Chuyện một bức thư
Chuyện một bức thư
ua khỏi dốc đường tàu, rẽ phải là con đường đang mở. Người ta san ủi, bùn đất lung tung. Gặp đợt mưa cuối mùa, lầy lội quá chừng. Nước đọng lòng đường, nước chực tràn vào chỗ bộ ván kê gần cửa nhà ông Phán. Ông lụi hụi tìm gạch xếp chồng, trát đất sét ngăn nước. Ngôi nhà xấp xỉ tuổi ông, nó cũng hao gầy, teo tóp. Ông lấy cây bạch đàn, cây keo, neo giữ. Bốn vách ngả nghiêng, những viên gạch lùa thanh tre xâu lại. Dẫu sao cũng ngăn được gió. Ông nghĩ vậy. Nhưng ánh sáng thì không ngăn được. Thứ ánh sáng ma mị hằng đêm của đoàn tàu đi qua lia vào đánh thức những khắc khoải trong ông. Và ông ngồi đốt thuốc cho đến khi ngoài đường có tiếng người đi chợ sớm. Ông nhớ rành rành, đó là một ngày tháng Mười một...
Mưa. Người đàn bà thức dậy, tìm khạp gạo vo, bắc niêu cơm lên bếp. Ngọn lửa bập bùng cháy hắt ánh sáng ra làm mặt người đàn bà như hồng lên. Ông ngồi trên bộ ván, vấn thuốc hút, nhìn mưa. Mưa thế này không biết những cây mạ cấy xuống có bị ông trời chụp nước không? Năm ngoái vừa cấy xong, nước trắng lăng đồng, đến khi nước rọt, ruộng đám nào cũng trơ gốc mạ. Những tép mạ non liêu xiêu bệu bã, xõa ra vàng khè như dưa muối. Sợ lắm, sợ mất mùa lắm. Nhưng sao sáng nay, lòng ông thấy có gì âm âm. Niêu cơm bưng lên đặt trên cái rế tre, dở nắp vung ra, mùi củ lang khô quyện mùi gạo thơm phức. Chén mắm cái, giã mấy trái ớt tươi hái ngoài vườn, ngon miệng quá trời. Bưng chén cơm, ông nhìn người đàn bà nói: “Ăn đi, đừng ngại”. Người đàn bà nhìn ông, một thoáng cười trên mắt, ánh mắt của kẻ chịu ơn và hình như còn chứa đựng điều gì xa xăm. Chị bước vào căn nhà này hôm qua, lúc chạng vạng tối. Lúc nhà ai cũng đã đốt đèn. Ông Phán cũng vừa đốt đèn thì có bóng người thụt thò ngoài cửa. Cái bước chân ngập ngừng đó làm ông bưng đèn soi tận tận mặt. Ồ một người đàn bà. Ông lạnh lùng: “Chị hỏi gì?” Luồng gió lùa qua, ngọn đèn lung lay. Người đàn bà rùng mình, ấp úng: “Ông làm ơn cho tui ở lại đây đêm nay được không? Tui lỡ đường!” Một khoảng yên lặng trôi qua. Ông Phán nói: “Tui ở một mình nếu chị không ngại thì cứ tự nhiên. Nhà tui chẳng có gì, bộ ván kia và cái võng đây. Chị muốn nghỉ đâu cũng được”. Treo tay nải trên cột nhà, chị nói: “Mấy hôm trước tui nhảy tàu ở chỗ Cống Đôi. Chỗ đó tàu qua chậm lắm. Họ đang sửa đường. Bữa nay, tàu chạy nhanh, tui không lên được”. Ông Phán có vẻ cảm thông. Lạ gì, lúc trước cũng có vài người vứt hàng từ trên tàu rồi nhảy xuống đây, và cũng có người gửi hàng đây, nửa đêm khuân lên tàu. Chuyện mua bán nhì nhằng ấy mà, ông đâu để ý làm gì. Đôi khi người ta cũng gửi ông ít hào trà lá, gọi là trả công. Ông hờ hững cầm không chê nhiều ít. Ông chuyên chú làm ruộng và đôi khi sửa hộ ai đó cái máy may. Tất nhiên là nghiệp dư thôi. Những cái máy may đâu thời Pháp thuộc còn lại, nó hay bị rối chỉ hỏng kim, hoặc hư thuyền, hư suốt gì đó. Không biết ông học nghề này ở đâu. Ông gọi tên từng bộ phận máy rành rọt. Nhưng tính khí ông bất thường. Cái bất thường đó, làm đàn bà con gái ít ai muốn gần. Ông ít nói, hoặc nói như bổ củi. Nhưng lần này không biết sao, ông lại dịu dàng đến thế. Ông nói: “Hôm nay tui nhổ mạ. Có chút ruộng, không người, một mình làm mệt quá. Chị ăn cơm xong, có việc cứ đi”. Bỗng dưng ông thấy lòng chùng xuống. Ông thấy hình như vô cớ mình quăng mất cái rổ, cái rá còn dùng được ra sân. Nhưng cái rổ quăng ra còn lượm lại, đằng này... Người đàn bà và hết miếng cơm trong chén, bỏ đũa đứng dậy đi xuống bếp. Chị bưng lên cái mo đài đầy nước chè tươi, hôi hổi nóng. Chị nói: “Nước này”. Ông bỏ dở điếu thuốc đang vấn, đỡ lấy, lơ đễnh nhìn ra sân. Chị thu vén chén đũa. Tợp ngụm nước chè, bập hơi thuốc, lòng ông thấy nôn nao. Một cái gì, ừ một cái gì không rõ, nó mơ hồ mong manh, khó nói. Người đàn bà ngồi rửa chén chỗ ghè nước trước nhà. Ai đó làm đồng sớm, ngang qua liếc vào, nói lời gì bay trong gió. Chị điềm nhiên ngồi rửa, thỉnh thoảng ngước nhìn ông. Ông nói: “Tui ra đồng, chị ở nhà rồi đi nghen”. Nhưng không, chị đã theo ông ra đồng. Chị nói: “Cho tui đi với, ngày mai mới có tàu vô, nằm nhà một mình buồn lắm”, “Ừ, đi thì đi” - Ông nói. Đưa siêu nước cho chị xách, ông vác cuốc, cầm nắm lạt mạ đi trước, chị theo sau. Vẫn cái bờ ruộng đã mòn chân ấy, mà ông bước đi hơi luýnh quýnh. Trưa hôm đó, gió bay khắp xóm. Gió mang theo câu nói cửa miệng mọi người “Lão Phán có vợ rồi”. Có người cải lại: “Bậy mà, có vợ sao không nói với ai một tiếng. Ít ra cũng có con gà con vịt mời bà con ly rượu chớ. Cái ông coi mà tệ thiệt”. Đây là nói vậy thôi, biết đâu mà lần, thằng cha hâm hấp đó. Lời bình phẩm bàn đi tán lại, loan xa. Mặc kệ. Ông Phán bình chân như vại. Để lâu cứt trâu hóa bùn. Bây giờ bà Thi là vợ ông Phán. Cuộc tình duyên trớ trêu, xuôi dầm mát mái được mấy năm. Đến khi bà Thi đẻ đứa con trai. Theo người ta nói đứa con trai giống hệt ông Phán từ cái mũi, con mắt đến cái miệng. Cái miệng nó cười dài nhằng hệt như cha nó. Là theo cách nói của bà Năm xóm trên. Nhưng ông Phán thì khác. Ông lằng ằng mãi. Cứ nửa đêm ông dựng bà Thi dậy. “Thằng Tùng con của ai, mầy nói đi?” Con ai bây giờ bà làm sao nói được? Bà ở với ông, sống với ông thì con ông chứ còn con ai vào đây? Đấy là sau lần đem hàng qua biên giới, bà trúng mánh đậm. Mang về một mớ tiền, bà nói: “Ông coi có kíp thợ nào hay hay kêu xây lại cái nhà. Mai tui nói đổ vật liệu”. Ông tỉnh queo: “Không nhà cửa gì cả, cứ để vậy, tui ở từ hồi nào giờ có chết đâu?” Những cuộc cãi vã hàng đêm, những chuyến đi về của bà thưa dần. Đống gạch bà mua đã lên rêu. Nó ngạo nghễ nằm ở hông nhà như một thách thức đợi chờ. Nó đợi chờ cái ngày được thành tường, thành vách, được ăm ắp hứng lấy tiếng cười, tiếng nói nói trẻ con. Nhưng không, nó đã thất vọng. Nó nằm đây từ bao nhiêu đêm rồi, chỉ nghe toàn những tiếng cãi vã, tiếng sụt sùi của người đàn bà. Còn đống cát lụi dần, mấy con chó hàng xóm, ác quá cứ bươi ra làm xấu vào đó. Bà Thi nhìn mà ngao ngán. Tưởng rằng bến cuối này bà sẽ được yên. Sóng gió gác lại bên kia đường tàu. Cái chơn chất, bùn đất của người đàn ông này sẽ cho bà những tháng ngày êm ấm nhất. Bà cố quên một quá khứ cay đắng đời mình. Đấy là lần bà rời khỏi quê nghèo miền biển lên thị thành kiếm sống. Đêm đầu tiên nằm ở thành phố, bà nghe như có tiếng sóng dội mãi vào lòng. Tiếng gió dặt dìu thổi qua rừng dương và cả tiếng chim bìm bịp kêu ngoài bãi bắp. Quê hương là cái gì không biết. Sao nó cứ ăm ắp trong lòng. Rồi bà gặp gã thanh niên điển trai nói lời đường mật. Bà nghe theo, bị gán nợ cho một người bên kia biên giới. Phải mất đến mấy tháng trời, bà mới trốn khỏi. Bà không dám về quê. Lầm lũi ở một thành phố đông người, cái nón mê với rổ vịt lộn trên tay, bà lặng lẽ đi qua chặng đường gian nan đó. Theo những chuyến tàu xuyên suốt Bắc Nam, bà quyết tâm làm lại cuộc đời. Rồi một đêm tình cờ bà ghé vào đây. Để bây giờ, đêm qua không ngủ, bà trằn trọc mãi. Bà ôm thằng Tùng trong lòng. Nó ngủ ngon lành. Giấc ngủ bình yên. Vài tiếng đồng hồ nữa, thức dậy nó không còn thấy bà. Nó mếu máo khóc. Nó kêu mẹ ơi! Nghĩ đến đó, bà thương nó quá. Nhưng biết làm sao? Thật tình bà không muốn xa ngôi nhà này. Nhưng ở lại thì... Bà đắn đo lắm. Vả lại công việc xong bà quay lại tìm cách dẫn Tùng theo. Đây là buổi sáng cuối cùng người đàn bà rời khỏi căn nhà. Căn nhà bà tình cờ đến và... tình cờ đi. Nó giống như cái ngẫu nhiên nào đó của cuộc đời. Chỉ tội thằng Tùng. Tùng lớn lên trong đay nghiến của cha, và mỏi mòn chờ mẹ. Tám tuổi nó đi chăn trâu cho người hàng xóm. Mười hai tuổi nó mê đánh bài. Ông Phán kêu về cho một trận. Nó bỏ nhà đi luôn.
Đấy là chuyện của hai mươi mấy năm về trước. Hai mươi mấy năm. Một khoảng thời gian khá dài đủ để làm đổi thay mọi cái. Nhưng cái tính khí ông Phán vẫn không thay đổi. Ông đã già lắm rồi, bước đi chậm chạp. Căn nhà ọp ẹp vẫn còn nguyên đó. Những đất đá ngổn ngang trước cửa. Con đường lầy lội quá, mà ông cũng ít khi ra khỏi nhà. Thỉnh thoảng ông hé cửa, nhìn theo đoàn tàu lao đi vun vút về phương Nam. Một đêm sau giấc ngủ, ông thấy mình không dậy được. Miệng đắng chát. Có lẽ cái ngày ra đi của ông cũng gần kề. Một mình trong quạnh quẽ, bỗng dưng ông thèm một bàn tay. Một lời hỏi han chia sẻ. Nhưng không, đã ba hôm rồi, chỉ có những con chuột kiếm ăn đùa giỡn trên xà nhà cùng tiếng thạch sùng chặc lưỡi. Và đêm qua ông đã hôn mê. Khi tỉnh dậy, ông thấy mình nằm trong một căn phòng sáng trưng. Từng giọt nước theo ống dẫn chảy vào cổ tay ông. Một người đàn ông ngồi cạnh lộ vẻ vui mừmg. “Cha! Cha tỉnh rồi hả. Con là Tùng đây. Thằng Tùng mấy chục năm trước mê đánh bài để trâu ăn mạ người ta đây mà”. Ký ức mơ hồ trong ông lờn vờn những mảng sáng tối, những đan xen giữa mất và còn, giữa có và không. Bỗng dưng ông nắm lấy bàn tay Tùng: “Con”. Một giọt nước len ra từ khóe mắt khô cằn trên khuôn mặt hốc hác. Thằng Tùng lấy khăn tay trong túi, mắt nó cũng ngấn nước. Nó run run đánh rơi tờ thư.
“Thành phố biển ngày... tháng... năm...
Tôi muốn lòng mình được thanh thản trước lúc đi xa nên viết mấy dòng này mong ông tha thứ. Ông hãy tha thứ tội lỗi cho người đàn bà lỡ bước ghé vào nhà ông, ghé vào cuộc đời ông. Thật tình tôi cố nén lòng giấu đi một quá khứ đọa đày để cùng ông chung sống cho đến cuối cuộc đời. Nhưng lương tâm tôi không cho phép. Lương tâm tôi cứ mãi xót xa. Mấy chục năm nay, tôi cố làm lụng nuôi thằng Tùng ăn học. Bây giờ nó đã trưởng thành. Tôi muốn nói rõ điều mà ngày xưa hằng đêm ông thường gạn hỏi. Thằng Tùng không phải là con ruột của ông. Chào ông”.
Người đàn bà đã nương nhờ ông đêm lỡ bước.
Thi
Tôi muốn lòng mình được thanh thản trước lúc đi xa nên viết mấy dòng này mong ông tha thứ. Ông hãy tha thứ tội lỗi cho người đàn bà lỡ bước ghé vào nhà ông, ghé vào cuộc đời ông. Thật tình tôi cố nén lòng giấu đi một quá khứ đọa đày để cùng ông chung sống cho đến cuối cuộc đời. Nhưng lương tâm tôi không cho phép. Lương tâm tôi cứ mãi xót xa. Mấy chục năm nay, tôi cố làm lụng nuôi thằng Tùng ăn học. Bây giờ nó đã trưởng thành. Tôi muốn nói rõ điều mà ngày xưa hằng đêm ông thường gạn hỏi. Thằng Tùng không phải là con ruột của ông. Chào ông”.
Người đàn bà đã nương nhờ ông đêm lỡ bước.
Thi
Đây là bức thư được viết cách đây mấy tháng, trước lúc bà Thi lâm bịnh nặng và qua đời.
Tùng vò vè mãi tờ thư, rồi xin phép ra ngoài. Một ngọn lửa xanh chập chờn cháy. Và sợi khói mong manh bay lên trong sương sớm. Bệnh viện bắt đầu một ngày làm việc. Nó cảm nhận được một cái gì đó. Hình như hạnh phúc không ở đâu xa. Và Tết này, ông Phán đón xuân ở một thành phố biển.
Minh Long cuối đông 2006
Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 12 tháng 7 năm 2016