Chương 19
Mãi đến tận rằm tháng Giêng năm ấy, ông Ômya mới từ miền Trung trở lại Sài Gòn, đến thăm tôi.
Có lẽ đường xa mệt mỏi, ông có vẻ bơ phờ, lười biếng hon những lần gặp gỡ trước đây. Ông nói:
- Miền Trung ít lâu nay không mấy yên, ông Tư à. Tôi đi nhiều tỉnh lắm. Ở đâu cũng điêu tàn, hầm hố xẻ khắp nơi, dân cư sinh sống khổ sở hơn những năm trước đây gấp bội.
Sau ít câu chuyện về thời thế, ông hỏi tôi?
- Ông ở nhà có chuyện gì lạ không?
- Cũng chẳng có gì lạ. Hai bên cứ nhùng nhằng chẳng ra sao cả. Thỉnh thoảng lại có tin ngưng bắn nhưng toàn là chuyện hão.
- Ở miền Trung có hôm phi cơ dội bom suốt cả ngày. Tỉnh nào cũng bị thương tổn không nhiều thì ít, nhưng bom ném dữ dội nhất là ở khắp dãy Trường Sơn?
- Phải. Tôi đi ra đó gặp vài người bạn cũ. Người ở trong núi di tản cả. Nghe nói là "họ" đào nhiều địa đạo. Tôi đi mất công vì các bạn tôi đã tản mác mất rồi, không thể đến được nơi dự định. Về sau này về đến Phan Rang tôi mới biết là chỗ tôi định đến hiện bị coi là cấm địa không ai được bén mảng tới.
- Thật không may.
- Không may nhất là lại nghe thấy nói rằng cái kho tàng mà người bạn tôi là Tôkubê phụ trách trông coi lại ở chính ngay chỗ đó. Người ta bảo rằng cái kho tàng ấy đã bị đào lên, bao nhiêu đồ vật cất giấu bị lấy đem đi hết.
Chắc ông còn nhớ có lần chúng ta đã nói tới cái kho tàng ấy với nhau... Bao nhiêu chiến lợi phẩm - nói là phẩm vật ăn cướp được ở Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái Lan thì đúng hơn - một số sĩ quan mật vụ được lệnh đưa về Sài Gòn chôn giấu vào những cái hầm rất lớn để chờ ngày thắng trận thì đào lên lấy đem về nước.
Các hầm ấy đào ở khe núi, trong rừng. Theo chỗ biết của tôi thì riêng một trong các hầm ấy đã chứa được một trăm cái thùng gỗ nặng to bằng cánh phản. Các thùng này chứa đủ bảo vật quý nhất ở các nước Á Châu mà quân Nhật đặt chân lên được.
Một vài người bạn của tôi hiện đã hồi hương kể chuyện rằng những thùng cây đó chở bằng xe lửa đến gần nơi đào hầm thì đỡ hàng xuống chất cả ở trong rừng núi và lấy lá cây, rơm rạ ngụy trang để cho máy bay của đồng minh không thể nhận ra dể ném bom. Từ đó, đưa vào hầm, quân sĩ Nhật tự làm lấy không để cho các lao động người Việt Nam phục vụ trong hàng ngũ quân đội Nhật được mó tay vào đó.
Tôi biết Tôkubê là một trong những người biết một trong mười hai đường bí mật đi tới mười hai cái hầm nói trên. Anh ta giữ một cái "cốt" gồm mười bốn chữ có thể giúp đi tới được một trong mười hai hầm đó. Tôi định tìm một người bạn mà tôi biết trước đây cùng làm việc với anh, không ngờ đến nơi thì họ đã tản mác đi hết cả.
Người bạn mà tôi gặp ở Phan Rang không biết nhiều về những cái hàm ấy hiện giờ ra thế nào, nhưng may cho tôi là nhờ có anh ta tôi được biết hơn một chút về Tôkubê hồi còn là sĩ quan mật vụ, chưa cải tên là Trần Hữu Lăng.
Thì ra đúng như lời ông Ômya đã nói với tôi trước đó ít lâu, Tôkubê theo quân đội sang Đông Nam Á, một mình, không có vợ con gì cả, hay nói cho đúng thì anh để lại một vợ, hai con ở Nhật và trong mấy năm trời không hề lấy một người vợ nào hết mà cũng hề có nhà cửa ở dãy Trường Sơn. Ở Sài Gòn ra đấy, ông sống chung với mấy người "Việt Nam mới" trốn tránh ở trong rừng, nhưng công tác chính vẫn là canh gác kho tàng bí mật.
Ở ít lâu, Tôkubê lại trở về Sài Gòn sống một cuộc đời khiêm nhường.
Nhưng thực ra, Tôkubê có phải là người khiêm nhượng hay không? Những người biết Tôkubê từ ở Đông Phương tin rằng anh ta là một người có lương tri và bản tính tốt, nhưng theo lời người bạn của ông Ômya ở Phan Rang từng biết rõ gia thế Tôbukê hồi còn nhỏ thì Tôkubê là một con người không hẳn như thế mà lại nuôi ở trong lòng nhiều phức tạp hơn.
Ku-ma-gai Tôkubê nguyên là con một nhà lái buôn trên sông nước ở Kyoto. Cha mẹ chàng buôn giang nứa bán từ bến này sang bến nọ, tỉnh này sang tỉnh kia. Anh mạnh lắm, khiêng giang, nứa bương tre từ dưới thuyền lên trên bờ không biết mệt.
Thấy anh mạnh mà lại tinh khôn ngoan ngoãn, một ông nhà giàu xin làm con, đem về nuôi trong một cáo lâu đài có lính canh gác cẩn thận (vì ông này là một daimyô nghĩa là một nhà quý phái có một địa vị cao cả trong hệ thống phong kiến của Nhật Bản trước Thế Chiến Thứ Nhì).
Lớn lên trong bầu không khí đó, Tôkubê suốt ngày mặc áo giáp, đeo gươm nai nịt hai chân theo lối võ sĩ, tập đánh kiếm chứ không chú ý đến kinh sách thánh hiền như các bạn đồng tuổi của anh ta hồi đó, nhưng nói thế không có nghĩa là Tôkubê là một người mất nết hư thân; trái lại, anh là một người võ sĩ có đạp đức vì thấm nhuần tinh thần võ sĩ đạo là cái tinh thần cố hữu của dòng bố nuôi ông.
Mỗi khi anh đi đâu, dân chúng trong vùng thường chỉ vào anh mà nói thì thầm với nhau:
"Tôkubê đấy! Anh ta mạnh như một con beo gấm!"
Luôn luôn, người ta thấy anh ta can thiệp vào những việc gì có tiếng là bất bình. Anh không hề sợ kẻ địch, không sợ chết mà cũng không sợ hiểm nghèo, đau đớn. Anh tả xông hữu đột giữa đám đông và anh múa cây gươm sáng lên vun vút y như là sấm sét. Luôn luôn người ta thấy anh chống đỡ đến cùng, mặc dù các bạn đã bỏ anh và mặc dù thân thể anh đầy những vết thương, bởi vì anh quan niệm rằng đã là võ sĩ thì phải đánh cho đến thắng, thu mà chạy thì chỉ có cách mổ bụng chết đi thôi.
Tôkubê thường nói: "Người ta không sống được bao nhiêu lâu, nhưng tên tuổi thì lưu truyền mãi hết đời nọ đến đời kia".
Chính vì quan niệm con người một cách thiển cận như thế, Tôkibê lần lần quan niệm sai cả nghĩa đời người, mà chính anh không biết. Anh tự coi mình là một anh hùng, khác hẳn những người tầm thường ở chung quanh: tất cả những người ấy đều phải thua kém anh vì nhiều lẽ: thứ nhất tại anh là anh hùng, thứ hai là tại anh giàu có, thứ ba là tại anh được trời giao phó cho sứ mạng thiêng liêng: anh chỉ thắng chứ không bao giờ thua ai. Sự đắc chí của tuổi thanh nhiên quả là một thứ rượu nặng uống say lúc nào không biết. Tôkubê tự coi mình là vô địch, giúp ai thì người ấy thành công mà chống lại ai thì người đó tất phải chết không thể nào tránh khỏi.
Quả nhiên, lúc đầu những sự việc xảy ra cũng đúng như anh ta nghĩ: "Tôkubê đến đâu thành công đến đó thực, nhưng có một hôm... có một thanh niên đi từ nghĩa địa Sengaku đến lâu đài Kira trên một con ngựa còm phạm phải cái tội là đi qua chỗ ở của Tôkubê lại không cúi đầu chào người lính gác.
Lính xông ra bắt, chàng thanh niên lạ mặt kia không chịu, đòi gặp Tôkubê nói chuyện.
Átmuri và Tôkubê thỏa thuận với nhau mấy điều: đánh nhau tay đôi, không có một người nào ở ngoài can thiệp, chết thì thôi, không được trả thù ngầm. Tôkubê bằng lòng và bắt các gia nhân của mình phải thề theo đúng lời cam kết đó theo tinh thần võ sĩ đạo cổ truyền.
Átmuri đội một cái nón có cài ngôi sao trắng, và đeo lủng lẳng ở bên vai một ống tiêu mà chính thân phụ anh đã để lại cho anh. Trước khi hai bên giao tranh, Átmuri thổi một khúc tiêu thật buồn và làm một bài thơ tạ từ cõi đời này, đồng thời nói lên sự vô nghĩa của cái sống và chết và tính cách phù vân của cái lợi danh.
Tôkubê hét lớn:
Ta không muốn nghe gì hết. Ta khiêu khích nhà ngươi. Lại đây, lại đây đọ sức với người anh hùng số một ở Kyôtô nổi tiếng là một con beo gấm.
Átmuri chịu liền. Chàng giơ gươm lên, tiến lại phía Tôbukê. Một trận đấu rùng rợn diễn ra, cả hai lăn ra mặt đất, có lúc Átmuri đè lên trên, có lúc Tôkubê vật Átmuri té lăn cù trên cỏ.
Nhưng được chừng mười hai hiệp Tôkubê thắng thế.
Một tay bóp lấy cổ Átmuri, một tay cầm cây kiếm bén lăm lăm chém đầu địch thủ. Chính giữa lúc ấy, đòn bất ngờ xảy ra: Átmuri áp dụng một lối đánh kỳ lạ chưa từng thấy bao giờ, chồm lên vít cổ Tôkubê xuống, lấy chân đè lên mặt anh ta. Toàn thân Tôkubê cứng đơ. Átmuri nhìn vào mắt Tôkubê nói:
Ta có thể giết chết nhà ngươi, nhưng theo lời tổ tiên ta truyền lại, không bao giờ nên giết một người bị hạ. Đứng lên đi.
Theo tinh thần võ sĩ đạo, một người bị hại, dù là được địch thương tình mà tha chết cũng chẳng nene sống làm gì phải lấy gươm mổ bụng thì khỏi nhục mà giữ toàn được thanh danh.
Tôkubê không làm như thế. Anh đứng dậy, cúi đầu mà đi về như một con chó ghẻ, trước con mắt ngạc nhiên của bao nhiêu quân hầu, đầy tớ...