Chương III
Khác với mọi ngày, chiều tối hôm ấy Thị Huệ, cô vợ lẽ yêu người Việt, lên gác, theo như thường lệ, tiêm thuốc phiện cho chồng là chủ hiệu Hằng Dụ phố Hàng Ngang, tức Huỳnh Lục Ký, bang trưởng Quảng Đông. Lên khỏi thang gác, trông thấy khay đèn thuốc phiện vẫn còn để nguyên ở trên nóc cái tủ kính và cái sập gụ chân quỳ trống không, không thấy Huỳnh Lục Ký đâu cả, Thị Huệ ngơ ngác, kinh lạ, nhìn quanh nhà không thấy, vội bước ba bước ra đến hiên sau, thị càng kinh lạ kêu lên:
- Làm sao thế này?
Huỳnh Lục Ký đã ăn mặc khác hẳn đang lặng lẽ đứng ngoảnh đi, ngoảnh lại, ngắm nghía trước cái gương tư mã lớn treo ở tường, trước cái giá để chậu thau rửa mặt. Huỳnh Lục Ký cười âu yếm hỏi:
- Mình trông có ra vẻ phu khuân vác Hàng Buồm không?
- Nhưng sao lại ăn mặc lạ lùng thế kia chứ?
Thị hỏi lại với vẻ không bằng lòng và trân trân nhìn chồng cũn cỡn trong bộ quần áo cộc bằng vải giãi hạt cau đã bạc màu: áo năm thân tay chẽn cài dải ở ngực và ở dưới nách, quần cộc đến nửa ống chân. Huỳnh Lục Ký ôm vai vợ đi vào nhà, vừa đi vừa nói:
- Hôm nay ta phải tạm sai hẹn thường lệ với ả phù dung tiên tử và cũng là sai hẹn với mình một lúc lâu nhưng rồi sau sẽ càng xoắn xuýt hơn.
Huỳnh Lục Ký cười tình, nhưng chị vợ vẫn ngúng nguẩy hỏi:
- Mình định làm cái trò gì thế? Phải nói thật ra cơ, em mới cho…
- Ta cần phải đi hỏi cái này một tí. Phải cải trang cho họ không nhận ra, họ khỏi ngờ.
Chị vợ giẫy nẩy lên, nũng nịu:
- Ứ ừ! Em không bằng lòng để mình đi đâu, ngộ họ bắt mất thì sao!
Hai người đã vào đến giữa nhà, cùng ngồi lên sập, Huỳnh Lục Ký cười âu yếm bảo vợ:
- Cứ ngồi ở nhà, dễ mình giữ được đấy à? Người ta bắt thì ở nhà người ta cũng đến người ta bắt, như bọn Quan Tá Đường, Tống Tài, Tuân Thành đấy, dễ người ta bắt ở đường à?
Chị vợ hỏi luôn:
- À này, bác Lê Đạt Ký mới được thả về rồi, mình đã sang hỏi thăm chưa?
- Năm trăm lạng vàng đấy, ít của à? Anh chồng nói.
- Thì mình cũng cứ ở nhà, có bị bắt cũng lấy vàng ra mà rẫy chứ sao!
Nghe vợ nói, chồng cười vang lên vừa mắng yêu vợ, vừa giảng giải:
- Mình ngu lắm! Mất tiền mà cánh Quan Tá Đường và Tống Tài có được tha đâu, có thể còn bị giết nữa. Cho nên phải khôn mới được. Khôn sống mống chết, mình hiểu chưa? Câu tục ngữ An Nam thế mà đúng đáo để. Bác Đạt Ký bảo các quan An Nam cũng sợ Tây bỏ mẹ. Thế cho nên, tôi muốn đến gặp ông tướng Tàu ở Hàng Buồm để nhờ ông ta nói với Tây xin hộ bọn bác Quan Tá Đường. Vả…
Hắn ngập ngừng nhìn thẳng vào mắt vợ và nói khẽ:
- Vả cũng phải tìm lối giao thiệp để giữ thân chứ. Ngộ nhỡ các ông ấy đắc thời, đắc vị, các ông lại trị mình thì chết! Phải khôn, nghĩa là như thế đấy!
Hắn ôm hôn vợ và giao hẹn:
- Bây giờ thì mình yên trí để tôi đi nhé! Có ai hỏi cứ bảo tôi đi vắng, chạy loăng quăng đâu đấy. Độ đầu canh hai tôi về. Cố đợi nhé!
Hắn tháo giầy ra đứng lên và cúi xuống kéo ở gầm sập ra một đôi guốc mộc quai da buộc chéo kiểu quai dép và một cái mũ đan to vành cúp xuống, có chóp nhọn, đúng kiểu của dân Khách lao động ngoài bến thuyền. Hắn cười tình, bảo vợ:
- Thế này mới đủ lệ bộ.
Rối hắn cầm cả mũ, guốc hấp tấp đi xuống. Hắn ra lối cổng sau, đội mũ đi guốc vào, ngập ngừng trông trước, trông sau, rồi lanh lẹn thoăn thoắt đi qua phố Hàng Giầy, vòng qua cái ao trước cửa đền Bạch Mã, đi vào phố Hàng Buồm. Trời nhá nhem tối, mọi người đi về đều vội vã, không ai nhận ra hắn. Đến cổng nhà hội quán của Hoa kiều Quảng Đông, hắn thở phào, nhẹ nhàng nhấc mũ ra nói nhỏ với tên lính đứng canh rồi ung dung đi vào. Trong nhà khách, tên Tri phủ Hồ Quảng Lý Ngọc Trì đang ngồi đợi, vội chạy ra đón, kêu lên:
- Ối giời! Ông sợ à? Sao ăn mặc kỳ quái thế? Quan chánh mời đến ăn tiệc kia mà!
Huỳnh Lục Ký trả lời với vẻ thản nhiên, kiêu hãnh:
- Có thế, đi mới trót lọt. Bữa tiệc linh đình ở đây cuối năm ngoái chả làm khổ bao nhiêu người hàng bang chúng tôi rồi đấy! Bây giờ cốt được việc đã. Đi thôi chứ?
- Tôi chỉ còn có việc ngồi đợi ông. Đã tưởng không đến. Nào ta đi!
Hai người đứng lên đi ra, có hai người lính vác súng đi theo. Đi ngược lên, ra đến bến ô Đông Hà, đã có thuyền đợi sẵn ở đấy, khi mọi người đã xuống thuyền và thuyền rời xa bến rồi, Huỳnh Lục Ký mới hỏi Lý Ngọc Trì:
- Sao các ông không xin tha cho các hiệu Quan Tá Đường, Tổng Tài? Vì các ông mà họ bị bắt đấy.
- Đòi chứ không xin, Lý nói vẻ hùng hổ. Đang bắt chúng nó phải thả, cái tụi quan chó chết ấy!
Huỳnh Lục Ký cũng biết anh bạn cùng quê với mình nói khoác, nên ngồi im không nói gì nữa, kệ cho Lý ba hoa cho đến lúc chiếc thuyền con ghé sát vào đoàn thuyền lớn. Tất cả đậu ở giữa lòng sông, có ba tàu máy, hai thuyền buồm lớn đậu thẳng hàng và đến gần một chục thuyền gỗ, thuyền nan quây xung quanh. Mỗi thuyền đều có thắp đèn sáng. Ba tàu máy thắp đèn dầu lửa sáng rực rỡ chiếu tỏ cả một mảng sông. Chiếc thuyền mới đến áp vào thành cái tàu máy thứ hai. Lính trên tàu đưa cầu ván ra rước hai người khách lên. Đồ Phổ Nghĩa và Mi Lộ được tin thân ra tận nơi đón. Lý Ngọc Trì có ý nói chữa cho bạn:
- Thưa quan chánh và quan phó, ông bang trưởng Huỳnh Lục Ký sợ lộ, An Nam nó biết, nó giết, nên cải trang y phục khổ sở thế này.
- Ấy cẩn tắc vô ưu! Huỳnh Lục Ký nói một cách tự nhiên.
Đồ Phổ Nghĩa niềm nở bắt tay Huỳnh Lục Ký và nói tiếng Khách lơ lớ:
- Thưa ông bang trưởng, ông giữ gìn thế là rất tốt. Điều quý nhất là chúng tôi rất sung sướng được đón tiếp ông đúng hẹn ở trên tàu của chúng tôi tối hôm nay. Xin mời ông đi lên.
Đồ Phổ Nghĩa đi trước dẫn Huỳnh Lục Ký đi lên boong, vòng qua buồng đặt súng đại bác, buồng máy, giới thiệu qua loa, rồi đưa thẳng vào phòng khách, tức là nơi buồng riêng của thuyền trưởng. Đây là một căn phòng nhỏ, chữ nhật, xinh xắn, ngăn nắp, sơn trắng xanh màu men sứ. Hai bên, hai cửa sổ chấn song đều căng lụa hồng viền ren. Ở một đầu, một cái đi-văng giải nệm sa- tanh thêu chim phượng xòe cánh múa. Hai góc ở đầu bên này đặt hai đôn sứ thắt cổ bồng đội hai chậu cây cũng bằng sứ vẽ tích Lưu Bị tam cố thảo lư. Ở giữa hai đôn, có một cái bàn con trên để cái đèn tọa đăng thắp măng-sông sáng xanh ngắt tỏa khắp cả căn phòng ra tận ngoài khoang tàu, tỏ như ban ngày. Bên cạnh đèn, để hai bàn đèn hút thuốc phiện, khay bạc sáng bóng, bóng đèn pha lê trong vắt. Ở giữa kê một cái bàn dài phủ khăn trắng muốt, trên bày những món ăn, hoa quả, cốc, chén, bát, đĩa, dao, dĩa... rất đăng đối đẹp mắt. Chung quanh bàn để sáu cái ghế tựa quang dầu bóng nhoáng… Đồ Phổ Nghĩa mời Huỳnh Lục Ký ngồi xuống đi-văng cùng với mình. Mi Lộ và Lý Ngọc Trì ngồi xuống cái ghế dài kê sát vào vách bên cửa sổ. Huỳnh nhìn căn phòng, nhìn bàn tiệc, rồi nói với chủ thuyền:
- Thưa quan chánh thuyền trưởng Phú Lãng Sa, tôi đến đây với ý nghĩ là đi bàn công việc, chứ không phải đi dự tiệc, nên…
Đồ Phổ Nghĩa cười rất lịch thiệp, đáp:
- Vâng, thưa ông bang trưởng, chính chúng tôi hẹn mời ngài đến bàn công việc. Nhưng, thưa ngài, dân dĩ thực vi tiên, chúng ta gặp nhau cũng phải nên lấy chén rượu làm vui chứ. Đời là một cuộc tranh cướp lấy sự vui sướng mà lị! Đây sẽ có đủ mọi thứ vui, thuốc phiện hảo hạng, bàn đèn hảo hạng để đưa ngài vào cõi mộng… còn y phục ngài thế này mới thực là quý, nó chứng tỏ ngài thực tâm đến với chúng tôi.
Thấy mấy cô con gái Tàu ăn mặc lối Thượng Hải thấp thoáng ở ngoài, rồi hai cô trẻ măng mặc áo dài hoa bổ dọc để hở đùi và bắp chân mũm mĩm óng ả, bưng khay bạc vào dâng trà, Huỳnh Lục Ký hỏi:
- Trong quân đội, quan lớn cũng nuôi cả món này?
- Thưa ngài, trước hết tôi không phải là quan binh, Đồ Phổ Nghĩa đáp, tôi chỉ là một nhà buôn như ngài, nên như tôi vừa nói với ngài, tôi phải có ở trong tay đủ mọi thứ để mua vui chứ. Tôi nuôi cả đấy chứ. Chúng tôi cũng đang để tâm đào tạo thêm món hàng An Nam nữa... À hay ngài cần món An Nam mới nguyên?
Hắn nhìn vào mặt khách hỏi đột ngột, hai tay đưa lên vê xoắn hai chòm ria mép cong lên, miệng cười hề hề. Huỳnh lắc đầu nói:
- Không. Tôi đến đây cốt để bàn với ông một ít công việc.
Và hắn đi vào đề luôn:
- Trước hết, tôi đến nói với ông nên làm thế nào cho các anh Quan Tá Đường, Tống Tài là anh em của tôi được tha ra. Bọn quan An Nam dọa sẽ giết họ. Họ đều là những người dự bữa tiệc đầu tiên ông thết và sốt sắng vì công việc của ông mà bị bắt. Nếu họ không được tha, mọi người ở đây sẽ không tin ông nữa! Hai là các quan An Nam bảo sẽ bắt Súy phủ Sài Gòn ra tống cổ ông đi…
Đồ Phổ Nghĩa chăm chú nghe đến đây hỏi ngắt ngay:
- Tống cổ tôi đi ấy à! Tôi sẽ chỉ đi khỏi xứ này khi nào tôi mở được nhiều cửa hàng ở Hà Nội, mở sông Hồng Hà thông thương cho suốt đến Vân Nam và tôi muốn ra vào, đi ở lúc nào cũng được, tùy ý tôi. Còn như những Hoa thương bị bắt, tôi sẽ lựa chiều ép buộc bọn quan An Nam tha dần. Lê Đạt Ký chủ thầu mỏ kẽm được về rồi đấy.
- Vâng, bác Lê Đạt Ký mới được thả mấy hôm nay, nhưng phải lễ mất năm trăm lạng vàng! Huỳnh Lục Ký nói thủng thẳng.
- Ông ấy dại nên mới chịu mất tiền thế chứ. Tôi đã đòi họ phải tha hết. Họ còn giữ thể diện với dân họ, nên họ sẽ thả dần.
- Nhưng thưa ông, tôi thấy quan và dân An Nam họ làm dữ dội lắm. Tôi sợ họ sẽ kết án xử tử mấy anh em đồng bào của tôi mất. Nếu họ không sợ làm sai ý triều đình, tôi thiết tưởng họ sẽ đánh bật ông đi rồi. Đánh ông, họ sợ trái với hòa ước, nên họ đổ vào đầu chúng tôi. Họ quay ra trừng trị chúng tôi. Anh em chúng tôi ở giữa chết chẹt.
Đồ Phổ Nghĩa tươi hẳn lên, dịu dàng nói với khách:
- Ấy tại ông anh không nhìn quán xuyến, ông anh mới nghĩ như vậy chứ các quan An Nam không phải người nào cũng ghét chúng tôi cả đâu. Những kẻ thức thời đều biết chúng tôi đến là có lợi cho họ. Mà đều là những quan to có thế lực.
Đồ Phổ Nghĩa đứng lên, rút cái ngăn kéo ở cái tủ đựng tài liệu để ở cuối đi-văng kê sát vách, lấy ra hai tờ giấy bản cầm đưa cho Huỳnh Lục Ký, vừa ngồi xuống bên cạnh, nói tiếp vẻ thích chí:
- Đây hai bức thư có dấu son đỏ chóe hẳn hoi, một bức của quan Tổng đốc Hoàng Tá Viêm, một bức của quan Kinh lược Lê Tuấn gửi cho tôi đã hơn một tháng nay. Đấy ngài xem, tôi có nói dối đâu.
Hắn quay ra nói với hai người ngồi ở ghế dài:
- Anh cho đi mời hai ông khách kia lại, ta vừa ăn vừa nói chuyện bàn cũng được. Anh gọi chúng nó vào mở rượu.
Mi Lộ đi ra ngoài. Mấy cô gái Thượng Hải vào đứng ở bên cạnh đôn sứ, và đi lại bày các thức ở trên bàn lại cho ngay ngắn thêm, sẵn sàng đợi lệnh hầu bàn. Một người Tây mặc tạp-dề 1 trắng kiểu nhà bếp đứng thập thò ngoài cửa. Trong khi ấy, Huỳnh Lục Ký mở hai tờ giấy ra xem qua. Đúng hai bức thư của hai ông quan lớn nhất ở Bắc kỳ, dấu kiềm, ấn son còn như lóe cả mắt. Bức thư thứ nhất dài đặc cả hai trang giấy, gửi trước, của Hoàng Tá Viêm còn in rành rành cả hai ấn quan phòng lớn với những chữ: “Tổng thống quân vụ đại thần” và “Sơn Hưng Tổng đốc”. Tờ thứ hai ngắn hơn, gửi sau mấy ngày là của Lê Tuấn với chức tước: “Bắc kỳ Khâm sai Thị sự đại thần” 2 và ấn son bốn chữ “ Bắc kỳ Thị sự”. Hắn chưa kịp đọc, Mi Lộ đã dẫn hai người khách nữa đến, hai người An Nam lạ mặt. Mọi người cúi đầu chào nhau. Đồ Phổ Nghĩa đứng lên giới thiệu Huỳnh Lục Ký với hai người, và lần lượt nhắc đến họ tên và chỉ vào từng người một:
1. Tablier: cái vải choàng ngoài để làm việc hầu bàn, cho được vệ sinh, ở đây đọc theo âm Việt hóa thành tạp-dề.
2 . Vị quan to theo mệnh vua (Khâm sai) để trông nom (thị sự) mọi việc.
- Đây là ông Trương giúp việc chúng tôi ở Hải Dương.
- Đây là ông Phạm Quang Diệu ở Hà Nội, đều là người theo đạo Thiên chúa do bề trên run rủi được các đức cha đưa đến với chúng tôi. Hai ông ở Hà Nội nên làm quen nhau đi.
Mọi người lại bắt tay nhau niềm nở. Đồ Phổ Nghĩa thân kéo tay từng người khách mời ngồi vào ghế, rồi mới cùng với Mi Lộ, Lý Ngọc Trì cùng ngồi xuống sau. Hắn ngồi bên cạnh Huỳnh Lục Ký đối diện với Phạm Quang Diệu, nâng cốc mời mọi người và nói:
- Hôm nay là bữa cơm người nhà cả, bữa ăn bàn công việc.
Rồi không để ai nói tiếp, hắn nói luôn với Huỳnh Lục Ký:
- Ta vừa ăn vừa bàn. Tôi không biết chữ nho, ngài đọc cho tôi xem họ dịch có đúng không?
- Tôi xem qua đủ rõ rồi. Huỳnh Lục Ký nói, tôi xin đọc bức ngắn của quan Khâm sai Lê Tuấn thôi.
- Vâng, cũng được, xin ngài uống rượu rồi đọc. Đồ Phổ Nghĩa mời.
Huỳnh Lục Ký ầm è lấy giọng rồi lên tiếng đọc:
“Bắc kỳ Khâm sai Thị sự đại thần Lê Tuấn kính đệ quan đoàn trưởng đoàn thuyền Đồ Phổ Nghĩa quý sứ đại nhân: Bản chức đã tiếp được bức công văn của quý sứ về bọn phỉ Hoàng Sùng Anh. Bọn nghịch phỉ này tàn phá miền thượng du Bắc kỳ đã lâu mà triều đình chưa dẹp tan được. Bọn phỉ ấy là gốc sinh ra mọi đói khổ ở Bắc kỳ này. Bản chức rất lấy làm kinh ngạc, thán phục quý sứ đã đi qua đám giặc ấy mà không việc gì cả. Quý sứ thật là bậc dị nhân kỳ tài đã thuyết phục được bọn ấy, nói cho chúng nghe ra và biết phục thiện đầu hàng. Bản chức và các quan của bản triều đều bất lực, không làm được như thế. Xin ghi nhớ công quý sứ đã làm cho bản quốc được yên, và do đấy là kẻ có trọng trách ở biên cương, càng thấy mình quá bé nhỏ bên cạnh quý sứ. Bản chức vội sức ngay cho các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa biết. Bản chức cũng vừa tiếp được thư của quan Tuần phủ Vân Nam. Khi nào phụng tiếp được chỉ dụ của triều đình gửi ra, bản chức sẽ cố tìm mọi cách làm cho quý sứ được hân hoan sở cầu như nguyện.
“Tự Đức hai mươi sáu, tháng năm, ngày tám”.
Đọc xong, Huỳnh Lục Ký đưa trả cả hai tờ giấy bản cho Đồ Phổ Nghĩa. Tên này cầm lấy đưa cho Phạm Quang Diệu xem và nói:
- Đấy chả phải họ sợ chúng tôi là gì? Nên khi biết ông Khâm sai này cấp bằng cho cái anh Bát phẩm bị can án đứng ra giao thiệp với chúng tôi, tôi đã không nhận, tôi đuổi về. Mình chỉ là một anh nhà buôn thôi, nhưng họ đã sợ mình thì mình cứ làm già lên.
- Nhưng thưa ông, đấy chỉ là một vài kẻ cá nhân riêng biệt, còn cả triều đình nữa, khi nào họ chịu sợ một cách vô lý quá đáng.
- Thì triều đình cũng chỉ là các ông quan to thôi chứ gì? Vả lại ở đây lại khác. Ngài hẳn biết ngoài này trước kia là một nước khác, nước của vua Lê, nhân dân ở đây còn nhớ vua Lê ghét triều đình Huế, nên nếu bọn quan ngoài này mà không chịu mở đất thông thương, thì chúng tôi sẽ giúp cho con cháu nhà Lê lập lại nước cũ, dễ như trở bàn tay. Nhưng đấy là nói chuyện đường dài. Còn đối với chúng tôi thì cốt sao mở được đất thông thương, mở cửa hiệu, mở xưởng máy, tự do đi lại, đem ánh văn minh đến khai hóa đất này, cho thiên hạ vào đây buôn bán, tứ hải giai huynh đệ. Cứ bọn nào chịu theo như thế là được, chả phải lôi thôi gì cả.
Ngừng lại, thấy mình nói quá nhiều, Đồ Phổ Nghĩa vội đổi chiều:
- Nào mời các ông ăn uống đi chứ!
Thấy bên kia, Lý Ngọc Trì đang vui vẻ giúp đỡ hai người bạn bản xứ sử dụng dao dĩa cho đúng cách, hắn bằng lòng, tớp một ly rượu mạnh, ăn một miếng bít-tết, lấy đầu khăn ăn lau qua mép, rồi lại nói với Huỳnh Lục Ký:
- Bây giờ ta bàn đến chuyện gần. Ngài có đồng ý với tôi là sở dĩ có tình trạng nguy kịch như hiện nay là vì bọn quan ở đây vừa sợ chúng tôi, vừa sợ dân chúng của họ, một bọn quan lại bất lực.
Giá như lúc mới đến, còn để thăm dò tâm địa và ý định kẻ đối thoại, Huỳnh Lục Ký đã định hỏi một câu soi mói: “Nếu không bất lực thì cứ để mặc kệ các ông làm gì cũng được có phải không?”. Nhưng may, hắn đã nhìn rõ tình thế hơn, thấy Đồ Phổ Nghĩa thông thuộc tình hình Bắc kỳ này hơn, lại có nhiều tay trong người An Nam, cả từ quan cho đến dân, hắn mới tỏ quyết tâm vệ hẳn về kẻ đã hạ cố mời mình đến chơi ngày hôm nay, nên hắn dịu lời:
- Thưa quan thuyền trưởng, tôi thấy ông nghĩ đúng, thật họ lúng túng, sợ các ông lại vừa sợ cả dân gây ra lôi thôi làm cho họ phải chịu lỗi.
Mãi đến bây giờ mới thấy Huỳnh Lục Ký ngả về phía mình, Đồ Phổ Nghĩa cho là đã thuyết phục được người khách buôn lõi đời ấy trung thành với mình, liền hỏi ngay sang những việc cụ thể:
- Ngài thấy việc đánh lão Đốc học thế nào? Có lợi chứ?
- Vâng, tôi cũng thấy có lợi, nhưng cũng thêm khó khăn. Huỳnh Lục Ký trả lời. Toàn dân người ta khích phẫn…
Đồ Phổ Nghĩa vội ngắt:
- Việc đời việc nào mà chả có khó khăn. Nhưng dân phẫn khích thì các quan càng sợ, càng phải giữ ép dân, mặt khác dân có phẫn nộ mới bùng ra những hành động, ta mới biết mà đối phó chứ. Ngài đã biết chúng tôi chỉ là một bọn khách lạ đến đây, chúng tôi đi suốt con sông này lên đến Vân Nam trở về vô sự, chúng tôi đóng đoàn thuyền ở đây, chúng tôi có kho hàng ở trên bến, chúng tôi lại đóng quân ở giữa phố buôn bán, chúng tôi lại giao thiệp thân ái với các quan chức có thế lực ở đây và ở bên quý quốc, chứng cớ là tập thư từ hàng đống kia kìa. Thế là chúng tôi mạnh, lại có bao nhiêu người phù trợ chúng tôi. Chúng tôi nhất định phải mở mang xứ này. Tương lai phồn vinh ở đây là ở trong tay chúng tôi. Thế tất tương lai kinh doanh của các ông phải gắn liền với chúng tôi chứ không phải với bọn vua quan An Nam. Chắc ngài thấy rõ điều đó.
Khoái trí vì đã nói rõ được oai thế của mình, Đồ Phổ Nghĩa uống thêm một cốc rượu mai quế lộ, cầm cả đùi gà quay lên ngoạm như có ý tự thưởng thức sự đắc thắng của mình và hất hàm bảo hai ông bạn người bản xứ:
- Ăn đi chứ!
Nhai xong miếng gà quay, lau sạch mép, uống thêm một ngụm rượu rồi, vẫn thấy Huỳnh Lục Ký ăn nhỏ nhẻ cầm chừng, hắn giục:
- Nào mời ngài ăn đi chứ!
Rồi hắn đi ngay vào vấn đề đã định sẵn:
- Mọi việc lúc đầu có khó thì về sau lợi mới nhiều. Đã gắn bó với nhau cùng một mối lợi chung, tất nhiên ta nên giúp nhau cùng vượt khó khăn trở ngại. Chắc ngài cũng nghĩ thế. Trong cuộc giằng co tranh chấp, bên nào khôn khéo ly gián, đánh rời rạc đối phương là bên ấy thắng. Công việc ấy chúng ta đã làm tốt, và ngài đã giúp chúng tôi khá nhiều, nhất là gây được hòa hảo với quan huyện sở tại. Bây giờ, chúng tôi muốn nhờ ngài mấy việc: Trước hết làm sao kéo được dân nghèo về phía chúng ta, cả Khách và Nam, muốn thế phải gây làm sao cho bọn quan An Nam bắt bớ nhiều vào. Thứ hai, lựa thế nào được mấy người về hùa giúp chúng tôi, nhất là cánh đồng môn nào ấy và Bá hộ Kim. Sau nữa, chúng tôi muốn sao những bức thư của các quan An Nam gửi cho tôi được đem niêm yết khắp các phố cho dân chúng biết, ngài tính có nên không?
Huỳnh Lục Ký im lặng ngẫm nghĩ mãi từ nãy đến giờ, thấy hỏi, vội trả lời:
- Nên lắm, vừa làm tăng thêm thanh thế cho mình, vừa là một cách ly gián khéo.
- Vâng, ngài nói đúng, Đồ Phổ Nghĩa tiếp. Dán lên rồi tất có kẻ xé đi. Chúng tôi nhờ ngài theo dõi những kẻ phá hoại ấy để biết mà tìm cách đối phó. Cuối cùng, ngài nên để tâm xem xét trong hàng Khách trú những kẻ nào có ý chống đối hẳn lại chúng tôi.
Ngừng lại một lát, Đồ Phổ Nghĩa cười vui vẻ, nói tiếp với vẻ cởi mở:
- Chúng tôi chỉ nhờ ngài có thế. Tôi tin rằng ngài sẽ làm được, vì ngài kín đáo, thận trọng hơn các ông Quan Tá Đường, Tống Tài. Mà những việc tranh giành khó khăn, chúng tôi xin cáng đáng cả. Đi với chúng tôi nhẹ mình không nguy hiểm mà chỉ có lợi thôi. Các ông Quảng An Đường, Vạn Thịnh ở trong Sài Gòn vừa buôn bán lớn, vừa tham dự vào quan chức của Súy phủ chúng tôi, chắc ông đã biết.
Mọi việc coi như là đã thỏa thuận, Huỳnh Lục Ký thấy không cần nhắc lại, chỉ nhắc riêng điều đã nói lúc mới đến:
- Thế nào ông cũng phải đòi thả cho được bọn Quan Tá Đường.
- Chúng tôi sẽ cố đòi và đòi cả bồi thường nữa, Đồ Phổ Nghĩa vừa nói, vừa vỗ vai Huỳnh Lục Ký. Nhưng chóng hay chậm là còn do quan An Nam và cũng là do sức mạnh của ta có lan rộng không đã. Cho nên muốn chóng thả các bạn của chúng ta, chúng ta càng cần phải cố gắng mau chóng làm cho được những kế hoạch đã định.
Thấy không còn gì phải nói thêm nữa, Đồ Phổ Nghĩa chỉ hai người An Nam bảo Huỳnh Lục Ký:
- Ngài nhận diện hai người này để sau này tiện gặp nhau.
Huỳnh Lục Ký quay nói tiếng Việt với hai người:
- Mời hai ông đến chơi nhà tôi ở hiệu Hằng Dụ phố Hàng Ngang.
Lão Trương nói:
- Tôi không sang Hà Nội, tôi về thẳng Hải Dương.
- Còn tôi, Phạm Quang Diệu nói, tôi chưa ở hẳn Hà Nội, tôi chỉ qua lại chốc lát thôi, lúc nào tiện, tôi xin vào hầu tôn ông.
Bữa tiệc cũng vừa tan, mọi người ngồi xuống đi-văng và ghế dài ăn quả và bánh ngọt tráng miệng. Huỳnh Lục Ký xin phép ra về. Đồ Phổ Nghĩa chỉ cái bàn đèn thuốc phiện bằng bạc để trên bàn con, mời:
- Rước ngài ở lại với chúng tôi đi bay chơi mây khói một chuyến.
- Thôi, thưa quan thuyền chủ, xin đủ ạ, xin khất đến khi khác. Tôi cần về sớm một tí, khuya quá ngộ nhỡ người ta ngờ.
- Vâng, ngài đã cẩn thận thế, tôi không dám nài. Đồ Phổ Nghĩa nói và vỗ vai thân mật người đối thoại. Cám ơn ngài đã đúng hẹn đến chơi với chúng tôi. Rất mong một ngày gần đây, chúng tôi được dịp thân đến nhà đáp lễ ngài, thưa ngài bang trưởng, chúng tôi muốn ăn tiệc ở ngay nhà ngài. Cái ngày ấy chúng tôi mong nó sẽ là công của ngài.
- Tôi sẽ rất hân hạnh được đón tiếp các quan đến tệ xá, Huỳnh Lục Ký cười cảm động nói, thưa quan thuyền trưởng. Bây giờ tôi xin phép quan cho phép tôi về. Kính chào quan Chánh, chào quan Phó, chào quan Phủ.
Và hắn chào hai người bạn An Nam bằng tiếng Việt:
- Chào hai ông, hai ông còn ở chơi đây chứ?
- Vâng, sáng mai chúng tôi về thuyền, lão Trương đáp.
Mọi người thân mật bắt tay khách về, Đồ Phổ Nghĩa, Mi Lộ, Lý Ngọc Trì thân đưa khách xuống tận thuyền. Lại một lượt chào và bắt tay nữa. Lý Ngọc Trì nhảy xuống trước và nói:
- Tôi cũng về cơ mà, sao ông lại chào?
Đồ Phổ Nghĩa dắt tay đỡ Huỳnh Lục Ký xuống thuyền và nắm chặt giật giật thân mật một lúc mới buông vừa chúc:
- Mạnh khỏe, thành công! Nhớ nhé, liên lạc luôn!
Con thuyền quay mũi vào bến đi trong đêm sáng sao, lướt nhanh và êm như gió. Không một ai nói gì. Những ngôi sao dày chi chít như những cúc bạc sáng bóng gài xít trên nền thảm xanh lơ, tỏa ánh sáng ruồng, lấp lánh như cười thầm cuộc đi chơi lén lút. Huỳnh Lục Ký cảm thấy như thế nhưng nghĩ đến lợi, nghĩ đến người Tây sẽ trọng vọng mình và nhất là nghĩ đến chóng chầy thế nào người Tây cũng chiếm cứ đất này, như Đồ Phổ Nghĩa đã nói, hắn tự thấy lẽ phải ở mình, thấy sự đắc thắng lớn lao ở dịp đi này, nên hắn cười thích chí. Thuyền đến bến, hai người lính vác súng lên trước hắn, bước theo Lý Ngọc Trì lên sau, rồi lọc cọc đôi guốc đi ngang nhiên trên con đường lát đá cho vang thêm tiếng động như không cần giấu giếm gì nữa. Đến trước cổng hội quán, hắn khẽ chào Lý Ngọc Trì rồi đi thẳng. Đến chỗ cái ao trước đền Bạch Mã, hắn đứng dừng lại lưỡng lự, ý muốn đi thẳng lên phố Hàng Đường qua cầu Đông mà về, đêm đã khuya, phố vắng vẻ, có gặp ai mà sợ. Nhưng nghĩ sao hắn lại rón rén vòng qua ao đi sang phố Hàng Giầy để trở về cổng sau. Vẫn vắng vẻ, không gặp một ai. Trong một ngõ ngang, một ngọn đèn le lói soi rõ một gánh hàng quà đang bán. Mấy người ngồi ăn. Than bếp lửa còn đỏ hồng cho hắn biết đó là gánh hàng phở hay cháo. Hơi chột dạ, hắn đi nhẹ guốc và bước nhanh hơn. Bỗng từ trong ngõ một bóng đen chạy xồ ra giọng lè nhè:
- À cu cậu đi ăn mảnh phải? Phát tài vào đây chén với chúng tớ!
Hắn bước vội, tức thì bóng đen vượt hẳn lên giang tay ra và gọi:
- Anh em ơi! Nó chuồn!
Huỳnh Lục Ký gạt được tay, bỏ guốc chạy thục mạng. Tức thì ở trong đình Trâu Khê, một bóng người cao lớn xông ra chộp luôn bàn tay rắn chắc vào cẳng kẻ đang chạy làm hắn ngã sóng soài xuống đường văng cả mũ đi xa, trong khi mấy người chạy theo sau nói láo quáo:
- Mẹ kiếp! Thời buổi này mà nó còn muốn làm thần giữ của. Nó đi hót của Tây về đấy!
- Ê hê! Chưa chi đã sóng soài lạy anh thế à?
- Đàn em hèn thế mà dám trêu vào các ông anh à? Ở đâu mới đến dại dột lớ ngớ thế?
Nhưng khi mấy người chạy đến nơi thì Huỳnh Lục Ký đã ngồi dậy, người cao lớn đang chạy đi nhặt cái mũ và nói với mọi người:
- Ông Hằng Dụ đấy.
Mấy người chạy xúm lại vây quanh đỡ hắn đứng lên, phủi quần áo và hỏi:
- Ông bang đấy à?
- Phải!
– Huỳnh Lục Ký miễn cưỡng trả lời. Một người chạy đi nhặt đôi guốc đem lại, mấy người hỏi dồn:
- Ông đi đâu thế?
- Sao ông không lên tiếng?
- Tại ông không nói, anh em tưởng là kẻ gian!
Người cao lớn chộp ngã ông lúc nãy gạt đi và nói:
- Mời ông vào tạm trong đình này nghỉ tí đã, rồi tôi xin đưa ông về.
Huỳnh Lục Ký nghĩ cần phải thanh minh làm sao cho bọn này khỏi ngờ, liền vui vẻ theo người kia vào đình, vừa đi vừa nói:
- Tôi muốn đi xem quang cảnh phố xá và các chú làm ăn thế nào?
- Bây giờ khác nhiều, một người nói, phố vắng vẻ ngay từ chập tối. Người Nam chả còn ai đến đây làm gì.
- Vất vả lắm, ông ạ! Người khác tiếp. Sống như cá chốc thớt!
Cái người say rượu đuổi lúc nãy lè nhè hỏi:
- Sao ông không lên tiếng? Tôi ngỡ kẻ nào lẻn đi làm cho Tây thì chúng tôi sẽ dần cho một trận!
- Sao ông lại ăn mặc thế này? Làm anh em không nhận ra.
Cả bọn đã vào đến sân đình. Huỳnh Lục Ký ngồi xuống cái ghế dài bốn chân tre xoạc ra kê tựa vào gốc một cây sung, một quả sung chín bị dơi ăn rụng đánh bộp vào đầu, hắn giật mình hoảng sợ co rúm lại, làm mấy người cười ồ lên và nói:
- Quả sung đấy chứ không phải con gì đâu!
Trấn tĩnh lại được rồi, Huỳnh Lục Ký cười chữa thẹn và trả lời câu hỏi:
- Tôi phải mặc thế này để cho cả Tây và Nam họ không nhận ra thì mới đi được khắp các phố chứ. Sở dĩ tôi không lên tiếng là cũng không muốn anh em nhận ra tôi, tưởng đi vượt lên một tí qua khỏi thì một lúc nữa là về đến nhà.
Hắn ngừng lại, mới kịp có thì giờ nhìn rõ mọi người dưới ánh sáng của bếp lửa đang cháy lom dom bập bùng ở trong một bên gánh hàng để bên bức tường tắc môn. Thấy người cao lớn đang cúi lom khom thổi lửa, hắn hỏi:
- Ả Sìn cũng lên bán hàng kia à?
- Bẩm ông, hàng dưới ấy ế lắm. Mấy tháng nay tối nào tôi cũng phải lên bến và về đây bán cho anh em phu. Người kia ngẩng lên, ngồi xổm đáp.
Lấy lại tư thế kẻ cả, Huỳnh Lục Ký thân mật hỏi mọi người:
- Các chú dạo này làm ăn thế nào? Một người đáp:
- Không bao giờ như thế này. Chả ra sao cả. Bọn Tây hoành hành, quan Nam bắt bớ… Cũng đến bỏ sới đi nơi khác thôi.
- Buồn quá, chúng tôi thường rủ nhau ra đây nhậm và sực, một người nữa nói tiếp. Kẻ có nuôi người không…
- Nên tưởng có kẻ đi ăn mảnh, anh say rượu nói lè nhè, anh em định tóm cổ lôi vào…
Huỳnh Lục Ký thấy cần lựa lời lấy lòng họ:
- Các chú cứ việc yên trí ở đây chịu khó làm ăn, có gì trở ngại cứ đến hỏi tôi. Nghe nói đâu bọn Tây nó đã xin được phép quan An Nam cho họ được mộ người giúp đỡ khuân bốc hàng, chuyên chở hàng cho họ đem lên mạn ngược. Tất nhiên các quan phải để cho mình làm…
- Nhưng người An Nam không làm, mình đi làm, nó thế nào ấy, một người nói. Đã có lệnh cấm, người ta cứ bắt thì sao?
- Tây nó đến đã quá nửa năm, nó đã làm nhà lên phố, không đuổi nó đi được, tất phải cho nó ở chung, bình thường như mình. Mà sở dĩ nó hoành hành cũng tại nó bị trói buộc quá. Nên các quan An Nam mới đổi cách, cho nó được thuê mượn người. Vậy ai bắt bớ làm khó dễ, các chú cứ chạy đến tìm tôi. Nếu thật có phép rồi, tôi sẽ có thể giúp đỡ được.
Ả Sìn đã đứng lên xếp gọn chồng bát trên mặt cái hòm gỗ vuông bên gánh, rồi cầm hai thanh gỗ gõ vào nhau kêu tục tắc, cũng nói xen:
- Nhưng người Nam không làm cho Tây, họ sẽ bảo mình đừng làm. Chả nhẽ không nghe!
Nghe nói thế, Huỳnh Lục Ký mừng thầm đã nắm được mối dây rồi, nhưng không dám hỏi gạn ngay, chỉ nói khuyên giải:
- Thì mình cũng cứ nói là cùng bất đắc dĩ, đói thì đầu gối phải bò, mình không làm, người khác cũng làm. Vả quan trên đã cho phép, cứ nói tình thực cảnh khổ của mình, chắc họ cũng chả nỡ…
- Thưa ông xơi một bát mằn thắn? Nóng ngon đây ạ. Ả Sìn hỏi.
- Thôi, cám ơn chú, tôi còn no - Huỳnh Lục Ký đáp và hỏi lại: Khuya rồi, sắp về chưa?
- Bẩm cũng đợi một lúc lâu nữa, còn một số anh em ăn quen. Ả Sìn đáp và ngập ngừng nói thêm:
- À, bẩm ông, cái việc Ả Chí xin khai vào sổ hàng bang từ tháng trước, ông đã nhận cho, thì xin bảo cho hắn biết để yên trí làm ăn ở đây.
Sực nhớ ra điều gì thấy vừa khớp với ý mình đang mong mỏi, Huỳnh Lục Ký vội vồn vã:
- Ừ được, trưa mai, bảo hắn đến, tôi xét xem có thể làm ơn được. Hơi khó đấy. Nhưng nhớ nhắc hắn cứ đến đúng hẹn nhé. Thôi chào các chú, tôi về đây, các chú cũng liệu mà về đi, khuya rồi.
Hắn đứng lên đi ra. Ả Sìn vội nói:
- Để tôi cầm đóm đưa ông về đến cổng. Một người đứng lên chạy theo và nói:
- Thôi, chẳng đèn đóm gì cả, để tôi đưa ông đi tắt xóm Nội Miếu.
Huỳnh Lục Ký bằng lòng, cùng với người kia biến khuất vào trong bóng tối.
***
Họp ở trường học của quan Đốc Mọc phố Hàng Đậu để biết qua bệnh tình quan Đốc và bàn mấy công việc cần, bác Hai Phúc cùng mấy ông bạn đồng môn ra về, rủ nhau tạt qua chợ Đồng Xuân. Hôm nay là phiên chợ chính, lại đương giữa vụ thuế tháng năm. Mấy người định bụng vào xem cho biết giá cả, hàng họ và dân tình lo liệu thuế má thế nào. Nhưng khi vào đến cổng chợ, cả bọn sửng sốt thấy chợ chỉ lèo tèo một dúm người như sắp tan, phiên trước và phiên nay khác hẳn, tuy tình thế có gay go, mọi người đều biết, nhưng không ai ngờ chợ lại vắng đến thế, vắng như phiên xép mồng ba tết đầu năm. Mọi khi, không phải dịp thuế, vào lúc nửa buổi non trưa này, chợ đã chật ních những người. Năm dẫy lều ngói cao rộng và gần chục lều gianh đầy ắp những người chen chúc, len đi lách lại khó khăn, làn sóng người còn cuồn cuộn nối dài cánh bãi ra mãi đến bến đò đình Thanh Hà. Phía bắc chợ, lợn gà và trâu bò từ sân đình phường Đồng Xuân họp tràn lan ra mãi đến đình Phúc Lâm gần cửa ô. Thế mà hôm nay tất cả tứ phía đều như quang cảnh ngày hội đã rã đám. Bến Cháy cửa ô Đông Hà có bọn Tây đóng án ngữ ở đấy, không thuyền buôn nào muốn đến ghé vào đã đành, ngay đến Thanh Hà cũng không một thuyền nhỏ nào từ dòng sông Tô luồn qua ngòi nhỏ mà vào chợ nữa. Dân đi bộ ở các làng xã ngoài thành cũng không mang sản vật đến chợ bán, hoặc đi mua sắm. Thành ra chỉ còn quanh quẩn người mấy xã thôn phường phố trong hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận họp chợ với nhau mà thôi. Thảo nào không có tiếng vọng xa và trông cái chợ cứ mông mênh như lúc xế chiều mọi phiên trước kia, chợ thông thống, suốt chợ như đếm được người trên đầu ngón tay. Có thứ hàng thì ê hề chẳng ai mua và có những thứ tìm kiếm đến bói chẳng ra! Đứng ở lều ngói giữa chợ nhìn khắp một lượt tứ phía, bác Hai gọi mấy ông bạn đang chạy đi tìm mua lợn con về nuôi, và nói:
- Thế này thì loạn rồi còn gì nữa? Ai lại chợ búa thế này! Mình tưởng nó cũng được như buổi trước.
- Thì đã bảo cái tụi này không trị cho nó ra môn ra khoai thì không thể nào chịu được. Một ông bạn thợ thêu ở xóm Yên Thái đằng sau Hàng Hòm nói. Ai lại nó làm như phố buôn bán này là của nó rồi, nó muốn làm gì thì làm, nó cấm đoán mọi thứ, nó không cho mình đi đông người ở ngoài phố! Cấm cả mang khí giới trong người.
Một ông bạn bán đồ đồng nát ở phố Phúc Kiến nói:
- Có ở cái phố Hàng Buồm, Hàng Ngang nó muốn dán giấy huênh hoang thế nào, chứ ở phố tôi, hễ thò ra tờ nào là chúng tôi xé tất cho vào bếp. Những tờ giấy to tướng đem đun đến được ấm nước, nào thư của Tam tuyên Tổng đốc, của Bắc kỳ Khâm sai…
- Tôi cho là nó viết láo, ông bạn kia cãi. Nó bịa ra để lòe dân ta đấy thôi. Chứ quan ta ai thèm viết thư cho nó!
Bác Phúc hỏi:
- Dù cho có là chính thư thật của các ông quan đại thần ấy, cũng chẳng ma nào thèm đọc những bức thư dài dằng dặc ấy. Nhưng tức nhất là tờ giấy nó yết cấm cả quan chức và quân lính của ta không được đi đông ở trong phố, và có bắt người và khám nhà phải được phép của quan thuyền trưởng đoàn hỏa thuyền Đồ Phối mới được vào nhà!
- Tên gì mà kỳ quặc thế nhỉ? Đồ Phối có lẽ là nó nói cả hai bên cùng phối hợp khám bắt. Một ông bạn nói:
- Không! Bác Phúc cãi. Tên nó đọc thế đấy. Tôi không đọc nhưng người ta bảo nó ký ở dưới, chứ có ở giữa câu đâu! Nó lại đề niên hiệu Thiên chúa giáng sinh, chứ không viết niên hiệu vua ta, thế mà các quan ta vẫn cứ để yên, lạ quá!
- Thế nên bọn Khách buôn mới cứ nhơn nhơn, ông bạn xóm Yên Thái nói. Họ bảo quan ta sợ Tây, có Tây bênh, quan ta không làm gì được họ, nên xem ra dạo này họ về theo Tây nhiều lắm. Tây nó sống được ở đây là nhờ bọn đó.
Bác Phúc vội ngắt:
- Ta không nên vơ đũa cả nắm làm mất hòa khí, chỉ có lợi cho bọn Tây thôi. Bọn Khách cũng khổ như mình, lại bị bọn buôn lớn nó lừa dối…
- Đúng đấy, chỉ bọn buôn lớn là làm giàu thêm. Ông bạn bán hàng đồng nát tiếp lời, và nói nhỏ hơn: Ta xử tử bọn Quan Tá Đường, Tống Tài rồi đấy, và đưa đi biệt tích một vài chủ hiệu khác.
Ba người đã ra khỏi chợ, đi dọc theo con ngòi Thanh Hà đến dốc Ngõ Gạch ông bạn hàng đồng nói thêm:
- Tôi cho là chỉ tại thằng Tây, mà quan ta thì nhu nhược, nó càng làm già, nên như ta nói ở trường lúc nãy, ta cứ mau mau nện cho nó một trận, nếp tẻ ra sao thì ra, không thì tức lắm, góp công, góp của, tôi có tất. Quan trên cứ đắn đo, văn thân lại đắn đo nữa, thì chúng tôi sẽ thủ dùi đục đi, chúng tôi phang! Cứ để tụi nó khinh nước mình như thế, ai mà chịu được! Cứ một đổi một là giết hết bọn nó.
Đến chỗ ngã ba, ông kia đứng lại rút trong bọc giắt ở cạp quần ra một cái búa con gò đồng giơ lên và nói:
- Tôi vẫn thủ sẵn búa đây. Nhưng thôi chưa phải lúc, tôi không muốn vào phố Hàng Buồm làm gì. Bác Hai có muốn về qua lối này thì về. Chúng tôi đi đằng này.
Hai người rẽ lên đầu phố Hàng Đường, làm cho bác Phúc đang đứng lưỡng lự, vội nói:
- Đợi tí đã nào, sao vội thế?
Hai người rảo bước, không nói gì, bác đứng thừ trông theo, rồi cũng ngoắt đi thẳng xuống Hàng Buồm. Về qua hiệu phở Dụ Hưng, không ai ở nhà, bác vội vã về nhà. Ra đến đầu làng Hà Thanh, gần bờ hồ, bác gặp Bá Kim đang ngồi trên mình con ngựa nâu lộc cộc đi lại và gọi:
- Hai Phúc đi đâu về đấy? Tôi qua nhà gọi không thấy. Và không đợi bác trả lời, lão nói luôn, vừa ghìm cương dừng ngựa:
- Này bác này, tôi vừa ở trong huyện ra được tin triều đình cử quan Khâm mạng ra hòa giải, đòi Súy phủ ở Sài Gòn cử phái viên ra đến nơi là cùng dàn xếp với nhau xong mọi việc, bắt bọn Đồ Phổ Nghĩa phải rút lui hết. Quan huyện được thăng Tri phủ, mai ngài đi nhậm chức mới, ngài có dặn tôi cố làm sao giữ cho huyện ta đừng ai gây ra chuyện gì lôi thôi. Ai vô ý nói năng thất thố khích động làm hỏng việc là bị cữu nặng đấy! Nghe nói anh em đồng môn đang rục rịch làm trò trống gì. Bác về bảo với các vị ấy liều liệu chứ không lại uổng công toi mạng! Có bác là chỗ quen thuộc đi lại, tôi mới bảo thật đấy.
Bác Hai hỏi lại:
- Nhưng thưa cụ, cứ chịu để cho nó hoành hành mãi thế à? Cùng bất đắc dĩ mới phải làm đấy chứ. Nó đánh cả quan Đốc thì còn giời đất nào nữa? Mà quan Đốc có đào mồ cuốc mả bọn nó đâu? Ngài chỉ bảo nó đừng vẽ họa đồ cổng thành.
Bá Kim giảng giải:
- Quan Đốc không bằng cụ lớn Khâm sai, cụ Tổng đốc. Các cụ lớn đã bảo không được gây sự với họ thì mình phải tuân. Nếu không tuân, các quan khép vào trọng tội thì đồng môn có bênh và chịu tội chung với không? Ấy có thân thì phải lo là thế. Vả phải bỏ những cái tiểu tiết để mưu lo việc lớn cho nước nhà chứ. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Chẳng qua cũng là cái vận hạn không may của quan Đốc, hạn Tang môn, Bạch hổ.
- Thế thưa cụ, cụ không làm gì cả mà nó túm đánh cụ thì cụ có tức không? Hay cụ cũng im đi mà giúp đỡ kẻ đã đánh mình để mưu việc lớn cho nhà nước, rồi cũng bảo đó là vận số.
Bá Kim thấy bị kẻ dưới quyền vặn lý, đâm cáu, phát khùng gắt:
- Ai cho anh cãi lý với tôi? À quân này hỗn thật! Chúng bay cậy có bè, có cánh phải? Ông truyền hồn cho biết: Cứ ti toe vào đấy rồi có chết chẳng ai thương.
Rồi lão giật cương cho ngựa chạy, mặt vẫn còn hầm hầm. Bác Phúc đứng ngây mặt ra, vội nói vớt:
- Thưa cụ!
Cũng gờm vai vế của cánh đồng môn Tự Tháp lúc này, Bá Kim thấy tiếng gọi vớt, được dịp vội ghìm ngựa lại, nói đấu dịu, chữa cái vẻ giận dữ quá đáng:
- Như tôi à? Không khi nào tôi bị ai đánh cả, vì tôi có trêu chòng ai, và hễ khi tôi hơi nóng nẩy, tôi biết ngay, kìm ngay lại được. Như vừa xong đấy, tôi có hung hăng với bác, chẳng qua là tính tôi thẳng, tôi thấy thế nào tôi nói thế, có chỗ thân tình tôi mới bảo, còn nghe hay không là tự ý. Thế mà bị bác vặn lý là tôi cáu nói mất mặn mất nhạt ngay. Nhưng tôi biết mình nóng lại hối ngay. Bác cũng không nên để tâm…
- Dạ, không dám! Bác Phúc đỡ lời. Tôi vốn biết cụ hay nói sỗ, nóng như lửa.
- Thôi bác về đi!... Này dạo này hàng ế ẩm cũng liệu mà xoay xở nghề gì kiếm thêm cho bác gái khỏi kì kèo…
Lão cười, giơ roi khẽ quất cho con ngựa bước mau đi, mặc cho bác Phúc ngẩn ngơ nhìn theo. Bác lững thững trở về, ra chiều nghĩ ngợi. Về đến nhà, cửa vẫn còn đóng tất cả, bác đẩy cánh cửa liếp nhà ngang, đi lên nhà trên, cởi cái áo cánh nái ra treo lên cột, mặc cái áo vải nâu vào, rồi đi ra mở rộng cửa nhà trên. Gọi chẳng thấy ai thưa, bác chạy thẳng xuống bếp, vừa láo quáo:
- Đi đâu cả rồi? Đóng cửa để đi chơi à?
Vào đến bếp, thấy vợ bế đứa con nhỏ đang ngồi đun lom dom ấm nước, có vẻ đang giận dỗi, bác cố dịu dàng pha trò:
- Ngồi chầu vua đấy à? Sao hỏi không nói? Nhà cửa cứ đóng im ỉm như nhà không có người ấy! Cái Hiền đâu?
- Mở cửa mà đón bụi à? Bác gái nói chì chiết. Đi biền biệt cả ngày ấy, chả nhìn đến nhà. Làm mõ một nhà không chán, lại muốn làm mõ cả hàng tỉnh, hàng huyện à?
Bác vớ lấy cái chổi cọ buộc lạt lại đang định quét qua cái sân con trước cửa bếp, giáp mặt hồ, thấy vợ nói thế, đứng sững lại, nhìn vợ trừng trừng, cố nén giận dịu dàng hỏi:
- Bu mày hôm nay làm sao thế? À cụ Bá vừa xui bẩy chứ gì?
Bác gái vẫn thản nhiên ngồi chụm hai bàn chân vào nhau, tòe thêm hai đầu gối, hai tay bế giở chiều lại cho đứa bé, đặt gọn vào lòng, rồi kéo lại mép gấu váy trùm kín lên đầu gối, vẫn nói giọng gay gắt:
- Cụ ấy chả hơi đâu cụ ấy xui. Cụ ấy chỉ bảo quan trên đã cấm mà cứ đi nghe dại theo cánh đồng môn, thì rồi đầu chẳng phải, phải tai! Môn với chả khoai! Có cỗ bàn thì đến mà hầu đã đành. Nay công việc đấm đá ở những đâu đâu ấy, cứ na mô hớt, nhong nhong chạy như chó dái. Ai người ta coi anh ra gì mà cũng ghé đầu chịu báng?
Thấy vợ nói cũng có phần nào đúng, nhưng nghĩ lại quan Nghè trước vẫn yêu thương mình, và hiện nay quan Đốc và các ông Cử, ông Mền ở gần đây đều coi mình ngang hàng, bác nhận ra rằng bị vợ cằn nhằn cũng chính là tại mình ít chữ mà thôi, bác cũng thấy cam phận, mắng gạt vợ đi:
- Này câm cái mồm đi! Đừng có mà nói láo! Mỗi người một việc chứ, mình vô học ít chữ thì phải làm nặng nhọc chứ ai bắt. Còn công việc bây giờ là việc chung, ai cũng phải góp sức vào, nếu ai cũng nghĩ như bu mày, thì rồi Tây nó đến nó đốt nhà nó bắt bu mày và con Hiền đi thì trơ mắt ra mà nhìn à? Nó đánh quan Đốc được, nó giết ông lý Kim Liên được, thì dễ nó lép nó không đến nó bắt đàn bà con gái? Và hàng họ vắng thế cũng cứ ngồi ở nhà khoanh tay mà nhìn à?
- Vắng! Ế! Thì phải nghĩ cách nào kiếm gạo mà nuôi vợ con chứ, bác gái bế con đứng dậy, vùng vằng đi ra sân.
Bác Phúc không nói gì nữa, quẳng chổi tựa vào hè, lẳng lặng đi lên nhà trên, vừa tự nghĩ:
- Ra nó lo con nó đói. Đàn bà chỉ biết nhìn nông như cái đĩa đèn!
Không vào nhà, bác đẩy cửa buồng xép bước vào, chợt thấy con gái nằm quặp hai tay lên gáy úp mặt vào phía cái hòm gian, bác phát mạnh đánh đét vào lưng, gầm rít lên:
- Con chết tiệt này mày nằm lỳ đây à? Ngủ ăn hay ngủ bán?
Cô Hiền giật mình ngồi nhỏm dậy, bác giơ thẳng tay toan tát cái nữa, chợt thấy hai mắt con gái đỏ hoe khóc đã lâu, bác ngừng lại ngay và hỏi gắt:
- Thằng Hiển đâu?
- Bu đánh nó chạy đâu ấy? Cô gái nắn lại vành khăn trả lời.
- Bố mày chết hay sao mày khóc? Bác hỏi rít lên.
Thấy con gái gục đầu xuống, khoanh tay trên đầu gối, khóc nức nở thành tiếng, trái với tính nết con vốn ít giận, ít khóc, bác dịu giọng hỏi ôn tồn:
- Sao? Lại bu mày đánh phải? Con gái cãi lại mẹ chứ gì?
- Con có dám cãi đâu? Cô gái nức nở sụt sùi đáp. Bu cứ chửi lấy được.
- Con lại không nghe lời mẹ con bảo chứ gì? Bác trấn tĩnh trở lại, hiền từ âu yếm hỏi. Con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư!
- Nhưng bu con sai những việc mà con không thể nào theo được.
Thấy là lạ, bác Phúc cố gạn hỏi thêm. Cô Hiền ngồi ngay ngắn bỏ chân xuống đất, lau sạch nước mắt, nói ấp úng:
- Bu con sai đi các làng mua gà, trứng và hoa quả về bán cho Khách…
- Thế thì sao lại không đi? Bác hỏi hơi có ý trách.
Cô im bặt, ngẩn người ra, hơi lấy làm lạ, vừa lúc bà mẹ ở dưới bếp đi lên, bế con đi ngoài hiên nói láo quáo:
- Mở toang cửa ra thế này mà không ai trông hàng à?
Nhìn vào trong buồng thấy chồng và con như đang bàn tán gì về mình, bác gái điên tiết, xỉa xói vào con gái và bảo chồng:
- Ông có dạy con ông không? Ông xem con ông quý quyền lắm. Tôi không bảo được nó đấy. Nó cứ cãi nha nhả, nó không chịu đi…
Bác quay ra ôn tồn bảo vợ:
- Thì con nó có dại chưa nghe ra, bu mày hãy cứ khuyên bảo rành rọt, tức khắc nó sẽ hiểu. Việc gì cứ chửi lấp liếm trước, làm cho nó mụ đi rồi lại đi gây sự với cả tôi!
- Ối dào! Mụ! Con ông có cái mụ, nó cãi, nó nói cho chảy máu mắt ra ấy. Ông tưởng nó vừa đấy!
Bác Hai quay sang trách con nghiêm nghị:
- Sao hư thế con? Nhà mình là nhà hàng, phải có món ăn, có thức này, thức nọ bán cho khách chứ. Khách người ta vào hàng, người ta ngủ trọ lại, người ta cần đến cái gì là phải sẵn có cho người ta thì người ta mới nhớ đến nhà hàng chứ. Thế nào là bán hàng chiều khách. Bố bận đi vắng, thì ở nhà mẹ bảo con phải nghe.
Thấy bố hiểu nhầm về câu nói lúc nãy mình nói chưa rõ, cô Hiền mừng quá, vội phân trần:
- Thầy nghe chưa hết câu, khách là các chú Khách Hàng Buồm chứ không phải khách vào hàng ta.
Bác Phúc chợt hiểu, mới kịp “À” một tiếng, bác gái đã nói át:
- Đấy ông xem đấy! Bán cho khách Hàng Buồm thì đã sao? Xưa nay dễ thường nhà này không bao giờ chơi với Khách đấy? Chú Sìn vẫn lại đây, và thầy mày cũng hay thì thụt lại đằng nhà chú ấy. Tôi đã bảo nó mãi rằng thầy mày bận rộn, hay chạy loăng quăng, hàng nhà lại ế ẩm, thì cũng nên buôn bán kiếm thêm ít lời nuôi nhau qua cái cơn tao loạn này. Mà nào nó có nghe, nó cứ cậy trứng khôn hơn rận. Hàng cứ khuân về đây rồi có người đến lấy, ai biết đấy vào đâu.
Cô Hiền không nhịn được cũng nói:
- Dễ bu tưởng người ta không biết cả đấy?
- Có phải chỉ vì thế mà hai mẹ con giận dỗi nhau rồi giận lây sang cả đến tôi? Bác Phúc hỏi một câu hình như thừa.
Bác cũng nghĩ như thế, nên bác quay sang hỏi riêng con gái:
- Tại sao con lại không muốn đem hàng bán cho Khách trú?
- Có phải đem đến nơi đâu. Người ta tới đây người ta lấy cơ mà! Bác gái nói rõ thêm.
- Đem đến nơi hay đến đây lấy, thì cũng đều là bán hàng cho các chú Khách cả, bác Phúc nói và đưa mắt giục con gái trả lời câu hỏi vừa nêu ra.
Cô Hiền vẫn khăng khăng một ý kiến đã cãi với mẹ từ trước:
- Con nghĩ rằng bán hàng cho Khách như thế lúc này là đem hàng bán cho Tây, đem lương thực đến cho Tây. Mà mọi người đang nhất quyết không đem một hạt thóc, một miếng thịt bán cho Tây, và quan trên đã có lệnh cấm, thì rõ ràng là phạm tội và có lỗi với dân, với nước.
- Được, cũng có lý!
Bác Phúc gật đầu khen và quay sang hỏi vợ:
- Thế còn bu mày bảo có người đến đây lấy hàng đi thì ai đến? Người ta hay người Ngô?
- Người ta. Có người đàng hoàng đến đây lấy hàng đem đi, bà vợ trả lời một cách trôi chảy.
- Cũng được! Bác giai nói và hỏi thêm: Vậy thì ai mách mối cho bu mày? Hay là bu mày tự tìm đến bọn Khách để nài bán? Bu mày sợ các con đói chứ gì? Sợ con đói mà phải đi lạy lục như thế, tôi thấy xấu hổ…
Bị kích vào trúng lòng tự ái, bác gái thanh minh và như có vẻ khoe khoang với chồng:
- Tôi thèm đi lạy ai! Thím Hằng Dụ thím ấy thấy hàng ế ẩm và thầy mày lại mải công việc đâu đâu, nên thím ấy nghĩ ái ngại cho mình, thím ấy mới bảo tôi cho cái Hiền đi mua hàng về đây, rồi thím ấy thân hành đến lấy.
- Tử tế nhỉ? Bác Hai nói hơi mỉa mai. Bà không tỉ tê ngồi lê nói mách dễ thường tự dưng thím ấy đến đây thím ấy mời bà đấy nhỉ?
- Chứ lại không à? Bác gái nói như đắc ý. Chỗ chị em cùng làng, chơi với nhau từ lúc để trái đào, rồi cô ấy đi lấy chồng Khách giàu sang cách bực, tôi cũng có thèm chơi với cô ấy đâu. Bây giờ gặp lúc khó khăn, không mua được thức ăn, cô ấy mới tự hạ đến chơi lân la nói đến chuyện ấy. Họ lạy van mình làm phúc mua giúp họ.
Chợt nhớ ra vợ lẽ bang trưởng Huỳnh Lục Ký là người thôn Phụ Khánh, tổng Thanh Nhàn cùng làng với vợ mình, bác Hai lại “À” một tiếng và nói:
- Nhưng mà bà có biết không, nó mua nhiều thế là nó mua cho Tây đấy, nó không nhờ vào ai được, nó mới phải tìm đến bà, chứ có tử tế gì. Lợi nó ăn mà tội mình chịu. Vả lại, vợ chồng nó cốt đem lợi dử bà để hòng kéo dụ dỗ tôi làm trung gian giúp đỡ bọn Tây.
Ngừng một lát. Bác lại nói nghiêm nghị hơn:
- Không được! Con Hiền nó không nghe bu mày là đúng. Ai lại chồng thì căm ghét bọn Tây ăn cướp ấy, đang cùng với bà con một lòng mưu toan đuổi bọn ấy đi cho rảnh mắt, thì vợ còn lại đi mua hàng giúp cho bọn ấy sống mãi ở đây thì còn ra cái thể thống gì nữa! Người ta phỉ nhổ vào mặt ấy chứ!
- Ối dào! Đuổi! Sao các quan có quân lính đầy rẫy đấy lại không đuổi nó đi, mà lại cần cái ngữ thầy mày! Cái đồ ô hợp bách tính ấy thì làm nên trò gì! Đây người ta cần ăn, người ta nhờ mình, mình không giúp thì cũng có người khác giúp, thiên hạ thiếu gì người, ai biết đấy vào đâu!
- Biết! Có lòng mình biết chứ! Bác Hai gắt! Sao cho khỏi thẹn với lương tâm, khỏi hối hận, cho các con nó khỏi xấu hổ vì mình. Bu mày thử kể xem những ai lén lút đi lại giúp Tây nào? Kể cả các chú Khách? Hay là chỉ có mấy hiệu buôn lớn và bây giờ thêm bu mày!
Bác gái thấy đuối lý, phát khùng:
- Thôi bố con nhà ông phải cả. Cứ sạch lòng mà chạy nhong nhóng suốt ngày, rồi rã họng ra mới biết thân!
Bác bế con vùng vằng đi nguẩy trở xuống, vừa lẩm bẩm:
- Nước này mẹ con bế nhau đi đâu thì đi, chứ cứ ở đây có ngày họ bỏ mặc cho chết đói!
Bác Phúc ngồi thừ ra một lúc, bác nghĩ không nên để mối bất hòa trong gia đình trong lúc đang khốn quẫn, chợt nghĩ ra một cách, bác quay sang bảo con gái:
- Con ạ! Con xuống nói với bu, đưa tiền cho con đi mua, bảo là thầy đã bằng lòng, rồi tao sẽ mặc cả với bu mày sau.
- Sao? Thầy cũng… à? Cô Hiền ngập ngừng hỏi, đôi mắt long lanh nhìn bố.
Bác ngồi nhích lại gần con nói nhỏ giảng giải:
- Không phải! Tao hiện nhận đứng mua sắm thức ăn cho đồng môn và tư văn ăn tập. Nhân tiện để cho bu con bớt giận, yên tâm, rồi sẽ nhận ra sau, ta cứ đi mua hàng về đây đã, rồi khi giao, ta không giao cho thím Khách mà giao cho đồng môn. Con chỉ việc đi mua, còn giao, để mặc tao, tao đã có cách…
- Nhưng sau vỡ chuyện, sai hẹn với thím Khách, bu con lại tức tối hơn – Cô con gái nói thong thả, có vẻ đắn đo – Bu con lại làm toáng lên thì lại càng tội.
- Được. Phải khéo chứ! Bác Hai nói quả quyết. Không những bà ấy sẽ không giận, mà còn có thể làm cho bà ấy đỡ nông nổi, nhẹ dạ cả tin nữa. Con cứ xuống đi, xuống nói với bu trước, rồi thầy xuống đấy.
Cô Hiền còn chần chừ. Bác Hai giục:
- Đằng nào cũng phải đi mua kia mà. Con đi ngay, đi mau lên! Vui vẻ lên một tí, đừng để bu con buồn…
Cô Hiền đứng dậy đi xuống bếp. Bác Phúc ra nhà ngoài quét phẩy giường chiếu cho sạch, rồi nghe thấy con giai đang nô đùa ở bên cổng chùa, vội chạy ra chỗ tháp Hòa Phong gọi về trông hàng. Đoạn bác ung dung trở vào đi xuống bếp. Thấy hai mẹ con còn đang có vẻ bàn tính, người nào nét mặt cũng tươi vui, bác vững tâm đi vào ngồi xuống ngưỡng cửa bếp, với cái chổi cọ quẳng lúc nãy, buộc lại nút lạt và hỏi:
- Thế nào hai mẹ con đã thỏa thuận với nhau xong chưa?
Bác gái hỏi ngay:
- Thế ông bằng lòng cho con nó đi mua hàng chứ?
- Không bằng lòng lại bảo nó xuống làm lành với bà, bác giai cười đáp. Tôi sợ chỗ người lớn với nhau, bà sai hẹn với người ta, mang tiếng chết, nên tôi bảo con nó nhận đi mua hộ vài chuyến thôi.
Ngừng lại một lát, nhìn cả hai mẹ con như có ý dò hỏi, bác nói tiếp:
- Nhưng tôi giao hẹn trước thế này nhé! Có bằng lòng thì hãy đi mua, không thì thôi: Hàng mua về đây, nhưng không giao ở đây, sẽ giao