Chương Kết
Thế là hai chiếc xe đò cũ rong ruổi theo nhau chở chúng tôi đến trại tị nạn Leamsing. Len lỏi qua những phố xá sầm uất, băng ngang những đồng ruộng phì nhiêu, hai con trâu máy càng lúc càng thở hồng hộc cố sức bò lên con đường dốc gồ ghề dẫn đến ngọn đồi cheo leo nằm dọc theo ven biển. Bên đường cây cỏ khô héo xác xơ, lèo tèo vài căn nhà lá trông trơ trọi và khôi hài như những người nộm đang khom mình giữa ruộng.
Cuộc hành trình hơn năm tiếng vòng qua những dãy đồi lởm chởm đất đá, giữa đám bụi đất mù mịt thỉnh thoảng xe lọt xuống ổ gà to tướng làm mọi người đang ngủ gà ngủ gật một phen hoảng vía. Cũng đôi khi có những nhánh cây đưa hẳn ra ngoài làm xe phải lách thật nhanh để tránh khiến mọi người bị dồn lại chồng cả lên nhau. Nhiều người mệt mỏi chẳng buồn há miệng nhưng một số thanh niên thiếu nữ hầu như quên hẳn mọi lo phiền vừa qua thừa dịp trêu ghẹo cười đùa nghiêng ngửa và nằm cả vào lòng nhau.
Tôi ngồi thu hẹp ở một góc sau lưng tài xế; ngang bên kia, Nguyện ôm Trường ngủ vùi. Từ lúc được đám thanh niên cõng từ ngoài bãi về cũng là lúc Nguyện làm mặt lạ với tôi. Vì tự ái nên tôi cố giữ gương mặt lạnh như tiền nhưng trong thâm tâm vẫn luôn tìm cách tạo cơ hội cho Nguyện đến gần làm lành. Tôi nghĩ trước một biến cố quá kinh khiếp thì người đàn ông ích kỷ hẹp hòi như Nguyện khó có thể bình thản chấp nhận ngay được. Nhưng càng có nhiều cơ hội, Nguyện càng làm eo và càng tìm cách hờ hững xa lánh tôi. Ngay cả đến bé Trường, Nguyện cũng muốn giữ độc quyền làm như chỉ có Nguyện mới xứng đáng làm cha của nó. Tại sao Nguyện không nghĩ rằng thằng bé tuy mang giòng máu của bố nhưng hình hài lại chính do tôi cưu mang, tác tạo? Vì vậy đâu phải chỉ có Nguyện mà tôi cũng có quyền thương yêu, ôm ấp cũng như có bổn phận và trách nhiệm phải uốn nắn thằng bé ngay từ hồi nhỏ. Tôi không muốn con tôi trở thành Nguyện thứ hai, thành thứ công tử sống thừa, con cháu của ông bà cai Hòa. Thương con, tôi không thể ôm nó vào lòng như Nguyện mà phải dọn sẵn cho nó một tương lai, một tương lai hoàn toàn không có hình ảnh heo gà chó mèo sống trà trộn chung với người. Ý tưởng chợt đến khiến tôi cười cay đắng. Ngày này sáu năm về trước tôi cũng đã từng nói như vậy để rồi nhu nhược yếu hèn và tình thương thể hiện không đúng chỗ đã giết chết tuổi hoa mộng của mình. Cũng có thể cả một cái xã hội nghèo đói trọng tiền khinh nghĩa đã cùng toa rập đè bẹp những người đàn bà với kiếp sống dở chết dở như tôi...
... Sáu năm trước cũng trên con đường gồ ghề cây cối mọc um tùm hai bên như những bóng ma trơi đuổi theo từng bước khi tôi vừa thoát chạy ra khỏi nhà. Tôi nhớ, nhớ rất rõ sau khi bị mẹ và chồng đánh, nhớ mùi xú uế xông ra kịp lúc đã cứu tôi thoát khỏi đám đông và bị vất vào phòng như con chó chết. Nỗi oán thù bốc lên tận đầu khiến tôi quên hết họ hàng giòng tộc, quên bố, quên mẹ, quên Hằng dù nó đã chết mà chỉ nhớ có một mầm sống vừa tiếp nhận hơi thở đang nằm trong bụng. Không thể sống suốt đời với cuộc sống nhục nhã thế này. Có con tôi phải sống khác. Tôi phải sống với trách nhiệm, nuôi dưỡng và bảo vệ nó.
Đêm xuống chờ cả nhà ngủ, tôi lén ôm quần áo đi tắm rồi mở cổng rào chạy trốn. Con đường từ nhà đến Xóm Củi dài ba cây số, về đêm không một bóng người qua lại ngoại trừ những con chó đi hoang thỉnh thoảng đuổi nhau rầm rập giữa đường. Chúng sủa, chúng cắn và chạy từng bầy như muốn biểu dương lực lượng hùng hậu với những chị chó cái còn bị xích trong rào. Ban đêm đời sống hầu như thích hợp với các loài vật; chúng hồn nhiên đùa giỡn với cây cỏ, say sưa tắm mình dưới trăng, reo hò với gió và bóng tối hầu như cũng đồng lõa với những thú vui bản năng.
Vài con mèo nằm trên mái nhà cất tiếng kêu ngao ngao giọng khản đặc như chế nhạo hình hài thô bỉ tất tưởi và lạ lẫm của tôi. Tôi liếc nhanh xuống khoảng bụng vừa đủ căng chật chiếc áo bà ba lòng tự hỏi đó có phải là kết quả của ái ân? Nếu có tại sao tôi lại trốn chạy người tác tạo ra nó? Còn không, với thể xác không rung động tại sao đứa con lại được tạo hình? Đọc trong sách động vật hay thực vật cũng đều sinh sản giống nhau, có nghĩa là không cần sự rung động. Phấn của hoa cái gặp hoa đực sẽ tự động đơm bông kết trái và con người, trai gái ăn nằm không cần yêu thương đứa con vẫn có thể thành hình. Nếu quả thực như vậy thì đứa con trong bụng của những người mẹ chắc gì đã là chứng tích của hạnh phúc?
Chiếc bụng vừa u lên chứa giọt máu của Nguyện ngoài ý muốn, nó còn nhỏ, nhỏ lắm. Tội nghiệp con tôi, dù trai hay gái nó cũng không có những may mắn hoặc sung sướng như mấy đứa trẻ khác. Bỏ nhà ra đi chưa chắc tôi có thể tạo được cho con tôi một cuộc sống tinh thần khá hơn trong khi vật chất lại phải bôn ba xuôi ngược và điều thiệt hại nhất cho những đứa trẻ ra đời có mẹ mà không có cha. Trong xã hội này, giấy tờ khai sinh con cái mang họ mẹ là những đứa con hoang. Con hoang đều bị đời bạc đãi khinh miệt và những trẻ cùng tuổi xô đẩy xa lánh. Tương lai của con tôi bi thảm như thế nhưng ngược lại nếu bố nó là Nguyện thì cuộc đời nó sẽ ra sao? Tôi hoang mang lo sợ nhưng niềm đau thân xác vẫn mãnh liệt hơn cái viễn ảnh có bố hoặc không có bố. Dù thế nào cũng phải đi, tôi không thể mãi làm con nô lệ...
Tôi đến nhà Thanh Huyền trời đã gần sáng với áo quần dính đầy bụi và ướt đẫm mồ hôi. Từ Xóm Củi xuống nhà nó trên mười cây số, không dám gọi cyclo vì sợ lỡ nó không có tiền trả nên tôi cố gắng đi cho hết quãng đường dù biết là quá dài. Dưới ánh điện mờ hoặc khi băng qua những khúc đường tối, tôi cố men theo lề cắm cúi bước nhanh đốt ngắn thì giờ, thời gian đủ để tôi kiểm điểm lại tài hèn sức mọn của mình. Vẫn chưa có một tính toán nào nuôi dưỡng bản thân và dành dụm chút đỉnh tiền trước khi sanh nở.
- Mày điên quá Phượng ạ! Đi như vậy hư thai thì sao? Huyền lo lắng nhìn tôi.
- Càng tốt, chết con chết luôn cả mẹ.
- Đã vậy sao không nhào ra đường cho xe cán chết? Thật là hết khôn dồn đến dại...
Huyền đang chửi tôi. Mặc kệ, ai chửi thì cũng chỉ đến thế!
- Mày có gì cho tao ăn không?
Huyền đứng lên chiên quả trứng gà và hâm nóng tô cơm nguội đưa cho tôi:
- Bữa qua tao "trúng mánh" thành ra mua mấy ổ bánh mì thịt ăn nên cơm mới dư, gặp như mọi hôm chỉ có nước nhịn đói.
Mặc nó lải nhải giải thích, tôi lùa đũa cơm vào miệng. Ngon. Cả đêm tiêu phí bao nhiêu năng lực, giờ ăn vào để lấy sức trở lại.
- Tao phải ăn hai tô nữa mới đủ no. Lấy thêm đi Huyền.
- Sư khỉ, tao đã bảo hết rồi, chờ trưa nấu một lượt cho đỡ tốn.
Cơm nóng trôi xuống bao tử làm ấm cả ruột gan, bây giờ lời đay nghiến của nó mới lọt vào tai tôi.
- Mày sống no ấm đâu cần biết đến bạn bè khốn đốn.
- Ừ, no ấm lắm. No đến nỗi cái bụng ễnh tướng.
- Tao chả đùa đâu. Cả mấy tháng nay má tao đi theo bạn bè buôn huệ dưới lục tỉnh. Huyền tiếp tục than thở.
- Chuyện động trời. Tao không tin má mày dám bước chân ra khỏi nhà.
- Muốn ăn phải lăn vào bếp. Từ ngày dọn xuống chuồng chim cũng là ngày bị cắt luôn lương thực. Hai chị tao cũng khốn đốn lo cho gia đình họ còn chưa xong lấy đâu mà giúp đỡ. Mày xem nhà tao cả ba người lớn còn không lo nổi mà.
- Thằng em mày to xác thế mà cũng đành bó tay?
- Cả nước bó tay thì đúng hơn. Chiến tranh càng lúc càng lan rộng, dân chúng chạy loạn tứ tán chẳng ai còn thiết làm ăn. Thằng em tao khủng hoảng vì thời cuộc nên nghỉ học nửa chừng tạm thời mua đồng, nhôm, ve chai bán lại cho tụi chệt kiếm tiềm. Tao ở nhà mua sỉ bao ni lông của tụi con nít mang đến.
- Mua sỉ? Tôi ngạc nhiên quên hẳn hoàn cảnh cay đắng của mình.
- Ừ, tụi nhóc di tản từ miền trung vào trong này không có việc làm nên lê la ở những cống rãnh hoặc bới trong những đống rác tanh tưởi lượm giấy cũ và bao ni lông. Tao mua lại rồi rửa sạch phơi khô mang vào Chợ Lớn bán cho hãng.
Tôi nhìn Huyền bằng ánh mắt nghi hoặc.
- Mày không tin là đúng, rúc trong chĩnh gạo còn biết gì đến trời đất chung quanh. Giặc đã chiếm gần hết những tỉnh miền trung làm dân chúng di tản vào trong nam rần rần. Nghe họ đồn ông Thiệu đã cắt đất nhường cho họ chẳng biết có đúng thế không nhưng thiên hạ xôn xao và mình càng lúc càng đói thì cũng đâm hoảng. Dân miền quê đâu còn lòng dạ trồng trọt cày cấy cũng đổ xô lên Sài Gòn lánh nạn. Họ làm như gần dinh độc lập là sẽ an toàn nên đã đói lại càng đói thêm. Mày xem chung quanh đây toàn là những kẻ đang chết đói chết khát. Chết đến nơi rồi Phượng ạ!
Huyền nói một thôi một hồi như kẻ rành rẽ hiểu biết mọi chuyện thế sự rồi bỗng ngừng lại vài giây nhìn tôi:
- Thằng Nguyện đối xử tệ bạc hay sao mà mày phải trốn nhà đi vậy?
- Chuyện riêng giữa tao và cha mẹ chồng.
Tôi không dám kể tất cả ngọn ngành dẫu Huyền là bạn thân, dù sao chuyện kể xấu chồng con vẫn là một điều khó nói và khó nghe.
- Tưởng gì chứ cái đó là lẽ thường, đứa nào lấy chồng mà chẳng phải như vậy. Mày có ngon thì dọn nhà ra riêng...
Nó thao thao mang mấy cái triết lý cùn ra nhai cho đỡ buồn, hình như đã từ lâu nó không được nói nên khi nói mắt nó long lên sự cương quyết khác thường. Mới hơn nửa năm không gặp mà nó thay đổi khá nhiều, cằn cỗi, già dặn và cũng chững chạc hơn xưa.
- Sao mày trông bệ rạc vậy? Trời đất ơi... nó la lên khi nhìn kỹ bộ đồ tôi mặc trên người, rách kiểu gì mà ngộ há, lỗ chỗ như hoa rơi, lại còn hai ống quần...
Huyền đảo mắt nhìn từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên và dừng lại ở hai bàn tay chai sần của tôi rồi chợt nín lặng. Sự im lặng khiến cả hai sượng sùng nhìn nhau và tự dưng đâm ra xa lạ khách sáo. Hình như tôi vẫn cố tình giữ khoảng cách bằng sự che dấu.
- Ra nhà sau tắm đi Phượng, chuyện gì cũng để từ từ giải quyết. Còn hoàn cảnh gia đình tao thì mày cũng đã biết, chỉ sợ không chu đáo làm mày thất vọng.
Tôi thất vọng thật, ngay từ lúc vừa nuốt trôi tô cơm khỏi cổ. Nếu nó không trúng mánh như đã nói thì dù có là bạn bè thân thiết cách mấy tôi cũng vẫn phải nhịn đói. Cơm ăn vào thì thấy ngon nhưng sau đó biến thành những viên mật đắng ợ mãi trong miệng. Tôi cầm bộ đồ ngủ của Huyền băng qua khỏi chái sau. Nhà tắm lộ thiên vuông vức ghép ba mặt bằng những lá dừa khô cao gần tới ngực; cửa ra vào là một miếng nhựa kéo ngang dính đầy những ghét. Bên trong vỏn vẹn mỗi một phi nước đã cạn gần xuống đáy và chiếc gáo dừa với cán dài nằm chổng chơ. Dưới chân đứng, nền được kê cao bằng những thanh gỗ dẹp cách khoảng đủ nhìn rõ những con giun đang ngoi mình trong đống bùn nhầy nhụa. Huyền vén màn cửa đổ thêm thùng nước vừa mới kéo từ dưới giếng:
- Sống ở chuồng chim, không điện, không nước máy riết rồi cũng quen. Có chén xà bông bột để ở trên cao lấy mà gội đầu nếu không sợ rụng tóc. Quần áo vò tay không, đập cho sạch rồi phơi ở ngoài dây.
Người tôi bẩn của suốt đêm lội bộ nhưng vẫn không hứng thú gì khi nhìn nhìn phi nước đục ngầu vì cặn bị khuấy lên. Mùi xà bông hăng hắc của vùng Chợ Lớn chế tạo khiến ruột gan tôi lộn lạo buồn nôn. Không khăn tay khăn mặt, không vòi sen vòi nước, con Cám không có nước Cam Lồ rưới xuống để tẩy rửa ô uế mà ngồi xổm dội bằng gáo dừa với màu nước đục nhưng cũng cố gột rửa những trĩu nặng ưu phiền. Thực tế chung quanh và những cực khổ của bạn bè làm tôi chán ngẫm. Thì ra bao năm tháng tôi ngụp lặn trong ảo tưởng chỉ mơ những xa vời trong khi mọi người đang tranh sống. Giá trị của công việc làm đã khiến tôi thấy mình trở thành hèn mọn, ích kỷ. Từ ngày lấy chồng tôi chỉ ngồi âm thầm nguyền rủa bóng tối, than thở cho số kiếp gian truân lận đận, nuốt cay đắng nhịn nhục của cảnh làm dâu, làm vợ trong khi bên ngoài ai cũng ao ước cái địa vị tôi đang có. Sự đói khát làm quên nhân phẩm con người, như tôi, ai có thể nghĩ tôi đã ăn vụng củ khoai, nhón bốc thức ăn khi đang làm bếp? Có ai nghĩ rằng tôi đã cãi nhau để đi đến sự xô sát với chồng vì một miếng ăn, vì đĩa trứng gà của mình bị dằm nát? Và bây giờ chỉ vì chén cơm nguội mà Huyền lên án tôi sống sung sướng trong chĩnh gạo. Vừa lên án đó rồi chợt lại ngậm tăm khi thấy quần áo tôi rách nát nếu không muốn nói là sợ gánh nặng nếu phải đeo. Ôi cái giá trị con người ở chỗ đó. Kẻ đói khổ đánh giá trị con người qua đồng tiền bát gạo mà xã hội này có mấy ai giàu có dư ăn dư mặc như gia đình Nguyện?
Trong chĩnh gạo mốc tôi chỉ cảm nhận mùi vị khó nuốt chứ nào đã thực sự biết khổ là gì. Từ bao lâu tôi cố thắp ánh sáng trong tâm hồn dù với một hy vọng thật hãi sợ là thoát ly nhưng bây giờ sự hy vọng dù mỏng manh đó cũng đã tắt. Nó tắt chỉ vì cái giá trị hạnh phúc cho mỗi con người không phải chỉ có tôi mới thèm muốn. Kẻ giàu mơ ước thêm sự giàu có, sống hưởng thụ sao cho thật sung sướng, khác người. Gia đình Huyền, bà cô, ông chú đang tìm cách chuyển ngân sang ngoại quốc và chờ thế sự đảo lộn là xa chạy cao bay. Các tướng tá biết rõ vận mạng quốc gia nên vàng dồn chặt rương, quần áo chĩnh chạc sẵn sàng lên đường thoát nạn để ách cho những kẻ nghèo thấp cổ bé miệng, để bọn dân ngu ở lại làm tấm bình phong chống giữ mạng sống cho họ. Kẻ nghèo như Huyền, như những người đói khát chỉ cầu miếng ăn. Còn tôi kẻ đang đau khổ chỉ mong sao có được hạnh phúc và an bình trong tâm hồn. Con người ta ai cũng chất chứa đầy tham vọng và tham vọng nào cũng là cái túi không đáy.
- Mày có thể cho tao ở đây phụ rửa bao, nhặt giấy kiếm ngày hai bữa ăn đến khi sanh nở không? Tôi hỏi bằng một giọng thất vọng hoàn toàn.
- Khùng, bao ni lông bữa có bữa không; mày cũng có thể ăn bữa đói bữa no nhưng con mày, cái bào thai này thì không thể được. Nghe lời tao về đi, đừng vì tự ái cỏn con mà đày đọa nó. Gia đình không chứa mày thì chẳng còn chỗ nào có thể dung thân. Nếu ai thoát ly cũng có chỗ nương tựa thì làm gì có cảnh đĩ điếm, xã hội này đã chẳng nảy sinh ra những bất công nghèo đói...
Tôi không trách Huyền, nó thực tế như vậy là đúng. Nhà chỉ có ba người lớn mà không lo nổi miếng ăn thì chứa kẻ bầu bì như tôi còn hơn mang một của nợ. Suốt buổi sáng ngồi phụ nó rửa bao lòng tôi lo ngay ngáy. Từ lâu tôi chỉ đặt hy vọng có mỗi mình nó vì tin rằng những đứa nghèo sẽ dễ thông cảm và dễ sống ai ngờ đồng tiền đi liền ngay vào khúc ruột. Ruột đói đến nỗi anh em cũng còn tị nạnh miếng ăn thì nói gì bạn bè như tôi. Tôi thở dài khi chợt nghĩ đến chuyện tá túc nhà bố, càng không thể được vì bài học vừa xong ở nhà Huyền vẫn chưa làm tôi hết cay đắng. Chẳng ai muốn chứa của nợ trong nhà, nhất là dì Loan...
Buổi trưa Nguyện chở bố đến tìm. Không giải thích và không đợi Nguyện năn nỉ đến lần thứ nhì, tôi ra nhà sau thay bộ quần áo còn đang phơi trên dây trước đôi mắt ngỡ ngàng của bố, của cả hai thì đúng hơn. Tôi không nhận ra bố, ông thầu khoán Hoàng Báu ngày nào. Đã lâu không gặp, hơn ba tháng từ ngày Hằng chết, trông bố hoàn toàn lạ lẫm, vẻ hom hem tiều tụy và đôi mắt trũng sâu đã nói lên cuộc sống nội tâm bị khủng hoảng chưa từng thấy. Phải chăng những lúc gần đây sự xung đột giữa bố và dì xảy ra thường xuyên?
- Con làm gì mà áo quần ra nông nỗi này?
Tôi không trả lời nhưng bố đã đọc được tất cả sự thật qua ánh mắt tôi, một thiếu phụ tơi tả, khổ cực chưa từng thấy, một người vợ khô héo, èo ọt trong bể khổ tình yêu và một đứa con gái mất hẳn niềm vui sống. Nếu bố nhìn ra những lầm lẫn khi lựa chọn dì Loan thì có lẽ bố cũng đã nhìn thấy sự lầm lẫn của mình qua hình ảnh tôi đang mang. Tôi cũng chẳng khác gì bố ngoài trừ chiếc bụng gồ lên như đám trẻ đói khổ ở Phi Châu bụng õng đít beo. Bố nhìn tôi qua đôi mắt mở trừng đầy kinh hoảng trong khi tôi cố cắn răng cho khỏi bật tiếng khóc để bố đừng kết án thêm về hành động của mình xưa kia, một chuyện đã qua rồi.
- Anh Nguyện, để em nó ở trên tôi vài ngày cho tinh thần khuây khỏa rồi tôi bảo ban nó thêm.
Câu nói làm tôi giật mình. Sự khó khăn ép buộc ngày nào không còn, những cứng rắn lễ giáo bố cũng bỏ quên đâu mất. Tại sao bố lại có thể thay đổi một cách lạ lùng thế? Không lẽ bây giờ bố mới biết thương tôi và uy quyền của bố đã lấy lại nên không cần chờ lệnh của dì Loan? Không, tôi không tin, ngàn đời chẳng thể tin. Tôi nhìn lại bố như nghi ngờ ở tai mình và chợt thấy mủi lòng.
- Bố về nghỉ cho khoẻ vì con thấy bố cần tỉnh dưỡng hơn con.
Tôi nói bằng giọng nghẹn ngào vì thấy bố quá sa sút. Nội lương tâm hành hạ cũng đủ giết bố cần gì những lời tôi hờn trách. Sự giận hờn ngấm ngầm hoàn toàn tiêu tan, cho đến ngàn đời tôi vẫn không thể hờn trách bố cho dù bố sai trái mặc lòng. Có phải tôi là người dễ tha thứ hay tình thương đã làm con người trở thành mù loà?
- Phượng, bố có thể giúp gì được cho con?
Lời bố thống thiết như cố níu kéo phần nào sự hối hận đang dày vò. Tôi hạ thấp mắt tránh ánh nhìn đau khổ của bố và chợt lạnh người khi nhìn thấy đôi dép da bố đang mang nơi chân, nó đã mòn vẹt một bên bám đầy bụi đất với những móng dơ lười biếng cắt tỉa. Như vậy đôi giầy đã không còn nằm trên chân bố ít nhất cũng phải trên một tháng. Không đi giầy có nghĩa là bố đã lánh xa chốn ăn chơi, có nghĩa là tình trạng gia đình đã sa sút cùng cực.
- Cái xe hơi bố bán rồi phải không?
Bố không trả lời nhưng hai vai rung lên, chiếc áo sơ mi chao động làm nổi bật những lằn ố vàng và nhăn nhúm của sự lười biếng ủi. Nó cũng chứng tỏ phần nào sự thiếu vén khéo của bàn tay đàn bà. Tự dưng tôi buột miệng:
- Dì còn ở với bố không?
Bố biến hẳn sắc và khuôn mặt khô dúm lại:
- Sao con lại hỏi thế?
Không trả lời cũng như đã trả lời. Muộn rồi bố ơi, vậy là con không còn một cơ hội nào nữa hết. Dì Loan bỏ đi là chứng tích của sự sa sút tột cùng. Bố đã bị phá sản. Tiền mất, tình bố cũng mất, còn con muôn đời sống trong kiếp tôi đòi nô lệ. Xã hội này chỉ có thể nói chuyện với nhau bằng tiền bạc, không có tiền bố chẳng thể dùng lẽ phải buộc họ phải đối xử tốt với con gái mình.
- Phượng, bố thấy con yếu lắm. Cố gắng giữ gìn sức khoẻ.
Tôi muốn khóc quá, tại sao bố không bảo giữ gìn cái bào thai, dù gì nó cũng là cháu ngoại của bố cơ mà. Thì ra bố đã biết cảnh khốn khổ của con, biết mà không tỏ thái độ vì không còn khả năng? Người đàn bà gớm ghê đã lấy hết tiền bạc lại còn tước đoạt luôn cả uy quyền.
- Có phải dì trốn đi với chú Khánh không?
Hỏi xong tôi mới giật mình, còn bố mặt tối xầm lại:
- Con biết trước sao không nói cho bố?
Nếu bố biết từ dạo ấy, đời tôi chưa chắc đã thay đổi. Khi con người lụy tình bị phản bội, họ sẽ cố tìm đủ mọi cách chinh phục lại, một phần cũng để thỏa lòng tự ái. Muốn chinh phục người vợ sống bằng tiền chỉ mỗi cách gả tôi cho Nguyện hoặc một Nguyện thứ hai để đạt cùng mục đích. Bố tôi vừa học xong bài học đời, tiền học phí quá mắc nhưng bù lại đổi được cuộc sống bình lặng và có ý nghĩa hơn.
- Tuần tới bố phải dọn nhà về quê vì trước khi đi dì con mang giấy tờ căn nhà, vật cuối cùng cầm bán nốt. Không muốn vương vấn vì kỷ niệm với lại không tiền chuộc nên đành để họ lấy thôi.
Tôi đứng nhìn bố chết trân. Vở kịch làm vợ của dì đã hạ màn. Bẩy năm chung sống làm mưa làm gió, giờ gió đã lặng mưa đã ngừng.
- Con chúc mừng cho bố, cắt bỏ cánh tay đang mâng mủ tuy có đau đớn thật nhưng vẫn còn hơn để nó chạy độc hết vào người.
Tôi ôm bố đau xót cho người, cho mình và cho cảnh chia ly. Lúc ấy Nguyện nửa sượng sùng với bố vợ vì tôi quá rách nát tả tơi, nửa bàng hoàng vì sự sa sút mau chóng của một nhà thầu khoán vang bóng một thời. Và cũng hình như đang trầm ngâm suy nghĩ để sắp đặt một kế hoạch nói dối vĩ đại khi dẫn tôi về nhà trình diện cha mẹ. Dù gì tôi cũng phải về..
Xe dừng lại trên một bãi đất cao và trống, phía trong là hàng rào kẽm gai bao bọc những căn nhà lá mọc lởm chởm cái cao cái thấp nằm san sát dưới lòng thung lũng. Hai bên hai dốc đồi sừng sững như hai hung thần kênh kiệu lúc nào cũng chỉ muốn đè bẹp mạng sống con người. Cổng chính có lẽ là nơi chúng tôi đang đứng vì sợi xích sắt vòng qua hai lần thật kiên cố và ghê rợn chẳng khác gì nhốt những tù nhân chính trị. Nghe máy gọi có thêm một toán dân tị nạn đến tạm cư, mọi người trong trại ùa chạy ra dáo dác tìm người quen.
Trời đang choạng vạng tối nhưng đủ soi rõ từng khuôn mặt rạng rỡ nhìn qua dây rào kẽm. Tất cả đều nhốn nháo tuy vẫn đứng trong khoảng cách đã được ấn định rõ rệt. Tôi đưa mắt nhìn họ, xen lẫn những thân mình trần đen đủi của đám thanh niên đang sức ăn sức sống là đàn bà và đàn ông đứng tuổi với quần áo luộm thuộm đủ màu sắc của mọi nước viện trợ. Họ đứng hàng hai dọc theo lối vào như dàn thành một cổng chào vinh dự. Mà vinh dự thật, những kẻ đến đây là những kẻ sống sót từ cõi chết, người thoát trở về khi nào cũng thấy sự sống của mình giá trị và cần thiết.
Sau nửa giờ kiểm điểm và lập thủ tục nhập trại, cánh cổng sắt được mở ra. Tiếng kéo rít nặng nề nghiến trên những thanh sắt rỉ nghe rợn người như một đe dọa. Mặc, dù tụi lính Thái có đối xử tàn nhẫn với người dân tị nạn thế nào thì vẫn còn tốt lành hơn lũ cướp biển. Bằng chứng gần tuần lễ ở Rangsit bọn cảnh sát quá tốt, hơn cả sự tưởng tượng của chúng tôi. Ở đâu mà chẳng vậy, dân có người nọ người kia, lính cũng có trăm ngàn thứ lính, có người tốt kẻ xấu, có kẻ cướp bóc lại có những người chuyên bố thí.
Đèn trong đảo đã bật sáng, chúng tôi hàng một tiến vào trại giữa tiếng cười nói thăm hỏi niềm nở của mọi người. Vài người nhận ra bạn bè, quen biết kêu lên mừng rỡ, ôm nhau chảy cả nước mắt. Con đường đá từng bậc gồ ghề biến thành con đường hội ngộ vang đầy tiếng cười nói vui vẻ đưa chúng tôi xuống tận đình để ngủ qua đêm. Đình chứa được khoảng hơn một trăm người, là nơi hội họp hoặc chỗ tạm ở cho những người vừa nhập trại ngày đầu. Đình và nhà thờ tuy không nằm gần nhau nhưng khoảng sân rộng, gian nhà lớn và nóc tôn cao đã tách biệt tất cả mọi vật chung quanh. Sát cạnh trung tâm nhà thờ là dẫy nhà lá, vách phên cũ kỹ dựng lên cách đây đã ba năm. Lan dần ra chung quanh và ăn đến tận chân đồi, từng căn nhà mới nằm cách khoảng trông khang trang, sạch sẽ và thoáng khí hơn nhưng chỉ dành cho bọn thanh niên trai tráng ở, vừa để canh phòng tụi Thái đen đêm đêm hay lẻn vào bắt cóc con gái đem vô rừng hãm hiếp, vừa làm hàng rào kiên cố chận bắt bọn trộm cướp không cho thoát lên rừng.
Dân tị nạn ở đây, đầu năm 1980, trên dưới chưa được tám trăm người nhưng đàn bà, con gái và con nít đã chiếm hết hai phần ba. Phần còn lại đa số đã xung phong nhận lãnh công việc không công trong thư viện, bệnh xá, thông dịch cho các phái đoàn và ngay cả công tác cắt chia thịt cá được trợ cấp tuần hai lần do chính phủ Thái nhận lãnh từ nguồn tài trợ quốc tế phân phát cho dân tị nạn. Người ít, việc nhiều, cho nên sự canh chừng ban đêm chỉ còn lại khoảng năm mươi thanh niên lực lưỡng chia nhau xoay tua canh gác. Gọi là gác chứ cả hơn hai trăm căn nhà nằm choán hết gần thung lũng về đêm tràn ngập bóng tối, đứng cạnh còn khó thấy mặt nhau thì biết lối nào mà đuổi cướp. Đèn trong trại sau mười giờ là tự động bị cúp lấy cớ theo lệnh trên. Văn phòng Thái chỉ còn hai người ở lại để giải quyết những tệ trạng về đêm. Thực ra họ chỉ bù nhìn vì đôi khi bắt được trộm, cướp không nói rành rẽ tiếng Việt là dân ta cứ tự động nện thẳng tay, xử tại chỗ cho đích đáng chứ mang lên văn phòng chỉ thấy thêm những bất công và cảnh trái tai gai mắt bởi bọn chúng bênh vực và tự động cho nhau quyền tác yêu tác quái trên đám người tị nạn.
Dân sống trong thung lũng như đám tù lỏng. Trước mặt là hàng rào kẽm gai với cánh cổng sắt kiên cố dẫn đến con đường trống trơn cách chỗ dân bản xứ khoảng mười cây số rồi mới đến phố chợ. Mặt sau ăn thông ra biển, nối dài theo những gềnh đá lởm chởm thỉnh thoảng có những con thuyền tị nạn chạy một mạch từ Việt Nam sang thẳng Thái Lan táp vào. Đường biển là lối dễ vào nhưng khó ra nên bọn cướp chưa bao giờ dám dùng tàu lén vào đảo bắt cóc đàn bà. Có thể họ vẫn còn e dè chánh quyền địa phương và cũng có thể quá tốn kém thời giờ lẫn tiền bạc cho nên hai ngọn đồi hai bên đã vô tình đồng lõa với tội ác.
Vụ bắt cóc xảy ra hàng đêm một. Kẻ gặp nạn bị chúng thay phiên hãm hiếp mãi tờ mờ sáng mới được thả về bước thấp bước cao từ rừng lết vào trại. Việc phòng thủ càng lúc càng kỹ càng, người ta báo động cho nhau bằng cách chỉ cần người bị nạn la lên là lập tức nhà bên cạnh có bổn phận khua nồi niêu soong chảo, đập ầm ầm lên thùng phi hoặc đập gõ thế nào tạo tiếng động lớn đánh thức những người chung quanh. Nhà kế bên nghe tiếng động cũng đập, cũng khua và cứ thế chuyền sang những nhà khác. Dĩ nhiên bọn cướp dù có súng cũng phải bỏ con mồi mà mau chân chạy thoát vào rừng. Từ ngày có tiếng gõ giây chuyền thì vụ bắt cóc hãm hiếp đã bớt quá nửa, phần còn lại chỉ vì đang đêm bị tháo dạ phải mò ra tận ngoài bãi biển hoặc những anh chị nào liều mình hò hẹn trên gềnh đá đèn tắt chạy về không kịp.
Ai mới nhập trại nghe tin này đều sợ vì thế nên khi chúng tôi, một bọn mười người, may mắn được bạn quen ngỏ ý nhượng lại căn chòi cũ ở ngay giữa trung tâm với đầy đủ bếp núc, nồi niêu chén đũa giá hai ngàn bát, khoảng hơn chỉ vàng là chúng tôi mừng như được của. Tôi lần trong lưng quần cũ của bé Trường gỡ sợi dây chuyền mỏng dính, sợi dây cuối cùng sót lại trong số mười sợi đã mất thì bị Nguyện cản lại:
- Ai sao mình vậy đừng có bày vẽ.
Tôi không muốn giải thích dài giòng về chuyện đêm hôm tụi Thái hay lẻn vào trại bắt cóc phụ nữ vì biết có nói Nguyện cũng chỉ nhìn bằng ánh mắt khinh mạn.
- Em mượn đỡ chung tiền nhà cho người ta, mai mốt xin được chân phụ bán hàng sẽ mua trả lại anh.
Sợi dây chuyền không phải của Nguyện mà của Trường, thôi nôi thằng bé bà nội sắm cho tôi còn giữ được tới ngày này.
- Vật kỷ niệm cấm bán.
Nguyện nói đúng, vật kỷ niệm chẳng ai đem cầm bán vì đẹp hay xấu nó vẫn có giá trị tinh thần nhưng ngày thôi nôi, một chứng tích nhạo báng bên nội vì họ gửi giấy mời xuống dưới quê mà bố tôi không có mặt. Đó cũng là một dịp và là cái cớ cho mọi người chê cười. Mặt tôi nóng bừng:
- Không mua để ở liệu anh có lên rừng đốn cây làm nhà như mọi người hay lại chui rúc nay nhà này mai nhà khác, đã vậy rồi ăn uống, giặt giũ, tắm rửa ở đâu?
Nói thế nhưng tôi vẫn trả lại Nguyện sợi dây. Nếu đã hỏi thiếu được Nguyện tại sao tôi không thể hỏi vay nợ những người khác? Cầm sợi dây bỏ vào túi áo, Nguyện làm lơ trước sự nóng giận quá trớn của tôi, có thể cũng là phương pháp cố đấm ăn xôi, mặc tôi tự xoay sở lo liệu. Việc mượn nợ trong trại cũng dễ dàng vì ai cũng hiểu lá lành đùm lá rách. Giờ tôi mới thấm thía câu miếng khi nói bằng gói khi no; có ra đời mới biết xã hội có kẻ xấu người tốt, có kẻ trọng nghĩa khinh tiền và ngược lại. Hôm sau dọn nhà mới, vì nhà sàn nên khá cao phải lên hết bốn bậc cầu thang mới vào được bên trong. Nền nhà đóng bằng gỗ dùng làm chỗ ăn, nghỉ và ngủ, có ép qua ép lại cách mấy cũng vẫn còn chỗ cho bọn chúng tôi gác chân gác tay. Để phòng bị, đám đàn ông con trai phải dồn về một phía gần bếp, ngay cửa ra vào phòng cướp, vậy mà đám con gái vẫn sợ tụi Thái rạch bức tường phên chui vào.
Nhà lợp lá chung quanh ghép bằng phên mỏng choán hơn phân nửa chiều cao. Phần còn lại là những thanh tre cách khoảng cho gió lùa vào. Mùa hè tương đối mát mẻ vì nhà tôi ở cao hơn những nhà chung quanh nên hứng trọn luồng gió và bóng mát của tàng cây cổ thụ xòa ngay mái. Phần bếp, mái thấp hơn nên tấm phên che cũng hạ xuống do đó đứng nấu nướng có thể nhìn ra ngoài mà ở ngoài nhìn được mỗi khuôn mặt mình, âu cũng là một cách sáng chế tài tình của những người đàn ông bị làm bếp.
Đồ đạc mỗi người chúng tôi chỉ vỏn vẹn có mỗi túi xách gác lên kệ nên không đầy năm phút mọi người đã cùng ngồi lại chia công tác và vị trí chỗ ngủ. Đàn ông lo xách nước, chẻ củi, lãnh lương thực còn đàn bà lo việc nấu nướng, dọn dẹp bếp núc trong ngoài. Như vậy cũng nhàn hạ vì lương thực tuần lãnh hai ngày, nước phát mỗi người mười lít, thừa thiếu muốn tắm rửa giặt giũ thì phải tự túc mua lấy. Đám con gái chia ra mỗi người nấu trọn một ngày, cũng hơi mệt nhưng bù lại ba ngày sau chơi không. Tôi là người tiên phong bữa đầu, nồi niêu soong chảo phải lau chùi lại một lượt vì cáu bẩn, chén đũa cũng loại ra, cái thì mẻ cái bị móp méo cong queo, cũng may có sẵn nước và dụng cụ nên việc quét dọn không đến nỗi quá vất vả.
Hôm đầu chưa quen cách xếp đặt nên tôi cứ leo lên leo xuống cầu thang cả mấy mươi lần; nguyên do chỉ vì bếp ở trong nhà mà nơi chứa nước và chỗ làm tôm cá thì ở bên ngoài, qua khoảng sân nắng sát với phòng tắm trên có mái che và cửa căng bằng miếng vải nhựa xanh, vừa để tắm, thay quần áo và cũng vừa để chứa nước của mọi người trong nhà. Buổi tối sau khi cơm nước đánh răng, phần nước còn lại vẫn phải được trùm và buộc giây cẩn thận vì sợ mất cắp.
Chiều đến mới thấy Nguyện lững thững về nhà, tay xách chiếc nồi con và cái chén cũ. Tôi đưa phần cơm trưa cho Nguyện:
- Nếu không đói anh chờ vài phút nữa ăn cho ngon vì cơm sắp chín rồi.
Tờ báo được mở ra lộ khúc cá chiên vàng ngậy nhưng Nguyện thờ ơ:
- Kể từ bây giờ anh nấu cơm riêng.
Tôi cảm thấy nghẹn trong lồng ngực:
- Công tác đã chia hồi sáng ai cũng chấp nhận sao khi không trở chứng như vậy?
- Những con ngựa đau đều bất bình thường. Ăn riêng cũng là hình thức tập luyện cho con người một cuộc sống không bị lệ thuộc.
Ít khi Nguyện có lối lý sự ba xu như thế. Bình thường, chuyện gì không vừa ý chàng hay la toáng lên hoặc hò hét đập phá để lấy oai. Mà chẳng thà làm thế để mọi người nghĩ mình nóng nẩy bực dọc còn hơn thốt ra những lời này, nó chứng tỏ con người nhỏ nhặt ích kỷ, chỉ vì một xích mích cá nhân, gia đình mà xa rời tập thể.
- Nhưng làm sao anh có thể nấu cơm được chứ?
Câu hỏi khá dịu dàng và đầy lo lắng không ngờ lại va chạm tự ái của Nguyện.
- Đội đá vá trời còn làm được nói gì đến chuyện cơm nước.
Giọng Nguyện đầy gay gắt bực bội khiến tôi nghĩ chàng muốn thực hành điều mạnh ai nấy sống như đã nói hôm nọ. Đã muốn vậy thì lơ luôn, mặt tôi cũng biến sang lạnh lùng:
- Tùy anh.
Nguyện lẳng lặng ra ngoài kiếm ở đâu được ba cục đá kê làm bếp. Không có vật gì che cho gió bớt tạt để mồi lửa, mà kê sát vách lại sợ cháy nhà, cuối cùng Nguyện xé chiếc áo cũ làm khung che...
- Anh ấy nấu cái gì vậy chị? Mây nhìn tôi dò hỏi.
- Chắc sắc thuốc cho vợ chứ gì. Trang không nhìn ra nhưng cũng chen vào.
Tôi không trả lời, bê nồi cơm đặt lên phản múc đều mười phần, cá kho khứa bự nên cũng dễ dàng chia.
- Chan nước cá luôn nghe chị Phượng.
Tâm từ ngoài leo lên chưa hết bực thang cũng nói vô. Hình như mọi người lởn vởn gần chung quanh nên vừa đến giờ cơm cũng đã có mặt đầy đủ. Nguyện ngồi khuất gần nhà tắm vì thế không ai để ý nếu không từ trong nhà ngó ra.
- Chan nước kho rồi bắp cải chấm với cái gì? Hãn cau có hỏi Tâm như sợ mất phần nước cá của mọi người.
- Bắp cải chấm nước mắm mới đậm đà. Tâm trả lời.
- Có mày hoặc ma ăn.
- Sợ ma ăn nên dành phần trước.
Mỗi người nói một câu và đề tài nước cá được mổ xẻ dữ dội. Ăn uống chung đụng chia phần phức tạp là thế nhưng nhờ nấu chung mà thức ăn dư giả để chia chứ nếu không, phần lương thực cho mỗi người trong hơn ba ngày chỉ có thể ăn được một bữa.
- Có gì đâu, chia cá xong còn bao nhiêu nước cá tôi múc hết ra tô chế thêm nước mắm ai muốn chan thì chan, chấm thì chấm.
Tôi giải hòa nhưng Thục không chịu:
- Cá kho đã mặn còn bị đổ thêm nước mắm ăn đâu thấy mùi vị nữa. Em đề nghị chia làm mười phần.
- Mấy người đàn ông đừng có xen vào chuyện cơm nước, người nào nấu thì người đó được quyền chia.
Mây lên giọng làm mọi người bật cười, một người ra chiều dễ dãi:
- Ăn cá kho với nước mắm là cha ở đây rồi. Chúng mình dân tị nạn ăn cơm chực mà đòi hỏi chi nhiều, tôi nhường phần nước cá của mình cho cậu Tâm.
Phần cơm cuối cùng còn dư lại, phần của Nguyện, nằm ngay giữa phản. Tôi định lấy cất lên cao thì Tâm lại ré lên:
- Chị Phượng chia ăn gian lỗ phần cơm của em.
- Lại cũng nó nữa, coi bộ hồi xưa đông anh em lắm hay sao mà dành ăn dữ vậy. Trang bực dọc xen vào.
- Bà Trang im dùm cái coi, ai nói với bà mà cứ xía vào.
- Không xía cũng không được, ăn tham nên mắt mờ, bộ không thấy anh Nguyện ngoài kia chưa vô lấy phần sao?
Vô tình Nguyện làm mục tiêu cho mọi người nhìn ra. Cái bếp khổ sở được dịp khói um, mảnh vải che trông tơi tả trước gió.
- Nấu gì vậy anh Nguyện? Chưa gì đã tính ăn riêng, bộ sợ bà con ăn ké hả?
Mặt tôi sượng trân, cái kim dấu trong bọc vải cũng có lúc lòi ra đâm vào tay. Nguyện đâu có ngờ hành động tự túc của chàng cho tôi một nỗi tủi nhục sâu xa. Chuyện trên tàu tôi vẫn chưa thể quên được, chuyện thằng Hãn vác tôi trên lưng vẫn chưa xóa nhòa trong đầu óc mọi người và bây giờ lại công khai ăn riêng có khác nào chứng minh cho mọi người biết chuyện tình cảm giữa chúng tôi không còn? Miếng cơm vừa nuốt đã nghẹn ngay ở ngực, từ ngày lấy Nguyện có mấy thuở tôi được ăn bữa cơm cho ngon lành trôi chảy, có bao giờ được nở nụ cười trọn vẹn hay chỉ gượng ép vá đắp?
- Vào ăn đi anh Nguyện ơi. Tâm nhận ra bộ mặt lầm lì của tôi nên gọi với ra.
- Ổng sắc thuốc hay nấu cao gì đó mà, thây kệ đi.
Mây gỡ thế bí nhưng có lẽ mọi người đều biết sự trở chứng bất thường của Nguyện nên lờ đi chuyển sang đề tài trửng giỡn, chọc phá khác. Bữa cơm rồi cũng xong, khoảnh khắc sau ai nấy tản mát mỗi người mỗi nơi, kẻ dạo bãi biển, người lên chợ xem hàng vải, uống cà phê hoặc tụm năm tụm ba trước cầu thư viện. Bé Trường theo Trang xuống nhà bạn; còn mình tôi dọn dẹp rửa chén và Nguyện ngồi trên phản bên soong cơm nhỏ khét khê.
- Anh ăn cơm như vậy rồi có lãnh nước chẻ củi như mọi người không?
Tôi vẫn còn ấm ức nên không ngăn được câu hỏi. Nguyện lùa cơm vào miệng không thèm trả lời, miếng cơm khô hình như vướng ngay ở cục xương cổ. Nhìn Nguyện khó nhọc nuốt miếng cơm tôi đâm thương hại
- Đang tự dưng chỉ bày vẽ, anh chê cơm em nấu thì mai đến phiên con Trang cũng phải ăn vậy.
Tôi dặt dĩa cơm để dành khi nãy ngay xuống phản cạnh chỗ Nguyện. Mùi cá kho pha trộn mùi cơm khét làm chàng nuốt nước miếng. Yếu điểm của Nguyện là ở chỗ đó, sống với nhau đã bao nhiêu năm tôi đọc được cả những tính nết xấu của chồng. Tự dưng tôi thấy lòng nao nao, sáu năm rồi, dù không tình cũng có nghĩa, cái nghĩa đâu phải cứ chờ lúc ốm đau bệnh tật mới trả được. Ngồi xuống cạnh Nguyện, không còn là sự gượng ép mà tôi nói với cả tấm lòng:
- Vượt bao sóng gió và thử thách, qua được bến bờ tự do mình đặt lại vấn đề sống sao cho có hạnh phúc và vươn lên anh nhé!
Nguyện không trả lời, mắt vẫn liếc chừng miếng cá. Hiểu ý, tôi gạt phần cá vào chén cho Nguyện.
- Mọi chuyện quá khứ mình bỏ qua hết để làm một cuộc đời mới nghe anh.
Không có tiếng trả lời, miếng cá mầu nâu xậm với chất nước sền sệt hớp mất hồn Nguyện, tôi biết chàng đói.
- Có giận có hờn mình cũng đâu thể bỏ nhau được. Từ mai đừng nấu cơm riêng nữa cho cực, anh xem vừa sống vừa khê...
Tôi chợt khựng lại vì thấy Nguyện và lấy và để, từng hột cơm dính nơi khóe mép cũng không biết lấy ra, cá chiên cá kho không từ, cơm sống cơm khê cũng vét sạch, một hành động rõ ràng tự trả lời không muốn nấu riêng ăn một mình.
- Anh uống nước không?
Nguyện vẫn cắm cúi ăn. Bây giờ tôi mới nhận ra mình hoàn toàn đang nói chuyện với một cái bóng, cái bóng của lạnh nhạt dửng dưng và bữa cơm dù có ngon lành cách mấy cũng không thể giảm được sự ghen hờn và làm tiêu tan tính ích kỷ nhỏ mọn trong con người Nguyện
.
Mặt trời đã khuất tận chân núi tự bao giờ và đèn trong trại dù đã được bật sáng nhưng hơi nóng của một ngày vẫn còn lẩn quất trong những bụi cây lùm cỏ. Gió ngập ngừng đứng lại chẳng muốn ở mà cũng không nỡ rời nên cái oi bức và nồng mùi nước biển vẫn bốc lên ngột ngạt. Ánh đèn trong nhà không quyến rũ nổi mấy con thiêu thân và ngay đến cả loài người cũng không thể gợi cho họ chút hào hứng để ngồi đọc sách, viết thư hoặc đánh cờ.
Cùng theo chúng bạn tản mát tìm chút gió mát, tôi và Trang dẫn Trường lên gò mả. Gọi là gò mả cho có vẻ ghê rợn chứ thực ra chỉ là một gò đất cao và bằng mặt sát ngay nhà thiêu xác. Chung quanh toàn những cây cổ thụ xoè rợp bóng tối và xa xa gồ lên vài nấm mộ của người Thái đã có từ lâu đời. Hình như đảo này thuộc đất của một gia tộc nào đó vì những ngôi mộ cùng họ với nhau. Gò mả cắt ngang đường đi lên chợ và nối liền với văn phòng Thái nên khá an toàn. Trời tối chợ tan, các tiệm cũng đóng cửa, thỉnh thoảng mới có vài ba người đi tắt ngang để xem ti vi lén qua cửa sổ ở các hàng quán ngủ đêm tại đó. Từ trên cao nhìn xuống dốc, những ánh đèn vàng vọt tỏa ra từ những mái lá như những con đom đóm lạc loài trơ trọi trong bóng đêm, loại đom đóm đã bị gió mưa làm tơi tả cánh phải bám vào những cuống lá ẩn náu giông bão. Vật và người trốn chạy giông bão vẫn luôn mang cảm giác bất an dù đã có tạm nơi nương náu. Trại tị nạn chỉ là một bến tạm, một trạm dừng bấp bênh, một số phận trôi nổi như con thuyền chưa tìm được bãi đậu. Tương lai thì mờ mịt mà tình cảm tôi cứ vẫn mãi trôi nổi mặc những cơn mưa bão, sóng gió của Nguyện. Tôi ngồi bó gối thẫn thờ nhìn bé Trường chạy lăng quăng gần đó nghịch ngợm những chiếc lá khô to hơn bàn chân. Xấp lá khô cứ dầy lên mãi trong bàn tay nhỏ bé của nó. Cuối cùng Trường đưa cả hai nắm tay lên trời tung cao. Lá không có gió rơi nhanh như diều đứt dây; thằng bé tiu nghỉu giây lát rồi lại cúi xuống lượm tiếp tục trò chơi.
- Nghĩ gì vậy chị Phượng?
Không quay đầu lại, hình như những chiếc lá khô, định mệnh oan nghiệt của mỗi con người đã thôi miên lấy hồn tôi.
- Buồn ngủ.
- Ngủ gì giờ này, chưa tám giờ mà?
- Cũng có thể người đang muốn bệnh.
- Chị lúc nào chả thế, cái tay em phình to chỉ vì ngày nào cũng bóp đầu cho chị. Người gì đau đầu kinh niên.
- Bé Trường bóp đầu cũng khá lắm tại Trang dành phần đó chứ! Tôi trả lời quanh co như muốn dấu tâm sự mình.
- Đâu ngờ sợ thằng bé đấm đầu đau tay, chị lấy vải bọc vào cái muôi bắt nó gõ. Ai nhìn mà không sợ điếng hồn? Gõ như thế có bữa long óc ra mà chết.
Trang chợt im lặng vì thấy không có sự đối đáp nồng nhiệt của tôi. Hình như câu chuyện chẳng có gì hứng thú để tiếp tục ngoài trừ những phong cảnh buồn nản chung quanh. Thật xa vẳng lại tiếng sóng vỗ như thôi thúc nỗi buồn mỗi lúc một loang nhanh.
- Chị đau làm sao, hay là có bầu?
Trang bỗng hỏi giựt giọng làm tôi giật mình nhưng vẫn trả lời dù bằng giọng gượng gạo:
- Bầu bì gì, cứ tưởng tượng mãi cho khổ vào thân.
- Chị biết không nỗi sợ hãi nhất của tụi em là chuyện đó. Có bầu với hải tặc là cả một vết dơ, một vết nhục không sao gột rửa.
Tôi gục mặt vào lòng bàn tay, tại sao lại khơi vào lòng nhau niềm hãi sợ mà đã từ lâu tôi cố quên đi. Phải chăng sự cố quên chỉ là hình thức che đậy và bây giờ Trang đã mở nắp che, gỡ tấm vỏ cứng của con ốc sên yếu đuối?
- Đừng nói đến chuyện đã qua, hãy coi như một cơn ác mộng. Tương lai chúng ta phải khác hơn.
- Phải khác hơn nếu ta quên được nó. Chị đã quên được chưa, trả lời em thật đi?
Tôi tránh ánh mắt long lanh của Trang; thì ra đâu phải chỉ mỗi mình tôi để chuyện quá khứ ảnh hưởng tới mình mà còn thêm Trang và biết đâu chừng lại chẳng có Mây, có Thịnh, có Khánh và tất cả mọi người chung quanh.
- Mình không nghĩ đến tức là nó đã chìm sâu trong quá khứ.
- Nếu được như vậy thì nói làm gì. Chị nhìn quanh đây đầy rẫy mọi người ai cũng như mình. Dĩ vãng của họ phơi bày trong hồ sơ lý lịch và hỏi chị xem có chiếc tàu nào bị cướp dưới ba lần không? Có người con gái nào thoát được cảnh hãm hiếp nếu họ không tự mang cái tiết trinh con gái để che đậy mặc cảm của mình? Chị vào bệnh xá mà coi, đứa thì phá thai, đứa thì tự tử, có đứa bị bệnh hoa liễu. Chị tin không, con gái mà bị bệnh hoa liễu thì lũ quỷ đâu phải một thằng mà một toán, một tiểu đội, một trung đoàn mang vi trùng bệnh xâm nhập vào. Em thù bọn Thái đến muôn đời.
- Đừng Trang, càng thù họ thì càng kết án mình nặng hơn.
- Chị có kết án chị không?
Tôi rùng mình, những câu nói như những vết dao đâm tận trong ruột gan, không kết án sao đau khổ, sao có mặc cảm với cả chồng con và mọi người? Không kết án sao lại chấp nhận sự hờ hững của chồng như một định mệnh? Như thế có nghĩa là tôi vẫn đang căm thù những kẻ để lại vết nhơ trong đời tôi?
- Thôi đừng nói chuyện không vui.
- Nhưng em thấy cách cư xử của anh Nguyện mà đâm bất mãn. Suốt thời gian trên thuyền cho tới khi cặp bến mọi hành động đốn mạt của anh ấy đều không thoát qua đôi mắt phê phán công bằng của em. Người gì quá hèn, ở không được thì bỏ, sợ gì phải bấu víu vào con người ích kỷ nhỏ mọn như thế.
- Ghen, đàn ông ai chả ghen.
- Đúng, đàn ông ai lại chẳng ghen nhưng chị có tạo ra nó không hay tai họa giáng xuống mọi người chúng ta? Một cái tang chung cho xã hội đã không chia sẻ thì cút đi đừng bới lông tìm vết, đừng vác cứt ném vào mặt từng người. Tồi, tồi...
Mặt Trang đầy vẻ căm phẫn khi nói những lời đó, nó cũng làm mặt tôi nóng bừng, nửa thương thân mình nửa chua xót cho Nguyện.
- Người ta không có mặt ở đây, nói như thế có khác nào nói xấu kẻ khác. Mỗi người có một cá tính, một lối suy nghĩ riêng, Trang không phải là Nguyện làm sao biết được anh ấy đã nghĩ gì?
- Nghĩ gì? Nghĩ vì có con vợ bị hiếp nên mang nhục với mọi người. Thứ chồng như vậy đem bắn bỏ.
Tôi đứng phắt dậy ôm vội Trường rồi tất tả chạy xuống dốc như trốn chạy sự yếu hèn của mình. Con ốc sên không chịu nổi những ngọn roi dù chỉ quất trên chiếc vỏ. Biết Trang có lòng tốt nhưng tôi không đủ sức chịu đựng sự chà xát vết thương trước khi băng bó; một lần chà là một lần đau rát, một lần chà là một lần chết đi sống lại mà chắc gì sẽ khỏi. Con dốc trơn tuột khi chạy xuống lại có thêm Trường ẵm nặng trên tay như cùng xô đẩy lôi cả cuộc đời tôi lao nhanh theo đôi chân. Nếu không tìm cách ghì lại chắc chắn chúng tôi sẽ rơi xuống hố. Con mày đó Phượng ơi, giết đời mày chưa đủ hay sao mà lại định chôn vùi cả đời nó? Tại sao mày hèn, khiếp nhược và ngu ngốc thế hả Phượng? Hãy đối diện mặt chồng, hãy chấp nhận một sự thật dù bỉ ổi để cuộc đời vươn lên. Ra đi mày nghĩ thế nào? Mày mơ ước thế nào? Một cuộc đời đổi mới, một cuộc sống thực thụ của con người, của con người với quyền làm người chứ không phải con vật...
Hết đoạn dốc tôi bỏ Trường xuống và lầm lũi đi men theo con đường nhỏ cắt ngang bệnh xá và thư viện. Thư viện được cất chênh vênh trên gềnh đá nối liền bờ bằng chiếc cầu gỗ. Dọc theo thành cầu thiên hạ đứng đầy để hóng mát. Giờ này bệnh xá đã đóng cửa, hành lang tối thấp thoáng những bóng người. Tiếng hò hét trửng giỡn của đám trẻ, tiếng cười đùa hồn nhiên vô tư của đám thiếu nữ đang tuổi yêu làm tôi nao nao. Qua rồi tuổi hoa mộng, hết cả thời yêu đương, bổn phận và trách nhiệm đã cay đắng phủ chụp xuống đầu tôi nhưng liệu tình trạng níu kéo này có mãi tồn tại, có làm Nguyện thay đổi hay càng chứng tỏ sự khiếp nhược và ngu muội của tôi? Hai mươi lăm tuổi, còn trẻ lắm nhưng sự trẻ trung chỉ đến khi người ta có sự sống; còn tôi, một cây khô không tưới, một cây chết không thể đâm cành lá, sống giữa đời như một thứ phế thải. Có điều dù là cây chết, cây khô nhưng khi được mưa tưới ướt nó vẫn trở nên bóng bẩy, làn nước mỏng gợn trên những nhánh khô vẫn tạo cho nó sự linh động và cựa mình; còn tôi người có tim óc chẳng lẽ không khác hơn loài cỏ cây? Nhiều khi tôi hoang mang với nhiều dấu hỏi trái ngược lòng mình. Biết đâu hạnh phúc lại chẳng đến với những người khác vì có ai nghĩ rằng bên ngoài cái vỏ sần xùi gai góc là múi sầu riêng béo ngọt, bên ngoài lớp vỏ chát đắng nham nhám có thể là lớp nhãn dòn ngọt lịm. Ngược lại bên trong trái ớt chín đỏ mời mọc kia chẳng cay xé lưỡi và bên trong quả chanh vàng mọng chẳng chua chảy nước mắt? Tôi đang nghi ngờ ở số kiếp và cảm tưởng mơ hồ số kiếp đôi khi vẫn được hóa giải vì nhiều người chết đi vẫn được cứu sống bởi dụng cụ máy móc, khoa học của loài người. Như vậy có phải nếu tôi không hiểu giá trị quyền làm người và tự cho mình làm chủ thân xác mình tức là mình đã chối bỏ quyền sống?
Trong tôi đôi lúc có những mâu thuẫn rõ rệt vì đầu óc là cả một sự hoạt động tranh sống nhưng khi hành động lại đầy tính chất khiếp nhược sợ hãi vì phải đối diện với những khó khăn. Ranh giới tuy phân định nhưng tâm hồn tôi luôn bị giằng co xâu xé, càng xâu xé bao nhiêu thì thân xác càng bất động ù lì bấy nhiêu. Nhiều khi tôi nghĩ nếu mình đừng khiếp nhược và dám đứng lên đòi quyền làm người thì có lẽ cuộc đời tôi đã hoàn toàn đổi khác, đổi ngay từ thuở vừa có trí khôn.
Đúng mười giờ tối, một hồi còi dài hú lên và điện loé hai lần cách khoảng năm phút trước khi tắt hẳn báo hiệu cho mọi người ai về nhà nấy. Trại nằm khuất giữa hai dãy đồi cao, khi điện tắt đứng cách xa một thước không nhìn rõ mặt nên dù sóng biển có đập ầm ầm trên gềnh đá mời mọc những đôi trai gái nán lại thêm cũng khó lòng vì họ không muốn là những cái mồi ngon dâng đến tận miệng lũ cướp người. Tuy nhiên không phải vì thế mà không có những cuộc ăn nằm bất chính. Có những đứa con gái vượt biên một mình ngủ cả đêm trong nhà bạn trai không về và cũng có những ông lớn tuổi đêm đêm bò lộn sang nhà bên cạnh. Cuộc sống ở đây như một chỗ dừng chân cho những kẻ còn đang rong ruổi bước đường dài, cũng là nơi hấp thụ tư tưởng mới từ những cánh thư và hình ảnh, sách báo ngoại quốc do thân nhân gửi sang hỗ trợ thêm cho sự tự do tuyệt đối. Cái tự do được hiểu quá rộng pha trộn cả trụy lạc, ăn chơi, đua đòi. Một số yêu cuồng sống vội thu gọn chân trời hồng bằng sự hưởng thụ niềm vui xác thịt; một số quên mục đích chính của sự ra đi đã để đồng tiền điều khiển con người; một số diện kiến trước những cái chết bi thảm trên biển cả hoặc quá gian khổ trong cuộc hành trình đã đắm mình trong sa đọa để vớt vát lại những gì đã mất; một số xa gia đình, vợ, chồng, con cái đã tìm hơi ấm khác để an ủi nương tựa; cũng một số ngấp nghé giữa văn hóa cũ và mới nửa muốn bước vào nửa lại rụt rè. Cái thiên đàng tự do chỉ mới qua thư từ hình ảnh nhưng lại bị hiểu sai lệch hoặc cố tình làm cho nó sai lệch đã làm chấn động lòng mọi người...
Khí hậu ở đảo nóng cả ngày lẫn đêm. Gió lúc nào cũng mang hơi nồng thổi từ biển vào nên da thịt rít mồ hôi. Dù sao biển vẫn là nơi quy tụ niềm vui và quyến rũ nhất đối với mọi người ngoài trừ đàn bà con gái. Chẳng cô nào, bà nào dám tắm biển mặc dù trời nóng như đổ lửa, cái nóng mà đàn vịt vừa nhìn thấy nước là đã muốn đằm mình xuống. Chỉ cần nhìn ánh mắt thèm muốn khi họ đứng ngắm bọt nước bắn tung tóe cũng đủ nói lên điều đó. Họ sợ là phải vì trên ghềnh đá lúc nào cũng lởn vởn một vài tên Thái lạ mặt. Đa số người Thái buôn bán trên đảo đều là những người hiền lành tốt bụng, vì công ăn việc làm của họ và cũng có thể vì quyền lợi thì đúng hơn. Bọn lạ mặt thường từ những tàu đánh cá ghé lại bán tôm cá hoặc mua nhiên liệu thực phẩm, phần còn lại từ trong tỉnh chạy xe gắn máy ra dò dẫm tình hình để đêm tối đỡ mất công vào lộn nhà. Ở đảo, ban ngày dân bản xứ được quyền ra vào tự do buôn bán hoặc vào quán nhậu nhẹt trong khi dân tị nạn lại bị bó giò bó chân. Thỉnh thoảng một vài người bạo gan lén trốn ra ngoài xem cuộc sống dân Thái có gì lạ nhưng bị cướp cạn chặn ngay ở cổng lấy tiền, đồng hồ hoặc những thứ không đáng giá như cây viết, cuốn tập. Một người trốn ra cũng bị cướp, cả bọn đi chung cũng bị cướp mà vẫn phải đứng chịu trận vì chúng có khí giới và chúng là kẻ được chính phủ dung túng. Riết rồi không ai còn tơ hào sẽ trèo qua cánh cổng sắt, tách rời khỏi tập thể để tạo cho mình niềm vui riêng.
Biển hữu tình nhưng không dành cho mọi người kể cả những đêm rằm. Khi trăng vượt lên khỏi đỉnh đồi thì đã quá nửa đêm. Cảnh dưới thung lũng lúc bấy giờ mới trở nên huyền ảo nhưng không thể ngấm vào da thịt loài người ngọt mát trong màu sữa tươi vì những mái lá che kín, một hình thức ngăn chặn sự kích thích, dẹp lòng tà dục của những kẻ khác phái và cho cả chính mình như người con gái đang tuổi dậy thì cần phải mặc áo trong áo ngoài cho thật kín đáo. Trăng cũng không thể mời mọc những đôi nhân tình quên đi sợ hãi đứng bên ghềnh đá ôm nhau say đắm, cho nhau những lời mật ngọt, âu yếm vì an ninh chung quanh. Ban đêm một mình tác quái, trăng được thể càng lộ sự lẳng lơ. Nó bò xuống tận biển rộng mênh mông, trải đều những hạt tấm vàng trên mặt sóng, mê hoặc cả những ngư nhân dù đã lặn sâu dưới đáy nước. Biển trăng thơ mộng và quyến rũ muôn người, muôn vật đến cùng tận nhưng chẳng ai dám tơ màng và cũng chẳng thể thức đến giờ đó để ngắm trăng. Có chăng chỉ những kẻ cô đơn mất ngủ nằm trong chòi buồn bã đưa mắt qua những khe vách hở nhìn trăng sáng mà ray rứt nhớ thương về quê nhà.
Nửa đêm trăng đang làm tê liệt mọi sinh hoạt thì nghe báo động. Tức thì những tiếng khua giây chuyền thi nhau loảng xoảng vang rền. Đám thanh niên canh gác rọi đèn pin nhớn nhác theo những cánh tay chỉ trỏ lần tận đến nhà người bị nạn. Thì ra lão Hạnh, một chủ tàu nhập trại được hai tháng đang mây mưa với cô Trọng quên trời quên đất đã ngã lăn gô xuống sàn đụng vào những thùng thiếc dùng để xách nước phát ra tiếng động lớn làm mọi người tưởng cướp Thái lẻn vào. Hú hồn. Ai cũng thở phào như trút gánh nặng nhưng lại khoan kh