Chương 18
Câu chuyện của ông Ba Sạng kể đến đây là hết. Mới nghe xong, tôi thấy khoan khoái trong lòng bởi vì tưởng như hé thấy được một cái gì mới lạ trong cái vụ hai bóng ma nhà Mệ Hoát và Phương Thảo hiện lên ở nhà tôi trong chợ Quán, nhưng sau khi ông Ba ra về, kiểm điểm lại và nằm một mình suy nghĩ, tôi lại nản vì thực ra nó chẳng giúp cho tôi biết them được chút nào về cái việc mà tôi muốn biết.
Mệ Hoát chết ra sao? Bị giết hay chết già? Mà quân Nhật chiếm tất cả khu cây Me Mát và chung quanh để làm trụ sở hiến binh thì cô Phương Thảo ở đâu? Có chết cùng với Mệ Hoát không? Mà sao hai người lại thành ma cùng xuất hiện một lúc ở nhà tôi như vậy? Họ có oan ức gì không? Họ kiếm tìm gì vậy? Mà có phải là chính họ quật chết Trần Hữu Lăng tức Tôkubê hay là y chết vì bệnh, vì bị thuốc, hay vì một nguyên nhân nào khác, không dính líu tới Mệ Hoát và cô Phương Thảo?
Thì hóa ra là bao nhiêu câu hỏi đặt ra từ lúc đầu đến tận lúc này vẫn hé ra được một chúc nào, mặc dầu ông Ba Sạng đã cho tôi biết rành rọt về Mệ Hoát và Phương Thảo khi còn sống.
Hôm từ biệt Sài Gòn để trở về Ban Mê Thuật, ông Ba Sạng đến cáo biệt tôi và ăn với tôi một bữa cơm.
Gần xong, tôi đem mấy điều thắc mắc đó ra hỏi ông thì ông cũng chẳng hay biết gì hơn những sự việc đã kể lại ở trên kia. Mệ Hoát và cô Phương Thảo chết rồi. Cái nhà của mệ bị phá hủy không còn gì nữa. Không có một người nào biết số phận của những cổ ngoạn trong ba gian nhà Mệ Hoát bây giờ ra thế nào. Nhưng tại sao mệ và cô cháu lại thành ra những cái bóng lờ mờ đi đi lại trong nhà tôi như để tìm kiếm cái gì, tại sao mệ vào lại nói nhỏ vào tai Trần Hữu Lăng làm cho Lăng giận đến cái độ phải chửi rủa và liệng ly ném ghế để đánh hai con ma ấy, tại sao Trần Hữu Lăng lúc chết rồi, cả người lại nát ra như thể bị trăm ngàn miểng sứ miểng sành đâm nát bấy cả người?
Ông Ba Sạng cũng như ông Ômya và tôi, tuyệt nhiên không thể hiểu một li nào hết.
Thế rồi tháng một và nửa tháng chạp qua đi. Một hôm, đương giúp tay ông Yên lau nhà dọn bàn thờ, bát hương, bài vị ở mấy bàn thờ thiên, thổ địa, tiền chủ, ông Ômya đến tìm tôi, cho biết là ông về miền Trung thăm mấy người bạn có lẽ mùng hai mùng ba tết gì đó sẽ trở lại đây, chúc tết và lì xì cho tôi. Tôi biết vậy, tôi không để ý nhiều, vì Tết bận rộn nhiều công việc không đâu, một phần cũng tại vì buồn phiền, chán nản vì nỗi xa nhà cửa, vợ con. Nếu chiến tranh cứ kéo dãi mãi thế này, không biết đến bao giờ mới lại đoàn tụ như ngày trước.
Ðêm mùng hai Tết, tôi uống rượu thật say đi ngủ. Nửa đêm, mở mắt nhìn ra sân khoảng tối tăm mù mịt ở ngoài gác sân thì thấy cái bóng trắng của Mệ Hoát đi qua những cái chấn song sắt ở cửa sổ, bước vào phòng tôi. Trên cổ mệ quàng một cái khăn voan trắng, còn ở tai đeo một chiếc vòng không biết bằng gì nhưng long lánh như một ngôi sao sáng trong đêm tối.
Tôi hỏi:
- Hôm nay mệ đi một mình, o Phương Thảo đâu rồi?
Mệ đáp:
- Cháu có công việc bận.
Nét mặt của mệ nguyên vẫn mờ mờ, trông không được rõ rệt bao giờ, hôm nay, tiết ra cái gì khắc hẳn những lần tôi gặp trước.
Nó bềnh bệch mà lại bàng bạc như một cái cây ta thấy trong mơ, thực ra thì đứng xa chỉ thấy lá rung lên khe khẽ nhưng tự ta lại biết chắc rằng những cái lá ấy ướt đẫm những mưa móc ban đêm.
Tự nhiên, nhớ lại giọng nói của mệ vừa đây, tôi có cảm giác là mệ nghẹn ngào nước mắt. Mệ đứng lặng một hồi lâu không nói gì. Tôi mời mệ ngồi, mệ nói:
Tôi đến đây hôm nay để chào thầy vì phải đi xa.
- Ủa! Mệ đi đâu vậy?
- Vâng, tôi phải đi xa một dạo và có lẻ lâu lắm mới về. Hôm nay, xin giã biệt thầy và nói lời cảm ơn thầy trước sau đối với tôi và cháu Phương Thảo thập phần chu đáo. Ít lâu nay, ai cũng nói đến nhân vị, nhưng theo quan niệm của phần đông, nhân vị chỉ nhầm vào người sống. Hình như tôi cũng nghĩ như thầy vậy, tôi có yêu một người nhưng người ta ác quá, thành thử không làm theo Ðức Phật hay Chúa Giê-su được. Ðối với tất cả những người tàn ác đó, tôi không đối xử tàn ác trả lại, nhưng tôi phải tự vệ để cho họ hồi tâm; nhưng họ vẫn không đề cao cảnh giác cho nên tôi phải buộc lòng đối phó. Tuy nhiên đối phó không phải là nuôi cái oán đời đời: họ thua rồi thì lúc ấy mới lấy lòng từ bi ra để rửa oán chứ không lấy oán trả oán ngay, họ chỉ ỷ vào sức mạnh không bao giờ giác ngộ được, hơn thế có khi lại được thể mà lấn át nữa, lấn át để chinh phục những người chung quanh làm nô lệ.
Thầy Tư à, ý nghĩ như thế không biết có đúng không, nhưng riêng tôi thì đã thấy kẻ ác không còn làm hại được ai nữa mà đã biết hối hận rồi. Nhưng tôi buồn không biết bao nhiêu thầy ạ. Nhà cửa tôi tan nát hết, bà còn thân thích của tôi cũng không còn. Chỉ còn lại một mối an ủi nữa là cái lẽ sống của tôi, ý nghĩa của tôi gói ghém cả vào trong mớ đồ vật cũng mất luôn và có lẽ mất hẳn, không còn bao giờ thấy ở trần gian nữa.
Cuối năm ngoái, được tin các đồ vật mà tôi tìm kiếm suốt cả mấy năm trường chôn giấu với nhiều thứ khác trong một cái hầm xây rất kiên cố ở dãy Trường Sơn, tôi và cháu lặn ngòi noi nước ra tìm, chan chứa không biết bao nhiêu hy vọng. Thì nay được biết đích xác là cả cái hầm ấy đã bị đào lên, bao nhiêu cổ vật cùng với châu báu kim cương mà quân Nhật cướp được của nước ta và Tân Gia Ba, Mã Lai, Thái, Lào, Cam Bốt đã bị những người lạ không biết từ đâu lại khiêng đi hết.
Của đời người thế... Thầy Tư à, muôn chung nghìn thứ ở đời, đến lúc trời mà thu lại cũng là không phải thế không thầy? Tiếc nuối cái đã qua đi là tỏ ra mình lì lợm, không chịu hiểu lẽ huyền vi của Hóa Công và chữ sắc không của Phật. Nhưng tôi buồn... buồn lắm... là vì một khía cạnh khác của vấn đề.
Chắc thầy Tư đã biết những đồ vật tôi kiếm tìm mấy năm nay không có gì khác hơn là cổ ngoạn đã sưu tập được trong cả một đời người.
Vốn là người cũng biết đôi chút về cổ ngoạn tôi biết như thế thầy Tư đừng giấu Thầy Tư thừa rõ là nhiều đồ xưa vì nhờ tồn tại lâu đời nên đa số đều có thần ở bên trong, có thể giúp cho người chủ được phúc trạch dồi dào, vượt nguy tránh hiểm.
Vì thế báu vật chỉ ở với những người có phúc đức, có nhân nghĩa mà thôi. Tôi nhớ có một lần chính thầy đã nói chuyện với bạn về viên "truyền quốc ngọc tỉ" mà Tôn Sách đổi cho Viên Thuật lấy ba ngàn tinh binh? Cái vận của ba nước Ngụy, Ngô, Thục suy tàn rồi, họ Tư Mã thống nhất được Trung Quốc, lập nên nước Tấn, ngọc tỉ lại trở về nước Tấn, đó cũng là theo cái lẽ phúc đức, nhân nghĩa vừa nói ở trên kia.
Chính hòn ngọc đó, nguyên thủy của ai? Của Biện Hòa nước Sở. Ba phen Biện Hòa ôm đá có ngọc dâng vua. Đầu tiên Lệ Vương sai thợ xét xem thực giả; thợ bảo "Đá chớ không phải ngọc". Vua kết tội Biện Hòa vào tội khi quân, chặt bỏ một chân bên trái.
Biện Hòa lại đem ngọc dâng Võ Vương. Vua lại truyền đem thử. Thợ lại bảo: "Đá, chớ không phải ngọc". Vua lại kết tội khi quân, chặt một chân bên phải.
Đến lượt vua Văn Vương lên ngôi, họ Hòa không đi được, ngồi ôm ngọc ở chân núi Sở khóc ba ngày ba đêm, máu theo nước mắt chảy ra. Vua Văn Vương nghe đồn sai đến hỏi. Họ Hòa nói: "Khóc đây không phải là thương tiếc hai chân bị chặt nhưng tức giận vì ngọc thật mà lại cho là đá. Văn Vương sai thợ xem cho thật kỹ thì lấy ở trong phiến đá ra được hòn ngọc thật, quý nhất ở trên đời". Ai lại còn không biết Văn Vương là vua thánh, hòn ngọc Biện Hòa vào tay ngài chớ không vào Lệ Vương hay Võ Vương chỉ là vì hai ông vua ấy bạc phúc, thiếu âm đức không xứng làm chủ nhân viên ngọc.
- Câu chuyện mệ vừa nói có dính líu gì tới vụ mệ sắp đi xa?
- Sao lại không thầy? Đã mấy năm nay tôi khổ công đi tìm kiếm những cổ vật do tôi sưu tập được khi còn sống, việc đó thầy đã biết. Đến bây giờ biết đích chỗ quân gian cất giấu, tôi lặn lội đến coi thì hầm hố chôn giấu đã bị người khác đào lên lấy sạch bách hết rồi, như thế mà thầy lại còn không nhận thấy gì sao? Chẳng phải là tôi bạc phúc, thiếu đức là gì?
Hai vai Mệ Hoát rung lên nhè nhẹ trong một giây. Gió thổi ào ào làm cho những nhánh y lăng va chạm vào nhau kêu lào xào. Tôi nhìn ra ngoài vườn xem hoa rụng nhiều hay ít thì quay vào cái bóng trắng Mệ Hoát đã biến mất tự bao giờ rồi.