) Friedrich Nietzsche (1844-1900) là nhà triết học, phê bình văn hóa, nhà thơ, nhà soạn nhạc, hoạc giả tiếng La-tinh và tiếng Hy Lạp, người Đức.
IV
Bernard nói:
- Cô Laura, tôi muốn hỏi cô: cô có nghĩ rằng trên trái đất này chẳng có gì là không đáng nghi?... Đến độ tôi không biết mình có thể lấy ngay sự nghi ngờ làm điểm tựa được chăng; bởi vì, rốt cục, thiết tưởng, ít ra có bao giờ ta thoát khởi nghi ngờ. Tôi có thể nghi ngờ sự hiện hữu của mọi thứ, nhưng không thể nghi ngờ sự hiện hữu của nghi ngờ. Tôi muốn... Xin lỗi nếu tôi diễn đạt một cách hợm hĩnh; bản chất tôi không phải thế, nhưng tôi học lớp triết, và cô không thể tin được rằng bài luận văn thường làm đã in thành nếp vào trí óc, xin bảo đảm với cô là tôi sẽ sửa mình.
- Thêm thắt điều đó làm gì thế? Anh muốn...?
- Tôi muốn viết câu chuyện về một người trước hết là lắng nghe, rồi, theo cách của Panurge(12), thăm dò từng người trước khi quyết định bất cứ việc gì, sau khi đã cảm thấy ý kiến của người này người kia mâu thuẫn trên từng điểm một, nó quyết định chỉ còn nghe bản thân mà thôi rồi liền đó trở nên một người rất uy lực.
- Dự định của ông cụ non đấy. - Laura nói.
- Tôi già dặn hơn cô tưởng. Từ mấy hôm nay, tôi viết sổ tay, cũng như Édouard! Trang bên phải tôi viết ra một ý kiến, trong khi ở trang bên trái, để đối chiếu, tôi có thể ghi ý kiến ngược lại. Đấy, chẳng hạn như hôm nọ bà Sophroniska bảo bà để cho Boris với Bronja ngủ mở cửa sổ. Những lời bà nói để bênh vực cho cách sống đó đối với chúng ta tỏ ra hoàn toàn hữu lí và dễ minh chứng. Nhưng mới hôm qua đây, trong phòng hút thuốc khách sạn, tôi có nghe ông bác sĩ người Đức mới đến, ông ta lại bênh vực một luận thuyết tương phản mà thú thật tôi thấy còn hữu lí và có căn cứ hơn. Ông ta bảo, điều quan trọng trong khi ngủ là hạn hẹp tối đa, những mất mát và cái vận hành trao đổi đúng như sự sống đòi hỏi, ông gọi đó là hiện tượng gia thêm chất vào chất khác, chính nhờ thế này giấc ngủ mới trở nên bồi bổ thật sự. Ông lấy ví dụ loài chim rúc đầu vào cánh, tất cả những con thú thu mình lại để ngủ đến độ như ngạt thở; ông bảo, thì cũng thế, những hạng người gần thiên nhiên hơn hết, bọn nông dân ít học nhất cứ ru rú trong phòng ngủ; bọn Ả-rập, buộc phải ngủ ngoài trời, thì lại kéo nắp áo choàng chụp xuống mặt cho được. Nhưng, trở lại trường hợp bà Sophroniska với hai đứa bé do bà giáo huấn, tôi lại nghĩ rằng bà vẫn không sai lầm, và điều tốt đẹp đối với bọn khác có thể có hại đối với chúng nó, vì theo tôi hiểu, chúng có mang mầm mống lao phổi trong người. Nói tóm lại, tôi tự nhủ... Nhưng thôi, tôi làm cô chán ngắt.
- Đừng ngại. Anh tự nhủ gì...?
- Tôi không biết nữa.
- Nào! Lại làm bộ. Đừng ngượng ngùng vì ý nghĩ của anh.
- Tôi tự nhủ không có gì là tốt cho tất cả mọi người, chỉ tốt đối với một số người thôi, không có gì là thật đối với tất cả, mà chỉ đối với kẻ nào cho là thật; tôi tự nhủ không có phương pháp hay lí thuyết nào mà khỏi áp dụng riêng rẽ cho từng cá nhân, còn như nếu muốn chọn lựa để hành động thì ít ra ta phải được tự do chọn lựa, nếu không được tự do chọn lựa, thì sự thể lại giản tiện hơn, nhưng điều này đối với tôi mới là điều thật (có lẽ không thật một cách tuyệt đối, nhưng đối với tôi là thật) và cho phép tôi tận dụng sức lực, và sở trường của mình. Bởi cùng một lúc tôi không thể vừa tha hồ ngờ vực vừa sợ cho thái độ lưỡng lự. “Cái gối vừa êm vừa dịu” của Montaigne không phải để cho tôi gối đầu, vì tôi chưa buồn ngủ, tôi cũng không muốn nghỉ ngơi. Con đường còn dài, đi từ con người dự tưởng của tôi đến con người có lẽ là thật sự của tôi. Đôi khi tôi sợ mình tỉnh ngủ quá sớm.
- Anh sợ?
- Không, tôi có sợ cái gì đâu. Nhưng cô có biết chăng tôi đã thay đổi nhiều, hay ít ra cảnh tượng nội tâm của tôi không còn như ngày tôi bỏ nhà ra đi, tôi đã gặp cô từ bữa đó. Lập tức tôi chấm dứt cuộc tìm kiếm tự do được đặt lên hàng đầu. Có lẽ cô không hiểu rõ rằng tôi đang phục vụ cô.
- Tôi phải hiểu làm sao đây?
- Ô! Cô rõ lắm mà. Sao cô muốn bắt tôi nói ra? Cô chờ tôi thổ lộ chăng?... Không, không, tôi xin cô, đừng khỏa lấp nụ cười của cô, bằng không tôi rét mất.
- Nào, chàng trai thân mến, anh không cho rằng anh bắt đầu yêu tôi đấy chứ?
- Không! Tôi không bắt đầu, - Bernard đáp. - Chính cô bắt đầu cảm thấy điều đó thì có lẽ, nhưng cô không được ngăn cản tôi.
- Trước đây, tôi không e dè đối với anh, điều thú vị biết bao. Giờ đây, đến gần anh mà phải đề phòng, như đề phòng một chất dễ bén lửa, thì... Anh hãy tưởng tới cái con người lệch dạng và cứng sựng nay mai của tôi. Cá