← Quay lại trang sách

Chương 21

Thế là sựu đổ vỡ diễn ra một cách vô cùng thảm thiết. Sau một thời gian dò thám kỹ càng, Tôkubê chờ đúng một hôm o Phương Thảo ra bãi sông chờ tàu để đi mua cổ ngoạn ở miền Tây cho dì, xông ra bắt cóc o Phương Thảo đem đi mất và việc đáng tiếc đã xảy ra một cách vô cùng man dại...

Chiều hôm đó, dân chúng xóm Cây Me Mát tìm thấy o Phương Thảo nằm trong một bụi lau ở gần Kinh Tàu Hủ (lúc đó có nhiều quân Nhật đóng).

Là vì Kinh Tàu Hủ, ngoài tính cách nối liền thủ đô Sài Gòn với các sông ngòi chảy xuống miệt Hậu Giang và là cái bến cho các tàu nhỏ, ghe thương hồ, ghe chài "ăn lúa" từ Bạc Liêu, Bãi Xâu, Sóc Trăng kéo lên, hoặc thuyền "Cá Đen" từ Biển Hồ đổ xuống, còn là một con đường chiến lược. Trước đây, tàu binh Pháp đã mượn kinh này vây đồn Cây mai, do đó, đánh úp chợ Mỹ Tho, nay quân Nhật cũng lại chiếm đóng địa điểm ấy, căng dây kẽy gai và cấm người lạ không được bước chân vào đó "nếu vi phạm, nổ súng liền".

Tôkubê đã hãm hiếp o Phương Thảo và sau khi thỏa mãn thú tính, đã bỏ nàng tại đây, trở về tìm Mệ Hoát và trình bày sự việc trắng trợn và đê mạt:

- Dù cách gì đi nữa thì o Phương Thảo bây giờ cũng đã bị thất tiết rồi. Nhưng tôi cũng cứ bằng lòng lấy cô ta làm vợ, nếu như bà ưng thuận.

Mệ Hoát nhất định không chịu, Tôkubê la hét như một con thú dữ bị tên, hết lời đe dọa tưởng rằng một ngày hai ngày Mệ Hoát bằng lòng, không ngờ sau đó một ngày thì o Phương Thảo đâm đầu xuống một cái ao gần đó tự tử vào lúc nửa đêm.

Sáng hôm sau, tin đó loan đi, Tôkubê uất ức tưởng chừng như có thể hộc ra máu. Không những y thương tiếc người đẹp không về được tay y, Tôkubê còn uất ức hơn về một nỗi là y cảm thấy bị nhục như chưa hề bị nhục đến như thế bao giờ.

Cái chàng sĩ quan Nhật mê gái ấy, vốn đã nóng, lại bị xúc cảm quá mức, nổi một cơn điên rùng rợn, y gầm lên, hét lên, và cái máu hung hãn của anh khi còn là "con beo gấm" ở Kyôtô thoắt đâu trở lại. Lập tức anh cho năm cái xe đến chở cổ ngoạn của Mệ Hoát đi. Không thể nào chở hết được! Tuốt cây kiếm dài đeo lủng lẳng bên hông, Tôkubê vung lên múa như một thằng ngộ dại. Trong nháy mắt, bao nhiêu kỳ châu, dị ngọc, bao nhiêu cổ vật sưu tập hết đời nọ đến đời kia, bao nhiêu chứng tích của văn minh văn hóa tự nhiên tan nát ra từng mảnh, khóc thét lên, rồi vung ra khắp chung quanh như sương thịt tan tành của người ta dưới trận mưa bom do một lũ quỷ không óc, không tim trút xuống.

Tuy nhiên, cổ ngoạn hình như có thần cho nên Tôkubê phá hoại cũng không thể bể vỡ hết. Ngay chiều hôm đó, năm cái xe lớn của nhà binh lại đến chở hết những báu vật còn lại đem đi. Công việc ấy kéo dài từ buổi tối cho đến mãi trưa hôm sau mới hoàn tất. Miểng sành, miểng sứ cao ngất lên như cái núi.

Tôkubê và mấy tên bạn đổ xăng khắp cả ba gian nhà, nổi lửa đốt. Lửa bốc lên cao đến nổi người ở Sài Gòn đứng nhìn về phía đó cũng thấy rát cả mặt lên.

Đám cháy kéo dài suốt một ngày một đêm mới dập tắt được, nhưng bao nhiều nhà cửa ở chung quanh đấy đều ra tro, không còn lấy một bức tường nào đứng vững. Về sau này, người ta kể lại rằng mùi khét từ đám cháy tiết ra dây dưa đến cả tháng trời không hết, mặc dầu có những trận mưa to lắm, là vì có hàng trăm người ở chung quanh đó vì tiếc của cố chạy đồ chạy đạc, mà cũng vì chậm chân nữa, nên đã bỏ mạng trong đống lửa và cháy thiêu mất xác.

Còn về Mệ Hoát... Từ lúc Tôkubê nổi cơn điên lên tuốt gươm ra phá vỡ các cổ ngọan trong nhà Mệ cho đến lúc lửa cháy bùng bùng đỏ cả một góc trời, không có một người nào, tuyệt nhiên không có một người nào trông thấy Mệ đâu. Thế là tại sao? Thế thì Mệ đi đâu?

Sau này, một người ở Chợ Quán thoát chết trận cháy kinh hoàng đó nói với người quen rằng:

- Sau khi mấy anh quân phiệt Nhật đi rồi và thấy lửa từ nhà Mệ bốc lên, tôi cố chạy lại đứng ở bên ngoài kêu Mệ cả tiếng đồng hồ. Chính tôi trông thấy Mệ từ ở gian đầu bước ra ngoài, nhưng không hiểu nghĩ ngợi ra sao Mệ lại quay trở lại... Hình như là Mệ tiếc của, muốn vào trong nhà để nhặt nhanh xem có còn thu nhặt được đồ vật gì hay không. Tôi la thét ầm ỹ cả lên, bảo rằng đồ vật gì thì cũng mặc đấy, hãy lo chạy thoát thân trước đã, nhưng Mệ hình như điếc không nghe thấy gì cả hay là mất trí rồi cũng nên, thành thử cứ lom khom mãi trong đống lửa để mà kiếm cái này tìm cái nọ... Thế rồi, một lát sau, ngọn lửa cuốn lấy Mệ...

Hai vợ chồng một người trẻ tuổi khác cãi lại:

- Đâu có. Chính ngay lúc bọn ăn cướp kia đến phá nhà Mệ Hoát, chúng tôi đã đi cửa sau vào lôi Mệ - lúc ấy đương trốn ở dưới gầm một cái tủ chè - để đưa ra cái hẻm ở sau nhà. Mệ không có làm sao hết.

- Thế thì bây giờ Mệ ở đâu?

- Thì các công các bà còn lại gì cái cảnh đạo tặc thủy hỏa xưa nay lúc nào chẳng thế: mạnh ai nấy chạy... Chúng tôi cũng phải tự lo thân, chạy lấy một ít đồ đạc. Đến khi quay lại thì thấy mất Mệ Hoát. Chúng tôi ngờ rằng Mệ đã gặp được một người quen đưa đi tá túc ở đâu rồi.

- Nhưng tôi nghe thấy thì lại khác: một bọn chó săn của Nhật, đi lảng vảng ở chỗ cháy để xem xét tình hình đã bắt cóc Mệ đem về giam giữ ở một căn cứ rồi ở đó Mệ bị tra tấn cực kỳ dã man cho đến chết và chết hai ba ngày rồi Mệ vẫn mở trừng trừng con mắt không làm sao nhắm được.

Người nói chuyện tặc lưỡi tiếp:

- Theo các cụ ngày xưa ghi lại thì có phải chết như thế là chết oan không?

- Chết oan hay không, chưa càn biết làm gì vội, nhưng chắc chắn chết như thế là chết tức tưởi, chết không nhắm mắt được. Người ta bảo rằng những người chết như vậy rất linh thiêng và sau này thể nào cũng báo oán kẻ đã hại mình...

Về cái chết của Mệ Hoát mỗi người nói một cách, thành ra không ai biết Mệ đã thật sự chết như thế nào, nhưng sau khi hỏa hoạn ở Chợ Quán này xảy ra được ít lâu thì hầu hết những người ở làng Thợ Đúc và những người ở con đường ngang nhà thờ Chợ Quán bây giờ (tức bên hông chùa "Nhơn Sơn Tự" và "Chùa Gia Điền" lúc đó) đều nhận thấy một sự việc giống in nhau, không ai chối cãi được.

Hàng đêm, nhất là hôm tối trời, và vào cái khoảng nửa đêm về sáng, khắp từ Tân Kiềng, Nhơn Giang, Bình Yên đến vùng Cây Mai, chùa Gò, người ta thường nghe thấy có tiếng khóc não nùng vẳng ra. Tiếng khóc đó, nhiều hôm gặp gió ngược hun hút đưa vào tới "Mả Biền Trụ" ở trên cánh đồng ruộng khỏi "Chợ Cây Da Thằng Mọi".

"Mả Biền Trụ" còn gọi là "Mả Ngụy" hay "Đồng Tập Trận" nguyen là mả Ngụy Khôi" Khôi là người Nùng, bị Tả Quân Lê Văn Duyệt bắt được, nhưng thương tài không giết, nuôi làm dưỡng tử và lấy họ Lê. Đến khi Tả Quân mất đi, Khôi vì không chịu nổi được cử chỉ đê hèn, dê chó của bọn gia nô tham nhũng, nổi lên giết quan triều đình, chống lại chánh phủ trong ba năm trường. Sau, Khôi bị chết, triều đình mới hạ được thành Sài Gòn. Vua Minh Mạng, chưa đã giận, sau phá thành, san làm bình địa và giết gần hai ngàn dân lành, không phân biệt lớn nhỏ, trẻ già, chôn chung vào một huyệt.

Những người ở gần Mả Ngụy cho rằng tiếng khóc than vãn văng vẳng trong đêm khuya thanh vắng là tiếng khóc của ngót hai ngàn dân vô tội bị nhà vua ghép vào tội phản nghịch "theo giặc Khôi ở lại trong thành". Và sau này gặp đêm suôi gió, tiếng khóc than đó lại bay về hướng "Chợ Bột", Chợ Hôm, chợ Mai, thì người ta ngờ là không đúng. Do đó mấy người bạo dạn quyết tâm liều mạng đi xem xét coi tiếng khóc đích thực vẳng ra từ nơi nào thì tất cả đều ghi nhận rằng phát ra từ khu nhà cháy ở Chợ Quán trước đây.

Họ kể lại như sau:

- Chúng tôi nhất định như thế, không có cách gì làm được. Thức mấy đêm liền để ngồi canh chừng ở đấy, chúng tôi không những được nghe thấy tiếng khóc phát ra từ những núi vôi gạch vụn mà chính mắt chúng tôi được vài lần trông thấy những bóng ma đi đi lại lại trên những cái nền nhà đổ nát tại đó: có cái bóng ôm mặt khóc rất lớn; có cái khuân vác những tảng vôi, hòn gạch chồng chất lên thành đống cao; lại có cái bóng cứ gập mình xuống đi đi lại lại như thể tìm kiếm vật gì rất lâu rồi vụt một cái kêu lên những tiếng thất thanh tức tưởi.