Phần Thứ Ba.
Chừng nào chúng ta còn có một vài địa phương chí mới mẻ và có giá trị - lúc bấy giờ, chỉ lúc bấy giờ, thu góp, so sánh, đối chiếu những dữ kiện, người ta mới có thể xét lại vấn đề tổng quan, ban cho vấn đề này tiến một bước mới mẻ và quyết định. Nếu dùng phương thức khác, thì có nghĩa là khởi đi, với hai ba ý tưởng đơn giản và thô sơ, để đến một loại hành trình chóng vánh. Trong phần đông trường hợp, thì có nghĩa là đi phớt qua bên ngoài cái cá biệt, cái cá nhân, cái ngoại lệ - nghĩa là, nói tóm lại, phớt qua bên ngoài cái hữu ích hơn cả.
LUCIEN FEBVRE, Trái đất và tiến hóa nhân loại
* * *
I
Sự trở về Paris không gây cho nó niềm thích thú.
FLAUBERT, Luyện tình cảm.
NHẬT KÍ Édouard
Ngày 22 tháng 9 - Nóng nực, chán. Trở về Paris sớm trước tám ngày. Sự hấp tấp của tôi bao giờ cũng khiến tôi đi trước sự mời gọi. Hiếu kì hơn là nhiệt tâm, muốn đi trước. Trót khao khát nên không đời nào tôi biết phối trí.
Đưa Boris về với ông nội nó. Bà Sophroniska hôm trước đó đã đi báo cho ông cụ biết, bà cho tôi hay rằng bà cụ đã nhập viện dưỡng lão. Thở phào!
Tôi để thằng bé ở lại trên đầu cầu thang sau khi đã bấm chuông, nghĩ rằng tránh tham dự buổi tượng kiến đầu tiên là việc làm ý nhị hơn, tôi ngại những lời cảm tạ của ông cụ. Về sau, cật vấn thằng bé, vẫn vô hiệu. Tôi gặp lại Sophroniska thì bà bảo rằng thằng bé cũng không tiết lộ gì nhiều hơn với chính bà. Một tiếng đồng hồ sau, như ước hẹn, bà đi đón nó thì một người tớ gái ra mở cửa; bà Sophroniska bắt gặp ông cụ ngồi trước một bàn cờ, thằng bé ngồi tận trong góc cuối phòng, đỏng đảnh. Ông cụ La Pérouse sượng người.
- Lạ thật, cháu nó có vẻ khoái chứ, thế mà bỗng nhiên đâm ra chán. E nó thiếu kiên nhẫn phần nào...
Để hai ông cháu đối đầu với nhau quá lâu là điều không nên không phải.
Ngày 27 tháng 9 - Sáng nay gặp anh Molinier ở Odéon. Pauline và Georges ngày mốt mới về. Một mình ở Paris từ hôm qua, nếu Molinier buồn chán như tôi, thì cái vẻ vui mừng của anh khi gặp lại tôi không có gì lạ. Chúng tôi đến ngồi ở vườn Luxembourg, đợi giờ ăn trưa, chúng tôi định ăn với nhau.
Với tôi Molinier gượng dùng giọng bông lơn, đôi khi lại còn náo hoạt, mà có lẽ anh nghĩ là có tính chất làm cho nghệ sĩ ưa ý. Một âu lo tỏ ra mình còn thanh xuân.
Anh tuyên bố với tôi:
- Bên trong, tôi là một con người đam mê.
Tôi hiểu anh ngụ ý: mê nhục dục. Tôi cười mỉm, như khi ta nghe một người đàn bà tuyên bố mình có chân đẹp, nụ cười có nghĩa là: “Tôi có ngờ vực gì đâu, tin đi.” Cho đến ngày nay, tôi chỉ thấy con người luật gia ở nơi anh mà thôi, giờ đây thì con người đàn ông đã vạch áo pháp quan.
Tôi đợi an tọa trong nhà hàng Foyot mới đề cập đến Olivier, cho anh biết tôi vừa được tin hắn nhờ một người bạn hắn và tôi được tin hắn du lịch tại Corse cùng với bá tước Passavant.
- Đúng thế, bạn của Vincent đấy, Passavant đã đề nghị với Vincent đem Olivier theo. Vì Olivier vừa đỗ tú tài khá cao, mẹ nó nghĩ rằng không nên từ chối cho nó vui... Một nhà văn học, bá tước Passavant. Chắc cậu có quen chứ?
Tôi cũng không giấu giếm rằng tôi không thích gì sách cũng như con người của anh chàng ấy.
Molinier chống chế:
- Đồng nghiệp với nhau đôi khi phê phán hơi khắt khe. Tôi có gắng công đọc cuốn tiểu thuyết mới nhất của Robert de Passavant mà một số nhà phê bình nói tới rầm rộ. Tôi chẳng thấy gì lắm ở trong đó, nhưng cậu biết, tôi chẳng phải người cùng hội cùng thuyền...
Tiếp theo, vì tôi bày tỏ mối quan ngại về ảnh hưởng khả hữu của Passavant đối với Olivier, anh rề rà nói tiếp:
- Nói cho ngay, cá nhân tôi không tán thành cuộc du lịch đó. Nhưng phải nhìn nhận rằng bắt đầu từ tuổi nào đó, con cái lách ra khỏi mình. Đó là lẽ thường, chịu thôi. Pauline thì muốn cúi xuống con cái như xưa. Bà giống mọi bà mẹ. Đôi khi tôi nói với bà: “Bà làm con cái bực mình. Thì hãy để chúng yên coi. Chính bà hỏi han chúng nó là gợi ý cho chúng...” Còn tôi, tôi cho rằng hà tất rình rập chúng lâu. Điều quan trọng là một lần ban đầu giáo dục truyền thụ cho chúng một số nguyên tắc tốt đẹp. Điều quan trọng, thứ nhất là thừa hưởng được của cải. Huyết thống, cậu nhỉ, cậu thấy là nó hơn tất cả. Có những phần tử xấu vô phương cải thiện thì người ta gọi là bọn người trời bắt thế. Bọn này, cần phải cầm chân ráo riết. Nhưng hễ gặp những bản chất tốt, mình có thể nới dây cương một phần.
Tôi vẫn một mực:
- Thế mà anh bảo tôi rằng vụ bắt Olivier đem đi không được sự thỏa thuận của anh.
Molinier cúi đầu vào đĩa, nói:
- Ối dào! Thỏa thuận của tôi... thỏa thuận, đôi khi họ kể gì tôi thỏa thuận. Phải nhìn nhận rằng trong đời sống vợ chồng, và tôi nói tới những cặp hòa hợp hơn cả, rằng là không phải bao giờ cũng là người chồng quyết định. Cậu chưa vợ, vấn đề chẳng bổ béo gì cho cậu...
Tôi cười bảo:
- Xin lỗi anh, tôi là người viết truyện.
-Thế thì chắc cậu có thể nhận thấy rằng không phải luôn luôn vì yếu đuối mà đàn ông để cho đàn bà dẫn dắt.
Tôi giả lả nhượng bộ:
- Quả nhiên nhiều ông cứng rắn, độc tài nữa là đàng khác, mà đặt vào đời sống vợ chồng, người ta vẫn khám phá thấy dễ bảo như cừu.
Molinier lại nói:
- Cậu có biết sở dĩ như thế là do đâu? Mười lần thì hết chín, chồng nhường vợ là vì có một điều gì đó lầm lỗi cần được bỏ qua. Cậu ạ, người vợ đức hạnh chiếm lợi thế trong mọi chuyện. Chồng cong lưng một lát ư, thế là bà nhảy lên đầu. Ấy! Tội cho những đấng làm chồng, thật đáng thương, cậu ạ. Hồi mình trẻ, cứ ước ao vợ trinh trắng mà không biết mình phải trả giá đức hạnh của vợ đến bao nhiêu.
Tôi nâng cằm, chống khuỷu tay xuống bàn, ngắm nghía Molinier. Ông anh khốn khổ phàn nàn vì mình lòm khòm mà không ngờ cách thế đó hợp với xương sống của mình, ông thường hay chạm trán, ăn nhiều, không sành sỏi mà tạp nhạp, và ra vẻ đặc biệt chiếu cố chai rượu bourgogne cũ mà chúng tôi gọi. Hả hê vì cảm thấy mình được nghe, thông cảm, và có lẽ anh nghĩ là được biểu đồng tình, anh thao thao thổ lộ. Anh tiếp:
- Với tư cách luật gia, tôi đã được quen một số bà chỉ hiến thân cho chồng một cách miễn cưỡng, nghịch lí... thế mà nay họ vẫn bất bình khi anh chàng khổ sở bị hất hủi đi nơi khác gỡ gạc.
Con người luật gia bắt đầu câu nói bằng “đã”, thời gian quá khứ, con người chồng kết thúc bằng “nay”, hiện tại, trong một chiều hướng hồi phục bản thân không thể chối cãi. Anh trịnh trọng chua thêm, giữa hai miếng ăn:
- Những sự thèm ăn của kẻ khác dễ có vẻ quá độ khi nào mình không chia sẻ với người ta.
Nốc một hơi dài, nói tiếp:
- Đấy, cậu, điều ấy giải thích cho cậu rõ cách thức ra làm sao mà một người chồng không còn điều khiển gia đình được nữa.
Tôi còn nghe thêm và khám phá ra, bên dưới vẻ thiếu mạch lạc bề ngoài của lời lẽ, sự mong muốn trút trách nhiệm về những thất bại của mình lên đạo hạnh của vợ. Những kẻ rạn nứt đến như con người nhu nhược này đây, tôi tự nhủ, họ ích kỉ bao nhiêu cũng không vừa đủ, cứ khư khư giữ lấy từng thành phần rời rã trên khuôn mặt mình. Quên mình đi một thoáng là họ vụn ra từng mảnh. Anh nín lặng. Tôi cảm thấy cần rót thêm vài lời cảm nghĩ, giống như người ta rót dầu vào bộ máy vừa thí thân cho một chặng đường; và để mời mọc anh lao thêm vào chặng đường mới, tôi ướm lời:
- May mắn là Pauline thông minh.
Ông đáp: “Ừ”, tiếng này kéo dài ra thành giọng không tin tưởng, sau đó:
- Nhưng vẫn có những cái bà không hiểu. Đàn bà dù thông minh đến đâu thì cậu cũng biết... Dù sao, tôi nhìn nhận trong trường hợp này, tôi không khéo léo gì lắm. Tôi có mở lời nói cho bà nghe một câu chuyện phiêu bồng nho nhỏ, trong khi đó tôi cho rằng, tôi tin chắc rằng chuyện nó chẳng đưa đến đâu. Thế mà câu chuyện đã đi xa... những hiềm nghi của Pauline cũng đi xa. Người ta bảo mua lo cho người là thế, tôi đã sơ suất. Tôi phải che giấu, nói dối... Lắm lời lúc ban đầu là thế đấy. Cậu nghĩ xem? Tôi bản tính tin người... Nhưng Pauline lại ghen đáo để và cậu tưởng tượng tôi phải mưu kế tới độ nào.
Tôi hỏi:
- Chuyện đã lâu chưa?
- Ồ! Kéo dài dễ đến năm năm, và tôi ước chừng đã trấn an bà đâu đấy cả rồi. Nhưng mọi chuyện sắp sửa tái diễn. Cậu nghĩ xem, hôm kia, tôi vừa về tới... Gọi một chai Pomard nữa, nhỉ?
- Xin anh, tôi đủ.
- Chắc họ có chai nhỏ. Lát nữa về ngủ tí đỉnh. Trời nóng làm tôi đuối sức... Phải, tôi nói với cậu là hôm kia, khi về tới, tôi mở tủ bàn để thu xếp giấy tờ. Tôi để mắt tới ngăn kéo có cất giấu thư từ của... đương sự. Cậu xem xét nỗi hoảng hốt của tôi, cậu ạ: ngăn kéo trống rỗng. Khổ tôi, tôi hình dung quá rõ ràng những gì đã xảy ra: Trước đây khoảng nửa tháng, Pauline đến Paris cùng với Georges, vì hôn lễ của đứa con gái của một đồng nghiệp của tôi, tôi thì không dự lễ được; cậu biết đấy, hôm ấy tôi ở Hòa Lan... với lại, những lễ lạt đó là việc của đàn bà thì đúng hơn. Vô công rỗi việc trong gian nhà trống, lấy cớ thu dọn, đàn bà thế nào thì anh biết đấy, luôn luôn tò mò phần nào... bà bắt đầu lục lạo... Ồ! Bà không nghĩ ngợi gì đến chuyện tai hại đâu. Tôi không buộc tội bà. Nhưng quái thế, Pauline bao giờ cũng cứ phải có một cái gì để thu dọn... Đấy, cậu bảo tôi ăn nói làm sao, giờ đây bà nắm bằng cơ trong tay? Con nhỏ kia đừng viết tên tôi thì còn đỡ! Gia đình đang êm ấm thế! Cứ nghĩ đến những gì tôi sắp vướng mắc...
Ông già khốn quẫn hì hụp tâm tình. Ông chạm trán, phe phẩy. Tôi uống ít hơn ông nhiều. Con tim đâu phải chờ chực kêu gọi là ban cấp tình xót thương, tôi chỉ cảm thấy lợm người cho ông. Tôi thừa nhận ông làm cha của gia đình (dù tôi khổ tâm nhắn nhủ mình rằng ông là cha của Olivier), dân phong lưu an phận, hiền lương, hưu trí; tưởng tượng ông si tình thì lố bịch. Nhất là tôi ngượng ngùng theo sự vụng về phàm tục của lời lẽ ông, cái nhếch môi nhíu mày của ông; khuôn mặt, giọng nói, chẳng có cái gì có vẻ sinh ra để diễn tả đúng tình cảm mà ông bày tỏ với tôi, tưởng chừng như tiếng đại hồ cầm cố hòa điệu với thanh sắc của đàn alto, nhạc cụ của ông chỉ thu lượm toàn âm thanh lục cục.
- Anh bảo Georges đi cùng mẹ nó...
- Phải, bà không muốn để nó lại một mình. Nhưng dĩ nhiên, ở Paris, nó không phải đeo mãi theo bà... Đấy, cậu, tôi đã bảo từ hai mươi sáu năm chung sống, tôi không hề gây rắc rối gì với bà, gây gổ qua loa cũng không... Hễ nghĩ tới con người bà đang chuẩn bị... chẳng là hai hôm nữa Pauline về tới... A! Coi nào, mình nói chuyện khác nhé. Cậu nghĩ gì về thằng Vincent? Hoàng tử Monaco, một chiếc tuần dương hạm đội... Bảnh thật!... Sao, cậu không hay à?... Thật mà, nó đi xa giám thị những vụ trắc lượng và làm cá gần quần đảo Acores của Bồ Đào Nha. Đấy! Cái thằng này, cam đoan với cậu tôi khỏi phải lo! Một thân một mình nó tiến thân.
- Sức khỏe của nó?
- Hoàn toàn bình phục. Thông minh như nó, tôi tin nó thẳng đường đến danh vọng. Bá tước Passavant nói thẳng với tôi rằng ông coi nó như một trong những người đáng phục nhất mà ông gặp. Ông bảo nó là người đáng phục nhất nữa đấy... nhưng mình phải thừa trừ cái khoản quá lời ấy đi.
Bữa ăn chấm dứt, ông châm điếu xì gà. Ông nói thêm:
- Cậu cho tôi hỏi người bạn của Olivier đã cho cậu tin tức về Olivier là ai thế? Nói cho cậu rõ là tôi đặc biệt quan tâm đến sự bầu bạn của con cái lắm. Tôi cho rằng đề phòng bao nhiêu vẫn không vừa. May bọn con tôi có khuynh hướng tự nhiên là kết bạn với bọn khá hơn cả. Cậu thấy, Vincent với ông hoàng, Olivier với bá tước Passavant... Còn Georges thì gặp lại một thằng bạn nhỏ cùng lớp, thằng Adamanti, huống chi thằng này sẽ trở về trường nội trú Vedel - Azaïs với Georges, cha của thằng bé là thượng nghị sĩ ở Corse. Nhưng cậu xem, ai mà ngờ nổi: Olivier có đứa bạn, trông thì có vẻ gia phong lắm: tên là Bernard Profitendieu gì đó. Phải nói cho cậu hay rằng ông Profitendieu là đồng nghiệp của tôi, một trong những người đáng phục nhất và tôi đặc biệt mến mộ lắm. Thế mà... (nói giữa cậu với tôi)... nay tôi được tin ông không phải là cha của thằng mang họ của ông! Cậu nghĩ sao đây?
Tôi bảo:
- Chính tên Bernard Profitendieu tin tức cho tôi về thằng Olivier đấy.
Molinier phả những cuộn khối lớn rồi nhướng mày thật cao làm trán nhăn tít lại:
- Olivier đừng lui tới với thằng ấy lắm thì hơn. Về trường hợp thằng đó, tôi được nhiều tin đáng thương tâm nhưng không làm tôi ngạc nhiên lắm. Mình cũng thừa sức tự nhủ rằng là một thằng bé sinh ra trong những điều kiện buồn bã như thế thì chẳng trông mong được gì tốt ở nó. Không phải đứa con hoang không thể có ưu điểm lớn, hay nhiều đức tính nữa là khác, có điều kết quả của sự vô trật tự, của sự bất phục tòng buộc lòng kết trong con người nó những mầm mống phản loạn... Mà thật, cậu ạ, cái gì phải đến đã đến. Thằng Bernard đùng một cái bỏ nhà và không bao giờ phải trở về lại nữa. Nó đi “sống cuộc đời mình”, như Émile Augier(16) nói, không hiểu sống bằng cách nào, ở đâu. Khổ thân ông Profitendieu, chính ông cho tôi hay cái trò đời ấy, lúc đầu ông cực kì bấn loạn. Tôi nói cho ông hiểu rằng ông không nên cưu mang quá lắm làm gì. Tóm lại, thằng ấy bỏ đi thì mọi chuyện được ổn định.
Tôi chống chế lại rằng tôi biết kha khá về Bernard để có thể bảo đảm cho tính tình dễ mến và lương thiện của nó (dĩ nhiên không đả động đến câu chuyện chiếc va li). Nhưng Molinier vùng dậy ngay:
- Xin cậu! Tôi thấy phải kể nhiều hơn nữa cho cậu nghe.
Kế, chồm người tới trước và xuống giọng:
- Đồng nghiệp Profitendieu của tôi tự thấy có bổn phận thẩm lí một vụ hắc ám rầy rà vô cùng, tự câu chuyện đã rầy rà mà dư vang và hậu quả có thể xảy ra cũng rầy rà. Câu chuyện khó có thật, mong sao đừng tin nổi... Nguyên đây là một kế hoạch trụy lạc thật sự, cậu ạ, một... Không, tôi không muốn dùng những từ ngữ tồi tệ, hãy coi đó là một phòng trà vậy, phòng trà này phô bày một cái đặc biệt động trời là bọn thường lui tới các căn phòng ở trong, phần đông, và hầu như chỉ gồm toàn bọn học sinh còn rất trẻ tuổi. Tôi bảo cậu là không tin được. Bọn trẻ hẳn nhiên không ý thức tính cách trầm trọng của hành vi mình bởi vì bọn chúng ít tìm cách che đậy. Sự vụ khai diễn sau khi tan học. Nhấm nháp, chuyện trò, đùa giỡn cùng các ả, rồi bài bạc sẽ tiếp liền theo đó trong các gian phòng kế cận. Dĩ nhiên không phải ai muốn vào thì vào. Phải được giới thiệu nhập môn. Ai trả tiền ăn chơi? Ai trang trải tiền nhà? Khám phá cho ra những điều này không có vẻ gì là khó nhọc, nhưng đẩy xa những cuộc thám thính phải hết sức thận trọng mới được, sợ đâm ra biết quá thừa thải, sợ bị lôi cuốn theo, sợ buộc phải theo dõi rồi cuối cùng động đến những gia đình khả kính mà mình đem lòng ngờ là con cái họ có mặt giữa bọn yếu khách. Do đó tôi đã hết sức hãm bớt sự hăm hở của Profitendieu, ông này thì lao đầu vào việc như con bò mộng không ngờ gì về cái húc đầu tiên của mình. (Ôi! Cậu bỏ quá cho, tôi không cố tình nói thế. Ha ha ha! Buồn cười làm sao! Tôi buột miệng thôi.)... Thiếu đường xóc luôn con mình. May sao vụ hè giải tán mọi người, bọn học sinh phân tán, và tôi hi vọng rằng nội vụ sẽ đổ sông tắt lịm đi sau một vài cảnh cáo, hình phạt không gây ồn ào.
- Anh chắc chắn có Bernard Profitendieu nhúng tay vào trong?
- Không hẳn, nhưng mà...
- Thế thì cái gì khiến anh tin như thế?
- Trước hết, hắn là đứa con rơi. Cậu hẳn nghĩ rằng một đứa trẻ bằng tuổi hắn đâu có tránh nuốt nhục mà bỏ nhà ra đi... Vả lại chắc hẳn rằng Profitendieu đâm ra nghi ngại điều gì, bởi lẽ lòng hăng hái của ông đột nhiên đằm lại, tôi nói gì thế kìa, ông có vẻ lùi bước nữa đấy chứ, và lần cuối cùng hỏi ông công chuyện đi đến đâu rồi thì ông tỏ vẻ lúng túng bảo: “Tôi tin chắc cuối cùng chẳng được gì đâu,” rồi ông lẹ làng đánh trống lảng. Tội nghiệp cho Profitendieu! Đấy! Cậu biết, ông không đáng hứng chịu những việc xảy đến. Ông là con người đàng hoàng, và điều có lẽ hiếm có hơn là: chơi đúng điệu! Gớm! Con gái ông vừa thành hôn với một đám đẹp ra phết. Tôi không dự được vì kẹt ở Hòa Lan, nhưng Pauline với Georges có về dự. Tôi nói cho cậu hay chưa nhỉ? Vừa đúng giờ đi ngủ, Sao, cậu muốn trả tiền hết thảy thật sao? Thôi mà! Giữa đàn ông với nhau, coi như bạn, mình chia nhau... Không? Thôi chào vậy. Với lại đừng quên là hai hôm nữa Pauline về. Đến chơi. Với lại đừng gọi tôi là Molinier nữa, gọi: Oscar, là đủ! Từ lâu tôi muốn yêu cầu cậu như thế.
Chiều nay, một mẩu giấy của Rachel, chị gái của Laura:
“Em có nhiều chuyện hệ trọng nói với anh. Nếu không phiền anh quá lắm, anh có thể ghé lại trường ngày mai xế trưa? Anh sẽ giúp em nhiều lắm.”
Nếu để nói với tôi về chuyện Laura thì Rachel đã không chịu chờ đợi đến thế. Đây là lần đầu tiên cô viết cho tôi.
* * *
(16) Emile Augier (1820-1889) là nhà viết kịch người Pháp từng giữ ghế thành viên của Viện hàn lâm Pháp.
II
NHẬT KÍ Édouard
(tiếp theo)
Ngày 28 tháng 9 - Tôi bắt gặp Rachel ở bực cửa phòng học chung, ở tầng trệt. Hai người giúp việc đang lau chùi sàn nhà. Rachel cũng thế, mặc tạp dề giúp việc, giẻ cầm tay.
- Em biết em nhờ anh được, - nàng vừa nói vừa đưa tay ra bắt, kèm theo vẻ mặt buồn buồn nhè nhẹ, nén lòng, mà vẫn tươi, khiến người ta dễ xúc động hơn cả sắc đẹp. - Nếu anh không gấp lắm, tốt hơn mời anh lên thăm ông ngoại với mẹ em qua loa trước đã. Nếu các người hay rằng anh có lại mà không thăm thì chắc các người buồn. Nhưng anh hãy dành thì giờ, em phải nói với anh mới được. Anh xuống lại đây với em; anh thấy không, em coi ngó người ta làm việc.
Vì e ấp thế nào, nàng không bao giờ nói: em làm việc. Rachel suốt đời như cái bóng, và không có cái gì kín đáo hơn, khiêm tốn hơn đức hạnh của nàng. Sự quên mình của nàng tự nhiên cho đến nỗi không có ai trong gia đình cám cảnh cho sự hi sinh triền miên của nàng. Tâm hồn đàn bà đẹp nhất mà tôi được biết.
Lên tầng hai, gia đình Azaïs. Ông cụ không còn rời chiếc ghế của ông nữa. Ông khiến tôi ngồi bên cạnh và gần ngay liền đó nói về ông cụ La Pérouse.
- Tôi lấy làm lo lắng biết ông cụ La Pérouse cô độc và tôi muốn thuyết phục ông đến đây ở. Anh biết, chúng tôi là bạn lâu năm. Tôi có đến thăm ông mới đây. Tôi sợ ông rầu rĩ theo việc bà vợ yêu quý của ông rời đi Sainte-Périne. Người giúp việc bảo ông gần như không ăn uống gì nữa. Tôi cho rằng thông thường con người ta ăn nhiều quá đi, nhưng phàm chuyện gì cũng thế, phải giữ chừng mực, kẻo có thể thái quá mà thành ra bất cập. Ông cụ La Pérouse cho rằng nấu nướng cho một mình ông là chuyện vô ích; tuy nhiên nếu cùng ăn ở đây, thấy người khác ăn, chắc ông sẽ ăn theo. Ở đây thì ông sẽ được gần cháu nội kháu khỉnh của ông mà ông hiếm có dịp gặp, vì từ đường Vavin cho đến khu phố Saint-Honoré là cả một cuộc hành trình. Phương chi, tôi không muốn để thằng bé ra đi một mình giữa Paris. Tôi quen biết Anatole de La Pérouse đã lâu. Luôn luôn khác người. Không phải đó là trách móc, có điều bản tính ông hơi tự phụ và có thể sẽ không nhận sự mời ở của tôi mà không phải đánh đổi một cái gì về phía ông. Bởi vậy tôi nghĩ là có thể đề nghị cho ông giám thị mấy lớp trong giờ học chung, chẳng mệt gì ông mấy, mà lại còn có kết quả tốt là giải trí cho ông, cho thoát ra khỏi con người ông phần nào. Ông giỏi toán, thì nếu cần, ông có thể dạy thêm về hình học và đại số. Nay ông hết học sinh, bàn ghế với cây dương cầm của ông còn được việc gì nữa đâu, ông phải rút lui, và vì đến đây sẽ đỡ tiền nhà cho ông, tôi nghĩ thêm rằng, ông với tôi có thể thỏa thuận một giá cả ăn ở nho nhỏ, để ông dễ chịu hơn và khỏi cảm thấy là bị thọ ân. Anh phải cố thuyết phục ông, đừng chậm trễ lắm, vì với cách sống tội tình như ông, sợ ông chống suy nhược. Mặt khác, hai hôm nữa là khai giảng, cần biết xem mọi chuyện ngã ngũ thế nào và xem có trông mong gì ở ông được không... cũng như ông trông mong gì được ở chúng tôi không.
Tôi hứa đến thưa lại với ông cụ La Pérouse ngay ngày mai. Lập tức, như thể được nhẹ nhõm:
- A! Coi nào, cậu Bernard được anh bảo bọc cho đó, thật là con người trung hậu! Cậu ta tự nguyện đến đây giúp vài công việc nhỏ một cách khả ái, cậu đề cập đến việc giám thị cho bọn nhỏ học, nhưng tôi sợ chính cậu cũng hơi trẻ và không biết cách làm cho chúng nó nể. Tôi nói chuyện lâu với cậu và thấy cậu dễ thương lắm. Với những tính người như thế mới đào luyện nên những con chiên ngoan nhất. Cố nhiên đáng tiếc một điều là vấn đề hướng dẫn, cậu ta đã bị lệch lạc vì lề lối giáo dục ban đầu. Cậu thú thật với tôi là không có đức tin nhưng nói bằng một giọng đáng cho tôi hi vọng tốt đẹp. Tôi trả lời rằng tôi hi vọng tìm thấy ở cậu mọi ưu điểm cần thiết để đào tạo nên người lính nhỏ trung hậu của đức Chúa Trời, và cậu có bổn phận để tâm đến việc nghĩ cách làm sáng giá những tài năng mà Chúa đã trao cho. Tôi với cậu ta cùng nhau đọc lại đoạn ngụ ngôn, và tôi tin rằng hạt giống tốt không rơi nhằm đất xấu. Cậu ta lộ vẻ rúng động vì lời lẽ của tôi và hứa tôi sẽ suy nghĩ.
Bernard cũng đã có thuật lại với tôi buổi chuyện trò này cùng với ông cụ Azaïs, tôi biết nó nghĩ gì, thế nên cuộc nói chuyện này trở nên khá nhọc lòng cho tôi. Tôi đã đứng lên để đi, nhưng ông cụ vẫn nắm bàn tay đưa ra bắt tôi lại:
- Này, anh, tôi có gặp lại cháu Laura đó! Tôi mới biết rằng nó sống suốt tháng trời với anh ở vùng núi xinh đẹp, có vẻ tốt cho nó lắm. Tôi mừng được biết nó trở về với chồng, chồng nó chắc hẳn bắt đầu khổ vì nó bặt tăm đã lâu. Tiếc nỗi công việc không cho phép chồng nó gặp gỡ các người ở bên ấy.
Tôi rút tay để bỏ đi, mỗi lúc mỗi thêm bực bội, vì không hiểu Laura đã bày ra những gì để nói với ông cụ, nhưng, bằng một động tác đột ngột và uy lực, ông đã kéo tôi vào người ông, và nghiêng người tới bên tai tôi:
- Laura có thổ lộ với tôi là nó có tin mừng, nhưng bí mật nhé!... Nó muốn khoan để cho ai biết. Tôi nói với anh là vì biết anh rõ sự tình, và vì anh với tôi đều kín miệng. Khổ cho con nhỏ khi nói với tôi nó ngượng chín người, nó dè dặt thế bảo sao không ngượng. Bởi nó quỳ xuống trước mặt tôi nên ông cháu cùng cảm tạ Chúa đã có lòng ban phước lành tác hợp cho nó.
Tôi thấy tốt hơn đáng lẽ Laura trần tình cách khác mới phải, tình trạng của nàng chưa ép buộc nàng trần tình như thế. Giá như nàng dò hỏi ý kiến tôi thì tôi đã khuyên nàng gặp lại chồng trước đã, vội thổ lộ làm gì. Azaïs nào có hiểu ất giáp gì, nhưng tất cả người nhà không ai khờ khạo đến độ.
Ông cụ còn khua môi thêm vài đường về những đề tài đạo giáo đủ loại, kế đó bảo tôi rằng con gái ông sẽ mừng gặp được tôi, thế là tôi trở xuống tầng lầu gia đình Vedel.
Tôi đọc lại những dòng trên. Nói tới ông cụ Azaïs bằng giọng điệu như thế, thì chính tôi làm cho tôi hóa ra bỉ ổi. Đúng như thế, và tôi viết thêm vài dòng này để cho Bernard tiện dụng, phòng khi cái tính tọc mạch đáng yêu của nó thúc đẩy nó, một lần nữa, chúi mũi vào cuốn tập này. Miễn nó tiếp tục lui tới với ông cụ, nó sẽ hiểu tôi muốn cái gì. Tôi yêu ông cụ lắm,:phương chi”, theo điệu nói của ông, tôi còn kính nể, thế mà hễ ở cạnh ông, tôi không còn cảm thấy mình là ai! Điều này khiến sự gần gũi với ông làm cho tôi khá khổ tâm.
Tôi rất yêu người con gái của ông, tức là vợ mục sư Vedel. Bà trông giống như nàng Elvire của Lamartine(17), một nàng Elvire về già. Cách nói chuyện của bà không phải là không duyên dáng. Lắm khi bà không nói trọn câu, làm cho ý tưởng của bà mang một vẻ gì mông lung thơ mộng. Bà tạo ra cái vô cùng bằng mập mờ lơ lửng. Bà trông mong ở kiếp sau những gì bà thiếu thốn ở kiếp này, điều này cho phép bà dàn rộng mãi thêm những nỗi niềm hi vọng. Bà lấy đà trên miếng đất thu hẹp của mình. Bởi rất ít khi diện kiến chồng mình, bà cho phép mình tưởng tượng là yêu chồng. Vị mục sư khả kính ra đi không ngừng, bị kêu gọi vì trăm ngàn chăm chút, ưu tư, thuyết giáo, hội họp, thăm viếng người bệnh. Ông có bắt ai là bắt tay qua đường, nhưng vì vậy mà ông bắt tay thân tình lắm.
- Bận quá, hôm nay không chuyện trò được.
- Khỏi! Lên thiên đàng hẵng gặp nhau ạ, - tôi đáp như thế nhưng ông không đủ thì giờ nghe ra.
Bà Vedel thở dài:
- Không một lúc nào rảnh rỗi. Anh biết, bao nhiêu là việc nhà tôi tự ý ôm đồm, kể từ ngày mà... Vì thiên hạ biết nhà tôi không hề từ khước, cho nên ai nấy cứ... Buổi tối về, có khi mệt lử làm tôi chẳng dám hé môi chỉ sợ... Ông hiến thân cho người ta nhiều quá nên chẳng còn gì để hiến cho người thân.
Và trong khi bà nói chuyện, tôi hồi tưởng một vài lần Vedel về nhà, thuở tôi lưu trú ở trường nội trú. Tôi trông thấy ông bưng đầu trong tay rồi gào lên sau một lát nghỉ ngơi. Nhưng ngay lúc đó tôi đã nghĩ rằng có lẽ ông ngại nghỉ ngơi chứ không phải là ước được nghỉ ngơi, và trong những điều ban bố cho ông, không có gì làm ông khó nghĩ cho bằng một lát để nghĩ ngợi.
- Anh dùng tách trà chứ? - Bà Vedel hỏi tôi giữa lúc một bé gái giúp việc đem ra một khay đầy.
- Thưa bà, còn có ít đường thôi.
- Ta đã bảo có hỏi thì phải hỏi cô Rachel mà lại. Đi nhanh lên... Có thông báo cho mấy cậu biết chưa?
- Thưa cậu Bernard với cậu Boris đi rồi.
- Khéo nhỉ! Thế còn cậu Armand?... Nhanh lên.
Kế, không đợi cho con bé ra khỏi:
-Con bé khổ này ở Strasbourg đến. Nó không có biết một cái gì... cái gì cũng phải bảo... Kìa! Mày chờ đợi cái gì nữa?
Con bé giúp việc quày quả như con rắn bị giẫm lên đuôi:
- Thưa có ông giám học dưới nhà muốn lên đây. Ông bảo chưa được trả tiền thì ông không chịu đi.
Nét mặt bà Vedel biểu lộ nỗi chán chê bi thảm.
- Không phải ta lo chuyện thanh toán tiền bạc, ta phải nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần nữa kia? Bảo ông hỏi cô. Đi!... Không được một giờ nào yên! Quả tình tôi không hiểu Rachel đang nghĩ gì.
- Không chờ Rachel uống trà?
Nó không hề uống... Chao! Lần khai giảng này bắt chúng tôi lo lắng dữ. Các ông giám học xin dạy lại đòi giá cắt cổ, hoặc là hễ giá cả chịu được, thì mình lại không chịu được các ông. Ông thân sinh của tôi có chuyện than phiền về cái ông giám học này, nhưng lại tỏ ra quá nhu nhược, bây giờ chính ông giám học bắt nạt. Anh nghe con bé nó nói đấy. Bọn người đó chỉ nghĩ đến tiền... làm như ở đời chẳng có cái gì quan trọng hơn... Trong khi chờ đợi, chúng tôi vẫn không biết làm sao tìm người thay thế. Nhà tôi luôn luôn tưởng rằng chỉ việc cầu nguyện Chúa là mọi việc an bài.
Bé giúp việc trở vào với đường.
- Thông báo cho cậu Armand chưa?
- Thưa đã, cậu đến bây giờ.
- Còn Sarah? - Tôi hỏi.
- Sarah hai hôm nữa mới về. Nó đi Anh ở với bạn bè, tại nhà cha mẹ cô gái mà anh gặp ở đây đấy. Họ rất dễ thương, tôi cũng mừng cho Sarah có thể phần nào... Như Laura vậy. Tôi thấy Laura tươi tỉnh ra. Sau chuyến xuôi về Nam thì chuỗi ngày ở Thụy Sĩ đỡ đần cho nó được nhiều, còn anh thì thật là tốt bụng đã quyết định giúp nó. Chỉ tội cho thằng Armand suốt bao nhiêu vụ hè không rời Paris.
- Còn Rachel?
- Ừ nhỉ, phải, Rachel cũng thế. Nó được đủ nơi mời mọc, mà vẫn thích ở lại Paris. Với lại ông ngoại nó cần có nó. Nhưng ở đời, có bao giờ mình làm cái mình thích. Thỉnh thoảng tôi cũng buộc lòng nhắc lại cho con cái. Còn phải nghĩ tới người khác. Anh nghĩ, còn tôi, được đi chơi ở Saas-Fée không thú sao? Còn nhà tôi nữa, anh tưởng ông đi xa để vui chơi sao? Armand, con thừa biết là mẹ không thích con vào đây mà không mang cổ áo cứng. - bà nói thêm khi thấy Armand vào.
Armand bắt tay tôi, thưa:
- Thưa mẹ, mẹ đã dạy con một cách hợp đạo là đừng xem trọng cách phục sức, và cũng là rất hợp thời bởi lẽ bà giặt ủi ngày thứ ba mới lại, còn những cổ áo kia của con đều rách hết.
Tôi ôn lại những điều Olivier nói về thằng bạn này và quả nhiên tôi mường tượng một vẻ ưu tư thầm kín cất giấu đàng sau vẻ hóm hỉnh tàn ác của nó. Nét mặt của Armand thanh, mũi kín, cong xuống đôi môi mỏng ra và không màu sắc. Nó nói tiếp:
- Mẹ đã báo cho ông quý khách của mẹ biết chưa? Chúng tôi có quy nạp vào trong tập đoàn tầm thường của chúng tôi, có mời tham gia nhân dịp mở màn cho mùa đông, một vài bộ mặt nổi bật: con trai của một thượng nghị sĩ ưu thời mẫn thế, và tử tước trẻ tuổi dòng Passavant, bào đệ của một tác giả lừng lẫy. Chưa kể hai người được trưng mộ mà ông đây có quen biết, nhưng chính vì thế họ mới đáng vinh danh: hoàng tử Boris và hầu tước Profitendieu, cộng thêm một số khác mà danh tước cùng đức độ còn trong vòng khảo sát.
- Anh thấy nó tính nào tật ấy, - bà mẹ ẩn nhẫn mỉm cười trước những lời pha trò đó.
Tôi rất sợ nó khởi sự đề cập đến Laura, tôi rút ngắn thì giờ viếng bà mẹ rồi nhanh chân xuống gặp Rachel.
Rachel đã xắn tay áo để phụ giúp cất đặt phòng học chung, nhưng nàng đã vội vàng vuốt tay áo xuống khi thấy tôi lại gần.
- Thật vô cùng khổ tâm mà nhờ cậy đến anh, - nàng vừa bắt đầu lên tiếng vừa lôi tôi vào một gian phòng nhỏ bên cạnh dùng làm phòng học riêng biệt. - Em muốn ngỏ lời với Douviers thì hơn, vì Douviers có yêu cầu em, nhưng gặp lại Laura, em chợt hiểu không thể nào làm như thế được nữa...
Khuôn mặt nàng tái bệch, và khi nói lời cuối, cằm với môi nàng nhích động lẩy bẩy ngăn trở nàng nói tiếp một lúc. Sợ nàng ngượng, tôi nhìn lảng. Nàng tựa mình vào cánh cửa mà nàng đã khép lại khi vào. Tôi toan cầm lấy bàn tay nàng nhưng nàng đã giật tay ra. Cuối cùng, nàng tiếp lời, giọng nói như thể co rút lại vì một nỗ lực vô biên:
- Có thể nào anh cho em vay mười ngàn franc? Buổi khai giảng báo hiệu điềm khá tốt, em hi vọng có thể mau chóng trao lại cho anh.
- Chừng nào thì Rachel cần?
Nàng không đáp. Tôi hỏi thêm:
- Tôi sẵn đây hơn một ngàn. Sáng mai tôi bổ túc ngay cho đủ số... Ngay tối nay, nếu cần.
- Khỏi anh ạ, ngày mai cũng được. Nhưng nếu có thể, không bóc lột anh, anh để lại cho một ngàn ngay bây giờ...
Tôi rút ví và giao tiền cho nàng.
- Rachel cần một ngàn tư chăng?
Nàng cúi đầu và “vâng” một tiếng thật khẽ làm tôi nghe không rõ, kế đó loạng choạng hướng về chiếc ghế dài học sinh, buông người xuống rồi chống khuỷu tay lên nắp bàn bưng lấy mặt một lát. Tôi nghĩ là nàng đang khóc, nhưng khi tôi đặt tay lên vai nàng, nàng ngước đầu và tôi thấy mắt nàng vẫn khô ráo. Tôi bảo:
- Rachel, đừng ngượng vì phải hỏi han tôi điều vừa rồi. Tôi sung sướng được Rachel mang ơn.
Nàng nhìn tôi nghiêm trang:
- Điều khổ tâm cho em là buộc lòng yêu cầu anh đừng nói với ông, luôn cả với mẹ. Từ khi các người ủy thác việc kế toán trường nội trú, em vẫn để cho các người tưởng rằng… nói tóm lại các người không dè. Đừng nói nghe anh, em van anh. Ông thì già, mẹ thì ẩn nhẫn thế kia.
- Rachel, đâu phải mẹ ẩn nhẫn... Rachel chứ.
- Mẹ ẩn nhẫn lắm. Nay thì mệt mỏi. Đến lượt em. Em chẳng có việc gì khác.
Nàng rất mực đơn sơ nói lên những lời rất mực đơn sơ. Tôi không cảm thấy trong sự nhẫn nhục của nàng một chút đắng cay nào, mà trái lại, một sự thanh thản nào đó.
- Nhưng anh đừng nghĩ là mọi sự đã tiêu tan, - nàng tiếp. - Có điều đây là một buổi ngặt nghèo, bởi vì một vài chủ nợ tỏ ra mất kiên nhẫn.
- Tôi có nghe hồi nãy con bé giúp việc nói tới một ông giám học nào đòi phần thù lao của ông.
- Phải, ông đến làm một pha thật khổ tâm cho ông ngoại, khổ cho em ngăn cản không nổi. Người đâu mà hung tợn phàm tục thế. Em phải đi trả tiền cho ông.
- Rachel muốn tôi thay mặt đi trả không?
Nàng ngần ngừ một lát, gượng cười mà không được.
- Cảm ơn anh. Nhưng thôi, em đi thì hơn... Hay xin anh đi với em. Em hơi sợ ông đó. Thấy anh, may ra ông không dám nói gì.
Sân của trường nội trú nhô lên chừng vài cấp bực khỏi khu vườn kế cận, ngăn nhau bằng bờ tường, viên giám học cho hai tay ra đàng sau và chống khuỷu tay lên đó. Y đội một chiếc mũ dạ lớn và mềm, ngậm điếu. Trong khi Rachel thương lượng với y thì Armand đến với tôi.
Nó gân guốc bảo tôi:
- Rachel xoay tiền của anh. Anh đến đúng lúc lôi chị ra khỏi một cơn bấn người bẩn thỉu. Cũng do cái thằng anh chó đẻ của tôi là Alexandre mắc nợ nần ở bên thuộc địa. Chị muốn giấu bố mẹ. Trước đây chị đã nhượng một nửa tiền hồi môn của chị để đắp phần nào vào hồi môn của Laura, nhưng lần này thì phần còn lại cũng xong tuốt. Cam đoan chị không tiết lộ cho anh. Tính khiêm nhường của chị làm tôi ngao ngán. Một trong những trò buồn nản nhất ở đời là: hễ kẻ nào hi sinh cho người khác là có thể cầm chắc rằng nó giá trị hơn bọn kia... Bao nhiêu điều chị làm cho Laura! Laura đền đáp tận tình cho chị đấy chứ, đồ điếm!
Tôi bất bình lớn tiếng:
- Armand, cậu không có quyền phê phán chị cậu.
Nhưng nó lại tiếp lời ngay bằng một giọng đứt đoạn sắc sảo:
- Trái lại, chính vì tôi không hơn gì Laura nên tôi mới phán xét chị. Tôi ý thức mà. Còn Rachel thì không phán xét. Không bao giờ phán xét ai... Đúng đấy, đồ điếm, điếm... Những điều nghĩ về chị, thề với anh là tôi không nhờ miệng người khác nói lại đâu... thế mà chính anh đã lấp liếm, bảo bọc những thứ đó! Anh là người biết... Ông ngoại, ông chẳng hiểu ất giáp gì. Mẹ thì cố gắng tránh hiểu. Còn bố, bố phó cho Chúa, giản tiện hơn. Hễ gặp khó khăn là bố quỳ xuống cầu nguyện rồi mặc cho Rachel xoay xở. Điều ông cầu xin, là đừng thấy rõ sự tình. Ông chạy, ông bấn loạn, hầu như không hề ở nhà. Tôi hiểu ông ở nhà thì ngộp thở, còn tôi thì hết thở. Ông tìm cách làm cho quẩn trí, thế chứ! Trong lúc đó, mẹ làm thơ. Không! Tôi không chế giễu bà đâu, chính tôi cũng làm thơ. Nhưng ít ra tôi biết mình là thằng hèn và không hề chạy vạy để đóng vai khác. Anh xem thế này có lợm giọng không nhé: ông ngoại “ra vẻ nhân đạo” với ông cụ La Pérouse, là bởi ông ngoại cần giám học...
Và bất ngờ:
- Cái tên lợn ở đàng kia dám nói gì với chị tao thế? Mày bỏ đi không chào. Tao đấm vỡ mặt...
Armand phóng tới anh chàng phóng đãng, và tôi ngỡ nó giáng tay. Nhưng tên kia, thấy nó đến, lách mình đi bằng một động tác giả nón chào lớn lối bỡn cợt rồi mất hút dưới vòm cổng. Đúng lúc đó, cổng xe ra vào bật mở nhường cho vị mục sư đi vào. Ông mặc áo lễ redingote, mũ cao và găng tay đen, như thể người về từ lễ rửa tội hay an táng. Viên nguyên là giám học và mục sư cùng chào nhau trịnh trọng.
Rachel và Armand tiến lại. Khi mục sư Vedel đã đến bên hai người con gần cạnh tôi:
- Mọi việc đã yên, - Rachel nói với bố.
Mục sự hôn lên trán con:
- Con thấy rõ chưa, bố chẳng nói với con là gì: Chúa có bao giờ bỏ người đặt lòng tin ở Chúa.
Tiếp theo, bắt tay tôi:
- Anh đi rồi sao?... Hẹn gặp lại, nhé!
* * *
(17) Alphonse de Lamartine (1790–1869) là nhà thơ, chính trị gia người Pháp.
III
NHẬT KÍ Édouard
(tiếp theo)
Ngày 29 tháng 9 - Đến thăm ông cụ La Pérouse. Chị giúp việc ngại ngần để tôi vào. “Ông không muốn tiếp ai hết”. Tôi một mực khẩn khoản chị mới đưa tôi vào phòng khách. Cửa liếp đều đóng kín: trong bóng tối nhạt mờ, tôi khó khăn lắm mới phân biệt ra vị thầy già của tôi ngồi lút vào một chiếc ghế bành thẳng đứng. Ông không đứng lên. Không nhìn tôi, ông chìa ra phía bên hông bàn tay mềm, tôi bắt xong là bàn tay rơi xuống lại. Tôi ngồi cạnh, cho nên chỉ thấy trắc diện. Nét mặt ông rắn rỏi và đanh lại. Từng lúc môi ông mấp máy, nhưng không nói gì. Đến độ tôi ngờ ông nhận ra tôi chăng. Đồng hồ gõ bốn tiếng, bấy giờ, như thể được lên dây, ông chầm chậm quay đầu và bằng một giọng trọng thể, mạnh nhưng không hồn và như từ dưới mộ lên:
- Sao lại để cho anh vào? Tôi đã truyền cho chị giúp việc là hễ ai đến hỏi han thì bảo rằng ông La Pérouse đã chết.
Tôi động lòng khó nghĩ, không phải vì lời lẽ phi lí mà vì thanh sắc của lời, một thanh sắc khoa đại, gượng gạo một cách khó nói mà tôi không quen nghe vị thầy già dùng với tôi, thường khi tự nhiên và đầy tín cẩn.
Mãi sau tôi mới trả lời:
- Chị giúp việc không muốn nói dối. Thầy chớ la rầy chị đã mở cửa cho tôi. Tôi vui mừng gặp lại thầy.
Ông lặp lại một cách ngây dại:
- Ông La Pérouse chết rồi, - rồi trầm mình câm nín.
Tôi bị mếch lòng và đứng lên, sửa soạn về, khất lại một hôm nào khác nỗi thắc mắc truy tầm lí do tấn kịch cười buồn này. Nhưng đúng lúc đó, chị giúp việc đi vào, mang một tách sôcôla bốc khói:
- Xin ông gắng cho một tí. Cả ngày hôm nay ông chưa dùng gì.
Ông cụ vùng vằng nóng nảy, như một diễn viên bị kẻ đồng bọn vụng về cúp ngang mất tác dụng của mình:
- Khoan đã. Đợi ông đây ra về rồi hay.
Nhưng chị giúp việc vừa đóng cửa thì:
- Anh làm ơn cho tôi cốc nước. Nước lã thôi. Tôi khát chết được.
Tôi tìm thấy trong phòng ăn một chiếc bình với một cái cốc. Ông cụ đổ đầy cốc, nốc một hơi rồi quệt môi bằng tay áo veston lông lạc đà cũ. Tôi hỏi:
- Thầy bị sốt?
Câu nói của tôi lập tức nhắc nhở ông trở về tình cảnh, vai trò của ông:
- Ông La Pérouse không sốt. Không còn bị gì hết. Từ chiều thứ tư, ông La Pérouse đã hết sống.
Tôi lưỡng lự hay là tốt hơn nên góp mặt đóng trò chăng:
- Đúng ngày thứ tư là ngày cháu Boris đến gặp thầy có phải không ạ?
Ông quay đầu về phía tôi; một nụ cười, như thể bóng dáng nụ cười cô cựu, khi nghe đến tên Boris, làm rạng rỡ nét mặt, và ông cuối cùng bằng lòng bỏ rơi vai kịch của mình:
- Anh ạ, với anh tôi có thể nói lên điều này: ngày thứ tư đó là ngày cuối cùng còn lại cho tôi.
Rồi ông xuống giọng nói tiếp:
- Đúng là ngày cuối cùng tự tôi ban phát cho tôi trước khi... kết liễu.
Thật vô cùng đau lòng cho tôi phải thấy ông cụ trở về với điệu nói u sầu ấy. Tôi hiểu ra rằng tôi không hề bận tâm đến những điều ông nói trước đây, bởi tôi đã để cho kí ức thả mất tất cả, và nay tôi đâm ra trách mình. Nay tôi nhớ lại hết, nhưng lấy làm kinh ngạc là vì ông cụ trước hết nhắc nhở tôi đến một kì hạn xa xưa hơn, và khi tôi bảo cho ông biết thế, ông thú nhận, bằng một giọng tự nhiên trở lại và điểm thêm một chút khôi hài nữa là đàng khác, rằng ông đã gạt tôi về ngày tháng, rằng ông đã lùi ngày lại tí đỉnh, ngại rằng tôi sẽ cố ghi nhớ hoặc ngại rằng do đó mà tôi hối hả quay về, nhưng ông đã nhiều đêm liên tiếp quỳ gối, xin Chúa gia hộ cho ông gặp Boris trước khi lìa đời. Ông nói thêm:
- Không những thế tôi còn giao ước với Chúa là nếu cần, tôi sẽ kéo thêm vài ngày mới quy thiên... giai do là anh đã bảo đảm đưa nó trở về với tôi, anh nhớ chứ?
Tôi nắm lấy bàn tay ông, bàn tay lạnh giá và tôi ấp nó vào hai tay tôi. Ông nói tiếp, giọng đều đều:
- Lúc đó, thấy anh không chờ mãn hè đã trở về và tôi có thể gặp cháu mà khỏi phải triển hạn ngày quy thiên, tôi lại tin rằng... tôi thấy có vẻ như Chúa đã đếm xỉa đến lời cầu nguyện của tôi. Tôi tin rằng Chúa chấp thuận. Phải, tôi tin như thế. Tôi đâu có hiểu lập tức rằng Chúa chơi khăm tôi, như thuở nào đến giờ.
Ông cụ nhấc bàn tay ra khỏi hai tay tôi, và bằng giọng linh hoạt hơn:
- Nghĩa là tối thứ tư là ngày mà trước đây tôi tự hứa là kết liễu, và đúng trong ngày thứ tư anh lại đưa nó về. Phải nói là, khi thấy cháu, tôi không cảm thấy toàn vẹn nỗi vui sướng lòng dặn lòng của tôi. Tôi nghĩ ngợi sau đó. Dĩ nhiên, tôi chẳng có quyền hi vọng rằng thằng bé có thể vui mừng gặp tôi. Mẹ nó chẳng hề nhắc nhở tôi với nó.
Ông cụ ngừng nói, môi ông run rẩy và tôi tưởng chừng ông khóc đến nơi.
- Boris chỉ ước được yêu thầy, nhưng xin thầy để cho nó thì giờ làm thân với thầy. - Tôi ướm lời.
Không nghe gì tôi, ông cụ La Pérouse nói tiếp:
- Sau khi thằng bé bỏ rơi tôi vào buổi tối khi tôi còn lại một mình (vì anh biết nhà tôi không còn ở đây nữa), thì tôi mới tự nhủ: “Thôi! Đến lúc rồi đây”. Anh cũng cần biết rằng ông anh của tôi, người đã khuất, có để lại cho tôi một cặp súng ngắn, tôi luôn luôn giữ bên mình, trong một cái bao, để đầu giường. Thế là tôi đi tìm bao súng. Tôi ngồi trong chiếc ghế bành, đây, như lúc này đây. Tôi nạp một viên đạn.
Ông quay lại tôi và, bất thần, bạo, nói lại lần nữa, làm như tôi ngờ vực cho lời ông nói:
- Phải, tôi nạp đạn. Anh có thể quan sát: súng còn đạn đấy. Chuyện gì xảy ra nào? Tôi không hiểu nổi. Tôi đưa súng lên trán. Giữ thật lâu, kề thái dương. Rồi không bắn. Tôi không đủ sức... Vào phút tối hậu, nói mà xấu hổ... Tôi không có can đảm bắn.
Khi nói ông đổ ra linh động. Ánh mắt đâm ra sáng hơn và máu dâng lên má một cách yếu ớt. Ông ngước nhìn tôi.
- Anh giải thích thế nào đây? Một việc mà tôi đã quyết tâm, mà suốt nhiều tháng không ngừng nghĩ tới... Hay có lẽ tại vì thế cũng nên. Có lẽ tôi đã rút hết đi trước bao nhiêu can đảm của mình bằng tư tưởng...
- Cũng như trước khi Boris về tới thì thầy đã rút hết nỗi vui mừng đoàn viên, - tôi bảo.
Nhưng ông tiếp lời:
- Tôi ngồi như thế hồi lâu, súng kề thái dương. Ngón tay trên cò súng. Tôi bấm nhích một tí, nhưng không đủ mạnh. Tôi nhủ thầm: “Lát nữa sẽ bấm mạnh hơn, và súng sẽ nổ”. Tôi cảm thấy cái lành lạnh của kim khí, và nhủ thầm: “Lát nữa không cảm thấy gì nữa hết. Nhưng trước đó sẽ nghe một tiếng kinh hồn...” Anh nghĩ coi! Sát một bên tai!... Chính điều này cản tôi lại trước hết: sợ tiếng ồn... Vô lí thật, vì đã chết thì thôi chứ... Phải! Nhưng có chết tôi cũng mong giống như ngủ, mà tiếng súng nổ đâu có ru ngủ, nó làm tỉng giấc… Phải, chắc chắn đó là điều khiến tôi sợ hãi. Tôi ngủ, tôi lại thức dậy thình lình.
Ông cụ có vẻ lai tỉnh, hú hồn, và trong một lát, môi ông lại hờ hững rúng động. Ông nói tiếp:
- Bấy nhiêu điều, sau đó tôi mới nhủ thầm. Sự thật, nếu tôi có không tự sát, là vì tôi không tự do. Bây giờ tôi bảo: tôi sợ, nhưng không, không phải thế. Một cái gì đó hoàn toàn xa lạ với ý chí của tôi, mạnh hơn ý chí, cầm giữ tôi lại... Tưởng chừng Chúa không muốn tôi bỏ ra đi. Anh tưởng tượng một con rối lại toan tính rời sân khấu trước khi màn kết thúc... Đứng lại! Còn đoạn cuối, cần tới mày. A! Tưởng muốn bỏ đi lúc nào cũng được sao!... Tôi hiểu rằng cái mình gọi bằng ý chí, chẳng qua là những sợi dây lôi giật con rối, và do Chúa kéo. Anh không hiểu? Tôi sẽ giải thích. Này nhé: bây giờ tôi nhủ thầm: “Mình đưa tay mặt lên”, và tôi đưa lên (ông đưa lên thật). Nhưng chính thật sợi dây đã được kéo nhằm bắt tôi nghĩ rồi nói: “Mình muốn đưa tay mặt lên”... Không, tôi thấy anh không hiểu. Anh không tự do để hiểu tôi... Ô! Nay tôi thấy rõ là Chúa giỡn chơi. Cái gì Chúa bắt mình làm, Chúa đùa để cho mình tưởng mình muốn làm cái đó. Trò chơi ác ở chỗ đó... Anh tưởng tôi điên mất? Nhân thể: anh hãy tưởng tượng nhà tôi... Anh biết, nhà tôi đã vào nhà an dưỡng. Đấy! Anh hãy tưởng tượng nhà tôi in trí đó là nhà điên, và tôi nhờ người ta nhốt bà lại để tôi thoát nợ, với định tâm cho người ta coi bà là người điên... Đồng ý với tôi là kì khôi đấy chứ: bất cứ kẻ qua đường nào mà mình gặp đều hiểu mình hơn là người được mình giao phó cả đời mình… Lúc đầu, tôi đi thăm bà hằng ngày. Nhưng ngay khi thoáng nom thấy tôi: “À! Ông đấy à, Lại đến rình rập tôi...” Tôi phải từ không thăm viếng chỉ tổ bắt bà nổi cáu. Anh bảo mình thiết sống làm gì, khi không còn làm được gì lợi ích cho ai?
Những tiếng nấc nghẹn bóp thắt giọng nói của ông. Ông cúi đầu và tôi tưởng ông sẽ rơi vào lại tình trạng trầm trệ. Nhưng không, ông bất ngờ vọt miệng:
- Anh biết bà làm gì không, trước khi đi? Bà cạy ngăn kéo của tôi và đốt sạch thư từ của ông anh quá cố. Bà vẫn luôn luôn ganh với ông anh tôi, nhất là từ khi ông mất. Bà làm đủ trò với tôi hễ khi nào bắt gặp tôi, ban đêm, đang đọc lại thư từ của ông. Bà la lối: “Giỏi! Chờ cho tôi ngủ đã chứ. Ông giấu tôi.” Còn nữa: “Ông đi ngủ tốt hơn nhiều. Mệt mắt ông.” tưởng như bà ân cần lắm, nhưng tôi hiểu bà, ganh đấy. Bà không muốn để tôi một mình với ông anh.
- Chẳng qua bà yêu thầy. Không có sự ganh ghét nào mà không có tình yêu.
- Được đi! Anh hãy đồng ý với tôi đó là một điều buồn, khi mà tình yêu, thay vì tạo nên chí phúc cho đời, hóa thành tai ương... Có lẽ Chúa yêu ta theo nghĩa đó. - Ông cụ bừng bừng trong khi nói, và bỗng nhiên ông cao giọng. - Tôi đói bụng. Hễ khi nào tôi muốn ăn là con giúp việc đem sôcôla đến. Chắc hẳn nhà tôi có nói với nó là tôi không ăn cái gì khác. Anh làm ơn thân hành xuống bếp... cửa thứ hai phía tay mặt, trong hàng hiện đấy... và anh coi thử có trứng hay không. Hình như nó bảo tôi là có.
- Thầy muốn chị giúp việc chần cho thầy một quả trứng?
- Tôi tin là ăn được hai quả. Anh làm ơn? Còn tôi, tôi không thể làm cho nó nghe lời tôi.
Khi trở lên, tôi thưa:
- Thưa trứng sẽ xong xuôi trong chốc lát. Nếu thầy cho phép, tôi sẽ ở lại mục kích thầy xơi, vâng, tôi thích như thế. Hồi nãy, tôi rất buồn lòng nghe thầy bảo không còn làm được gì lợi ích cho ai. Hình như thầy quên bẵng cháu nội của thầy. Người bạn của thầy, cụ Azaïs, đề nghị với thầy đến sống với cụ, ở trường nội trú. Cụ nhờ tôi chuyển lời. Cụ nghĩ rằng bà La Pérouse này không còn ở đây thì có gì cầm chân thầy nữa đâu.
Tôi chờ đợi một sự chống trả nào đó, nhưng ông lại chỉ hỏi sơ sài những điều kiện của đời sống mới đón mời ông như thế nào. Ông nói:
- Nếu tôi có không chết, thì bây giờ tôi cũng chẳng hơn gì. Ở đây hay ở đằng kia, tôi không hề. Anh có thể xách tôi đi.
Tôi ước hẽn sẽ đến đón ông ngày mốt, từ nay đến đó tôi sẽ để ông sử dụng hai cái hòm cho ông tiện sắp xếp áo xống cần dùng cùng những món ông tâm niệm mang theo. Tôi nói thêm:
- Vả chăng, bởi thầy còn lưu giữ căn nhà này cho đến mãn hạn thuê, cho nên trở lại đây lấy thêm những món nào thiếu sót hãy còn kịp.
Ông cụ nhắc lại:
- Tôi làm khổ anh quá, anh là con người tốt bụng.
Tôi ước ao ông giao lại cho tôi mấy khẩu súng; tôi bảo thầy dùng làm gì nữa, nhưng ông không chịu để lại cho.
- Anh khỏi lo. Điều tôi đã không làm hôm ấy, tôi biết sẽ không bao giờ đủ sức làm. Nhưng đôi súng là kỉ vật duy nhất nay còn lại của anh tôi, và đồng thời tôi cần được chúng nó nhắc nhở cho tôi rằng: tôi cũng chỉ là món đồ chơi trong tay của Chúa.
* * *
IV
Trời rất nóng, ngày hôm đó. Từ các cửa sổ mở của trường Vedel, ta nhìn thấy những đọt cây ngoài vườn, phía trên còn bồng bềnh một khối lượng mùa hè hùng hậu thừa thãi.
Ngày khai giảng này là một dịp cho cụ Azaïs ban huấn từ. Ông đứng dưới chân giảng đàn, ngó thẳng vào đám học sinh, cho phải cách. Ngồi tại giảng đàn là ông cụ La Pérouse. Ông La Pérouse đứng lên khi học sinh vào, nhưng một khoát tay thân tình của ông Azaïs đã mời ông cụ kia ngồi xuống lại. Cái nhìn băn khoăn của cụ La Pérouse thoạt tiên đậu xuống người Boris, và cái nhìn đó làm vướng bận Boris, nhất là vì ông cụ Azaïs, trong lời huấn từ giới thiệu thầy giáo mới cho bọn trẻ, đã tưởng rằng mình cần phải ám chỉ vấn đề ông giáo mới họ hàng với một đứa trong bọn. Trong khi đó, ông cụ La Pérouse vờ không bắt gặp ánh mắt của Boris; lãnh đạm, lạnh lùng, ông định bụng như thế.
Boris thì nghĩ: “Thôi chứ! Cho mình yên với! Ông đừng bắt người ta ‘chú ý’ tới mình!”
Bọn bạn làm hắn khiếp. Bãi trường đi ra ngoài, hắn phải nhập bọn và, suốt đoạn đường từ trường đến “hộp đêm”, hắn đã nghe lời qua tiếng lại của bọn chúng, hắn muốn khép mình vào khuôn phép vì rất cần được cảm thông, nhưng bản chất quá nhạy cảm của hắn cưỡng lại, lời lẽ dừng khựng trên môi, hắn giận mình sao lúng túng, gắng đừng để lộ ra ngoài, lại còn gắng cười ra tiếng để đón trước những lời chế nhạo; nhưng vô ích: giữa bọn kia, hắn có vẻ là đứa con gái, hắn cảm thấy thế và rầu cho điều này.
Từng nhóm từng tụm được lập ra ngay gần như tức tốc. Một tên Léon Ghéridanisol nào đó làm thành tâm điểm và đã chế phục được cả bọn. Lớn tuổi hơn bọn kia tí đỉnh, và học hành cũng khá hơn, da nâu sạm, tóc đen, mắt đen, không lớn lắm, không mạnh khỏe đặc biệt hơn, nhưng được một cái là “chì”. Chì quái đản thật. Ngay thằng Georges Molinier đồng ý rằng Ghéridanisol đã làm cho hắn “nghẹn họng”: “Mà mày biết, muốn làm tao nghẹn họng, phải là một cái gì đã!” Sáng hôm nay hắn đã thấy Ghéridanisol la cà đến một thiếu phụ, bà này bế trên tay một đứa bé:
- Thưa bà, đứa bé là con bà đấy ư? (Vừa nói vừa chào trịnh trọng). Thằng nhỏ không xấu. Nhưng bà tin đi: nó sẽ không sống đâu.
Georges tới bây giờ vẫn cười ầm lên. Philippe Adamanti, một thằng bạn, được Georges thuật lại câu chuyện này, lên tiếng hỏi:
- Bậy nào! Thật sao?
Điệu nói láo xược kia làm chúng khoái trá, tưởng tượng không có gì cơ trí hơn nổi. Trò đã quá cũ, Ghéridanisol thừa kế của thằng chú họ là Strouvilhou, nhưng Georges không cần biết.
Ở trường, Georges và Adamanti được ngồi cùng một ghế với Ghéridanisol, bàn thứ năm, để khỏi quá lộ diện trước mặt ông giám. Georges ngồi giữa, bên trái là Adamanti, bên phải là Ghéridanisol (gọi tắt là Ghéri), đầu mút bàn là Boris. Sau lưng Boris là Gontran.
Gontran de Passavant sống đời buồn tẻ từ buổi cha mất đi, huống chi trước kia đời sống của hắn đã không lấy gì làm vui lắm rồi. Từ lâu hắn đã hiểu không trông mong thông cảm hay đỡ đần gì ở ông anh hắn. Hắn đi nghỉ mát ở Bretagne, được vú già đưa đi, bà Séraphine trung nghĩa, theo với gia đình của vú. Bao nhiêu đặc điểm của hắn đều xếp xó, hắn học. Một ước muốn thầm kín thôi thúc hắn, là chứng tỏ cho anh hắn rằng hắn hơn anh. Chính hắn tự ý và tự chọn vào trường nội trú, cũng vì muốn tránh ở cùng với anh trong cái ngôi nhà lớn tại đường Babylone kia vốn chỉ nhắc nhở cho hắn toàn kỉ niệm buồn. Séraphine, vì không đành lòng bỏ hắn, mướn một chỗ ở tại Paris, khoản tiền trợ cấp mà hai người con của cố bá tư?