Chương IV
Tiết giời cuối hè, sắp sang thu, mà còn nóng nực lắm. Giá như mọi khi, vào lúc buổi chiều nóng bức này, nơi bờ hồ thoáng mát đã đông người ra chơi hóng mát, có cả những con thuyền nhỏ bập bồng trôi lượn. Nhưng độ này ở đây vắng hẳn. Vì hai cái trường đại tập ở hai đầu hồ đều nghỉ hẳn, tuy đã gần đến kỳ thi hương – năm nay là khoa Quý Dậu, khoa thi thường lệ – trường Kim Cổ của ông cử Ngô Văn Dạng đã cùng với học trò đem nhau đi luyện tập võ nghệ ở đâu mãi vùng quê xa. Còn trường Vũ Thạch, ở ngay phố Hàng Khay bên hồ, cũng vắng tiếng bình văn đã gần đến một tuần. Trước đây, bọn học trò dùi mài kinh sử để chờ ngày vào thi, thể nào cũng phải la cà ở những đình chùa, ngồi mát ở ven hồ và ra vào hàng quán của bác Hai Phúc. Nay vắng họ, ven hồ thấy như thiếu mất một cái gì thân mật, vui vui. Nhưng cảnh hồ bỗng thành ra hoang vắng hơn nữa. Lại còn do từ mấy hôm nay, nơi Hà Thành đô hội này đã hóa ra có hai khu cách bức hẳn nhau: các phố Hàng Buồm, Hàng Ngang, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, ra đến ô Đông Hà, ô Ưu Nghĩa có Khách trú đã ở biệt lập thành như một xóm làng ngoại quốc, người Nam không muốn, không thèm vào và có người không muốn lai vãng đến đấy. Bọn lính Khách đông thêm, nhan nhản khắp phố, canh giữ các ngả. Những chú Khách nghèo, buôn bán vặt hay làm công việc nặng nhọc, tuy nghề nghiệp bắt buộc phải đi xa, cũng không dám ra khỏi nơi mình trú ngụ. Phố xá vắng vẻ. Đã thành ra hai khu vực cách biệt, tự nhiên dân Nam càng không bén mảng đến miền Tây Tàu hỗn loạn ấy làm gì, và không bán bất cứ thứ hàng gì đem vào đây nữa. Sự đi lại giao thông hình như không còn nữa. Bờ hồ lại càng hoang vắng. Dân Khách và lính Khách trước kia còn thỉnh thoảng xuống thăm hồ hóng mát, thì nay không còn dám lảng vảng đến nữa. Giữa hai cảnh cách biệt ấy, tự nhiên nẩy ra một nơi địa đầu hút được nhiều người. Đó là hiệu phở Dụ Hưng Lâu ở đầu chợ Hàng Bè. Chú Sìn chủ hiệu đã ở đây lâu năm, buôn bán thật thà, lại hay giúp đỡ người nghèo, được cảm tình của bà con Việt Nam, nên vẫn mua được một số gà, vịt, thịt lợn đủ bán cho khách ăn. Các hàng cao lâu ở trong phố khan món ăn, một số lính Vân Nam và khách buôn cũng kéo ra hiệu Ả Sìn ăn uống. Do đấy hàng đông khách, các món ăn bán chạy, Ả Sìn phải nhờ bác Phúc giúp đỡ thêm vào, chạy mua các thứ rau, quả, gà, vịt, thịt. Anh em ở văn hội đang cần biết nhiều tin tức trong khu vực bọn Tây, Tàu, đã nhờ bác cố tìm cách đi lại trong phố bắt liên lạc với nhiều bà con Khách nghèo trong ấy, bác và con gái được phép thêm hàng vào cho những gánh phở, cháo và quà bánh của các chú Khách bán rong. Ban ngày, bác phục dịch bán hàng giúp chú Sìn, tối đến, bác thường cùng Ả Chí, người bạn mới quen ở hiệu phở Dụ Hưng đi bán phở ở đình Trâu Khê, lân la hỏi chuyện những chú Khách ra ăn hàng, cứ đến khuya mới về, sáng hôm sau lại có người đến hỏi tin tức sớm. Cửa hàng của bác vẫn phải mở cầm chừng để làm nơi liên lạc khách các nơi đi đến, khách ít, do bác gái trông nom cũng đủ. Cuộc sống mới bất bình thường như thế đã được đến bốn năm ngày, giữa tiết giời hè oi ả này. Nhưng mải mê với công việc, lúc thì xoay trần thái thịt bên bếp lửa hồng nhà chú Sìn, khi thì hối hả rảo bước trong phố đông, bác không thấy oi bức là gì, thế mà chiều hôm nay, bác nghỉ ở nhà trong cửa hàng rộng thoáng, mát mẻ thế này, mà thấy bồn chồn, bức bối, bác cởi trần, cứ ra ra vào vào, xuống bếp lại lên nhà, tay luôn luôn phe phẩy cái quạt mo cắt hình trái đào. Bác đang đợi một người mà ông cử Kim Cổ đã hẹn hôm qua là cho về đón bác ra họp đồng môn ở ngoài kia. Bác nghĩ bụng tất có việc gì lớn đây, mới cho tìm mình ra, nên bác càng nóng lòng trông ngóng. Bác chạy hẳn ra đứng dưới tháp Hòa Phong hóng mát, nhìn bóng mặt giời đã khuất dưới lũy tre làng Phục Cổ, bác lẩm bẩm:
- Thế này thì lại họp đêm chắc… Bỗng có tiếng gọi ở đầu hè:
- Ông chủ ơi!
Bác quay lại reo lên:
- A! Ông ấm! Sao lâu lắm mới lại ra chơi?
Bác chạy vào đến nơi, người khách vẫn đứng ở đầu hè nói:
- Tôi đến tìm bác đây.
Khi hai người cùng bước vào nhà, khách nói:
- Bác mặc áo rồi ta đi. Còn mấy việc nữa. Bác Phúc chạy vào lấy cái áo cánh nái năm thân treo ở trên cột mặc vào, chạy xuống nhà dặn vợ, rồi tạt vào buồng lấy cái nón dứa chóp bạc và cái quạt giấy dài hơn một thước đi ra. Ông khách đã giục:
- Nào ta đi!
- Xin mời ông anh xơi nước đã! Bác cầm bình tích rót nước.
- Thôi đi kẻo muộn, các cụ đợi. Ông khách nói và bước ra hè. Ra đến đường, ông bạn vừa đi vừa hỏi:
- Hàng họ thế nào? Nghe đâu suýt nữa ông bà bất hòa to?
- Ấy, cũng thường hay nghĩ quẩn, bác cười vui vẻ đáp, đàn bà họ hay lo. Nhưng bây giờ mụ ta biết ra rồi. Vả có việc mua bán cho chú Sìn, mụ ta vừa đỡ lo và mới nhận ra, không hám lợi như lúc đâm bổ vào với thím Hằng Dụ.
- Bác khéo đấy! Ông khách khen, chứ giận vợ hờn làng thì hỏng bét. Vừa đi hết phố Hàng Khay đến đầu Vũ Thạch, ông khách nói:
- Vào đây đã!
Đây là trường học của cụ cử Vũ Thạch Nguyễn Huy Đức. Cụ Cử thuộc vào lớp đàn anh, đỗ từ đầu triều Tự Đức, không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học, nhưng cũng chỉ biết chăm dạy học và không bao giờ bàn đến thời thế cả. Lần này, học trò nghỉ đi theo đội Nghĩa sỹ cả, ông ở lại một mình cũng buồn, có nói với văn hội cho ông được góp của và được biết tin tức luyện tập và dự định của anh em. Cho nên, mỗi lần có người về, ông cử Kim Cổ đều bảo đến thăm ông bạn mũ ni che tai ấy, như ông vẫn nói.
Qua cái cổng gỗ, vào cái sân gạch, bước lên cái nhà học năm gian thượng thực hạ hư, rộng thênh thang vắng bóng người chống chếnh, bác Phúc bỗng nói:
- Sắp đến ngày thi rồi mà trường học vắng thế này, chỉ tại tổ sư thằng Tây… Mấy tháng nay, đến gần nửa năm ấy nhỉ, ông ấm chắc mải học thi nên không thấy ra chơi!
Bác nói thêm để hỏi trêu ông khách. Ông này đáp:
- Ấm Vẽ có bao giờ học thi. Các cụ vẫn mắng thế mà lại.
Nghe tiếng người nói láo quáo, một cậu bé chạy ra nói:
- Mời các ông đi sang bên này, ông cháu đợi ở nhà trong.
Cậu bé đi trước dẫn lối quành ra đầu nhà, qua cái vườn cau vào đến cái nhà nhỏ ba gian liền với bếp. Một ông cụ mới vào khoảng trung thọ, tóc đã bạc, đã đứng đợi ở cửa.
- Chào thầy ạ!
- Bẩm thầy ạ!
Hai người cùng chào. Ông cụ đáp lại và hỏi luôn:
- Ở lại chơi hay đi ngay?
- Bẩm phải đi ngay ạ!
Ông cụ dẫn hai người bước vào nhà và nói:
- Thì hẵng ngồi chơi đấy đã!
Rồi ông đi biến vào trong cái buồng con, một lúc sau, ông cầm ra một hũ sành con để lên giường, ông ngồi xuống, ghé sát vào hai người nói nhỏ:
- Nhờ hai bác đem hộ cái lọ này cho bác Cử và bác Mền, rượu thuốc của tôi đấy. Còn rượu khao anh em, tôi gửi nén bạc này ra mua ở ngoài ấy, ở đây tôi không đủ.
Ông giở miếng vải gói nén bạc ra cho ông ấm Vẽ xem rồi lại gói lại cẩn thận, giao cho ông ấm, và quay sang dặn riêng bác Phúc:
- Còn trở về nữa chứ? Về nhớ lại đây cho tôi hỏi chuyện nhé. Lúc nãy cậu ấm, cậu ấy chưa kịp vào đến nhà, chỉ gọi đánh ới một cái dặn mấy câu, tôi chưa ra đến nơi cậu ấy đã đi, bây giờ thì lại vội, tôi chả dám giữ.
- Bẩm thưa thầy, quả cháu vội ạ. Ông ấm nói chữa và hỏi thêm. Thưa thầy, có dặn gì nữa không ạ?
Ông cụ ngồi ngay người lên, nhìn ra sân, có vẻ đăm chiêu, vẫn nói nhỏ, thong thả, như đắn đo từng tiếng:
- Quan Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương đã ra tới nơi, xem ra có vẻ quyết liệt hơn, có thể đánh nhau với tụi Tây Tàu, thì anh em liệu cử người lên xin với quan lớn để cùng giúp mà đánh thì hơn. Nếu không họ sẽ vin vào cớ trái lệnh mà trị mình thì không lợi đâu. Bọn Tây nó đứng ngoài nó cười cho đấy!
Ông ấm Vẽ đứng lên nói:
- Vâng! Thầy dặn, cháu sẽ xin thưa lại với các bác ngoài ấy. Anh em có dám làm trái lệnh triều đình đâu. Vạn bất dắc dĩ cả.
Bác Phúc cũng đứng lên theo, ông Cử cũng đứng lên, ân cần bảo:
- Nhớ có về qua đây cố vào bảo cho lão biết chuyện nhé!
- Vâng, thể nào cháu về cháu cũng xin vào hầu thầy.
Hai người chào từ biệt ông Cử. Ra đến ngoài, ông ấm Vẽ bảo bác Phúc:
- Ông lão chân thành lắm đấy. Xưa nay ông vốn không muốn phiền lụy đến thân, không bao giờ đả động đến thời thế, không hề cùng ai bàn bạc đến việc ngoài đời, ấy thế mà ông góp của gửi quà thế này là quý hóa lắm, tin yêu lắm kia đấy.
Bác Hai cũng thêm:
- Thế mới là chính nhân quân tử, ông nghiêm mà thẳng, không ai mua chuộc được, nên ông theo về ta, càng thêm thanh thế.
Hai người đi vội, qua Văn Miếu, qua tổng Minh Giám tắt ra cửa ô Chợ Dừa vào đình làng Thịnh Hào. Ngôi đình này thờ Bố cái Đại Vương Phùng Hưng, một vị đế vương anh hùng dân tộc đã đánh đuổi được bọn quan đô hộ nhà Đường, các triều đại đều có tu sửa và liệt vào hạng các đình có lệ quốc tế, hằng năm tỉnh sở tại phải cử đến tế.
Các vị chỉ huy quân đội nghĩa sỹ chọn ngôi đình này làm nơi hội họp cũng nhằm đem gương anh dũng của tiên nhân để gây thêm lòng quyết chiến đuổi giặc ở đoàn quân nghĩa khái này. Hai ông chánh phó đội trưởng, ông cử Kim Cổ và ông mền Kim Liên và một số các vị đầu xã, đầu nhóm đã có mặt ở đấy. Ông ấm Vẽ và bác Phúc ra đến nơi vào đình thì giời đã tối. Trong đình đã thắp đèn sáng. Mọi người đều ngóng chờ hai người ở trong phố ra. Ông ấm bưng lọ rượu và nén bạc đệ lên chỗ ông cử Kim Cổ ngồi và nói lại những lời ông cử Vũ Thạch nhắn ra. Ông cử Kim Cổ mở nút lọ, mùi rượu bốc lên thơm thoang thoảng, ông đóng nút lại và nói:
- Các hiền hữu đã đến đông đủ cả, tôi xin các hiền hữu bắt đầu bàn việc. Bác cử Vũ Thạch có gửi biếu chúng ta một hũ rượu thuốc và một nén bạc để góp vào việc khao quân. Tôi xin đi mượn chén của đức Bố cái Đại Vương để các anh em ta cùng uống thứ rượu quý để mừng cái buổi họp quan trọng này.
Nói rồi, ông đứng lên đi vào bên trong hương án, mở những nắp đài rượu và đài nước, nhặt hết mọi chén uống rượu và uống nước đem ra, sai ông mền Kim Liên rót rượu vào, lần lượt đưa cho từng vị nhiều tuổi trước. Rồi ông lại ngồi lên giường xếp bằng nghiêm chỉnh, nói dõng dạc, từ tốn:
- Cũng là một điềm tốt, tự nhiên buổi họp này lại có được thứ rượu quý này, vậy chén ít, xin anh em vui lòng uống lần lượt kẻ trước người sau, cho thêm phần phấn khích. Cuộc họp này, chúng ta xét số quân của chúng ta và bàn cách xuất quân và tiến công cho hết lý. Trước hết tôi xin báo rõ số quân của ta, rồi bác Mền nói rõ tin tức của các quan chức bên ta đối phó với địch và đối xử với đạo quân của ta như thế nào. Sau cùng bác Hai Phúc sẽ nói cho ta biết tình hình bọn Tây bọn Khách ở trong phố hiện nay ra sao. Rồi cứ theo những điều đã được trình bày ấy, các hiền hữu sẽ bàn xem chúng ta nên làm thế nào cho thật có lợi… Nào mời các hiền hữu uống dần đi để lấy chén cho người khác.
Ông nâng một chén rượu lên mời mọi người, tự uống một ngụm to, nuốt nhắp nhắp, rồi đứng lên trình bày một cách khúc triết.
- Đạo quân của chúng ta hiện có hai trăm bốn mươi hai người, nguyên chính người trong Văn hội Thọ Xương và môn sinh ở các trường lớn, các văn hữu ở Thanh Trì, Hoài Đức cũng tham dự vào, tất cả là một trăm năm mươi người, còn chín mươi hai người là những thanh niên phường phố và nông thôn tự ý bỏ nhà tình nguyện xin vào tham dự với chúng ta. Ngoài ra còn một số nông dân ở những làng chúng ta đến đóng để tập luyện, cũng xin tự sắm khí giới và lương thực để được đi theo chúng ta. Trong số quân hiện có ấy, chúng tôi chỉ lấy hai trăm người cho luyện tập hẳn hoi, cho được sử dụng đủ mọi thứ vũ khí và vũ thuật. Còn bốn mươi người chỉ cho tập về đêm thôi, còn ban ngày cho đi quyên tiền, thu tiền, đi mua sắm khí giới, đi liên lạc, đi tìm cách tiếp tế, đi xem xét tình hình. Khí giới hiện ta chỉ có đao, gươm, đòng và dao mã tấu, hỏa mù, ống lửa, cung, nỏ. Ta chưa có cách nào sắm được súng. Lương thực thu của anh em hiện có đủ số ăn tập trong vòng một tháng. Ta sẽ thu thêm và đi quyên. Về chia phiên, chúng tôi tạm chia làm hai đội, mỗi đội một trăm người, hai người chánh phó chúng tôi, mỗi người trông coi một đội, mỗi đội có mười thập trưởng do các nhóm trưởng đảm nhiệm. Hôm nay họp mặt ở đây gần đủ các thập trưởng, chúng ta xét rõ mọi mặt của tình thế, mọi cách đối phó hoành hành của bọn giặc mà tìm ra mọi việc cần làm, phải làm lúc này.
Ông ngừng quay sang bảo ông mền Kim Liên:
- Bác Mền nói về mặt giao thiệp với bên ngoài.
Ông Mền mở cái tráp lấy ra một quyển sổ mở ra giơ cho mọi người xem và nói trịnh trọng một mạch:
- Toàn dân vui mừng giúp đỡ nghĩa cử của chúng ta. Nhận của ai một tí gì chúng tôi đều có ghi sổ lại rõ ràng, tài thượng phân minh. Nhiều người đến tận nơi xin giúp công giúp của, nhưng hiện nay, chúng tôi hẵng tạm không dám nhận nữa, phải nói khéo họ mới chịu nghe. Còn đối với các quan tỉnh, tôi có lên dò hỏi ý quan Đốc. Ngài cũng thấy việc chúng ta làm là nghĩa cử, nhưng nếu đường đường đem quân ra mà đánh bọn Tây thì không được, quan trên không cho phép, mà xin theo quân triều đình đi đánh giặc, thì các quan đang dẹp loạn ở Ứng Hòa, ở đạo Mỹ Đức, triều đình đang điều quân tiễu phỉ ở mạn Tuyên Thái, Cao Lạng, tất nhiên họ sẽ cử chúng ta đi những nơi ấy. Tôi có nói là chúng tôi họp nhau đi đánh Tây mới cùng có một lòng dũng cảm giết giặc, chứ đi đánh người mình ở đâu đâu, thì ai người ta theo chúng tôi làm gì, người ta có thể quay giáo người ta giết chúng tôi ấy chứ. Quan Đốc có bảo chúng ta nên kín đáo, nếu để lộ hình tích, tụi Tây nó vin vào đấy buộc các quan ta nhận là phỉ đem trị tội thì nguy đấy.
- Thế còn quan Huấn thế nào? Đã được tha chưa? Có người hỏi.
- Trường Yên Ninh cũng như các trường khác đều nghỉ cả. Ông Mền nói tiếp, còn quan Huấn phải vào làm việc trong dinh cụ Thượng. Về phía quan ta, cụ lớn Thái tử Thiếu bảo Nguyễn Tri Phương được cử ra làm Đổng sát quân vụ đại thần kiêm Kinh lược Bắc kỳ thay quan Khâm sai Thị sự Lê Tuấn. Ra đến nơi ngài đã điều bổ quan Đề đốc cũ đi, thăng quan huyện Đào Trọng Kỳ đi Tri phủ và cử quan huyện mới về. Ngài thông sức cho tỉnh, phủ, huyện chuẩn bị mọi thứ phòng đánh nhau với Tây, ngài không cho quan đi lại thương thuyết với bọn Tây nữa.
- Phải như thế chứ, có người nói xen vào, nó đến đây nó muốn gì, nó phải vào mình, ai lại đường đường phương diện quốc gia lại cứ phải dẫn thân đến thì thụt ra vào cái hội quán Hàng Buồm của mấy chú chiệc.
- Này nghe nói cụ lớn Nguyễn Tri Phương đã đánh nhau với Tây ở Gia Định, một người nữa nói, ta đánh Tây tất cụ sẽ giúp thêm.
- Cái đó ta sẽ bàn. Ông Mền giơ tay ra hiệu mọi người im và nói tiếp. Tụi Tây có đưa thêm nhiều lính Vân Nam và cả Quảng Đông về, đóng ở Hàng Buồm và cửa ô Đông Hà. Lại được thêm tin có phái viên của Súy phủ Phú ở Sài Gòn ra thương lượng… Bác Phúc sẽ nói thêm chi tiết.
Ông Cử với lấy lọ rượu lắc lắc giơ lên và nói:
- Rượu còn đây, anh em chia nhau uống nốt đi cho thêm phấn chấn. Nào bác Phúc cho chúng tôi biết thêm chuyện về Tây Khách.
Bác Phúc ngồi ở đầu sàn ngoài cùng, ngay cửa vào, bác bước hẳn xuống đất đứng ngay ngắn lên để nói cho mọi người nghe rõ:
- Thưa các vị, tôi được ở lại trong phố vào làm cho hiệu chú Sìn, đi lại được phố Hàng Buồm, tôi thấy như thế này. Năm cái tàu của Tây vẫn đóng ở ngoài sông, bây giờ có thêm nhiều thuyền ván. Ở trong phố, lão Tri phủ Lý Ngọc Trì vẫn ở nhà hội quán, thêm lão quan võ Lý Dương Tài đem xuống độ hai trăm lính Vân Nam đóng ở đấy và quanh phố Hàng Buồm. Một tuần nay lại có thêm một toán lính mới đóng ở ô Quan Chưởng, quanh kho hàng của tên Đồ Phổ Nghĩa, có cờ hiệu đề mấy chữ “Tổng binh Trần Vân Quý”, bọn này người Quảng Đông cả, nghe nói đâu những ba trăm vừa ở dưới thuyền, vừa ở trên bộ. Có mấy đứa hay ra ăn quà ở hàng chú Sìn, tôi hỏi nó bảo là ở Thái Nguyên chuyển xuống đây, là quân của Phùng Đề đốc cho xuống bảo vệ Hoa Kiều…
- Nó nói láo đấy, Phùng Đề đốc về nước tám hoánh rồi, còn ở đây đâu. Ông cử Hoàng Mai nói.
- Có nó xuống đánh thuê cho Tây, chứ ai mượn. Người nữa tiếp.
Ông cử Kim Cổ phải giơ tay gạt đi:
- Để im nghe hết đã nào.
- … Như vậy là số quân của chúng nó cả cũ mới lên hơn sáu trăm tên, bác Phúc nói tiếp càng về sau càng lưu loát trôi chảy. Thế mà lương thực nó không thiếu, vì nó cho thuyền đi mua sắm ở các nơi, do dân đi đạo ở Hưng Yên, ở Thường Tín, ở Kẻ Tâng, Kẻ Sở mua đem lên đi như dân thường ta đi lại, chẳng ai biết đấy vào đâu. Tôi thấy Ả Chí ở nhà chú Sìn nói nó có một lão vẫn thường đến nhà bang trưởng Huỳnh Lục Ký. Tôi đã rình xem, đúng là một lão đi đạo ở dưới thuyền lên, chứ không phải người quanh đấy. Chắc chúng nó bàn gì với nhau đấy. Còn hạng Khách nghèo đều không ưa gì bọn Tây và lính Khách. Họ tức sao các quan An Nam hèn thế, không tống khứ ngay bọn hung đồ ấy đi. Những tờ yết thị của bọn chúng, họ có thèm để ý đâu, hễ không có bọn lính trông thấy, là họ xé đem đun bếp… À, hôm nọ tôi cũng có nhắn ra rồi đấy: Bá Kim có nói bọn Phú ở Sài Gòn đã cử một phái viên ra ngoài này điều đình xin bồi thường mọi thứ và bắt Đồ Phổ Nghĩa về, triều đình cũng cử một quan Khâm mạng sắp ra đến nơi. Lão nhắn anh em chúng ta nếu gây ra sự gì làm hỏng việc, thì sẽ toi mạng. Tôi có hỏi vặn lại, lão đâm bí phát khùng dọa bắt tôi, nhưng tôi không sợ.
Bác ngừng lại như để lấy hơi, ông Cử nói tiếp ngay:
- Thôi, bác nói thế đủ, bây giờ ta bàn ngay đến công việc: Các vị đã nghe rõ mọi tình thế rồi, có ai muốn hỏi thêm gì không?
Trong đình im phăng phắc. Hai ngọn đèn đĩa treo và bốn ngọn đèn đĩa đặt trên cây đèn thờ để thẳng hàng theo dọc sàn đình, đang bập bồng nhảy múa rung rinh làm những bóng người ngồi cứ trập trùng di động trên tường vôi trắng, trên cột sơn son đỏ thắm. Mọi người im lặng suy nghĩ. Ông Cử lại lên tiếng:
- Không ai hỏi gì à? Vậy tôi nêu lên ba việc, chúng ta sẽ bàn lần lượt: Trước hết, các quan không đánh Tây, vì chưa được lệnh, mà đang cần tiễu phỉ. Nếu ta làm trái phép, các quan kết tội là phỉ đem quân đánh bắt chúng ta thì sao? Sợ thì ta không sợ nhưng gà cùng một mẹ đá nhau, không lợi, Tây, Khách ở ngoài chúng nó vỗ tay reo! Hai là bọn địch bây giờ quân số nhiều lên gấp đôi ba lần, lại có đủ khí giới súng ống, vậy chúng ta có dám đương đầu với chúng nó không? Đối địch với nó thì phải làm như thế nào? Ba là chúng ta phải làm thế nào ngăn cản các thuyền đem lương thực đến cho địch? Ta hẵng bàn riêng từng việc một.
Ông cử Hoàng Mai nói trước:
- Hôm nọ, chúng ta đã nhất quyết thấy việc nghĩa là cứ làm, không lẽ hôm nay lại đổi ý. Chỉ có điều là cái bọn quan tỉnh này dát không dám đánh Tây, nên họ mới càng ra công tiễu phỉ. Bố Tổng đốc Bùi Thức Kiên thân đi Ứng Hòa đánh bắt ông đồ Nguyễn Xuân Bảng đem về xử tử lấy công đấy. Lão muốn đem đằng nọ bù đằng kia đấy. Nhưng họ sợ Tây thì tất nhiên họ sợ cả ta. Ta cứ đánh thắng Tây là họ không dám làm gì ta. Miễn là ta phải giữ kín đáo và đừng làm ra vẻ tự ý vượt quyền các quan.
Mọi người đều nhanh chóng nhất trí với ông cử Hoàng Mai không sợ các quan vin quyền chúa tể một phương trừng trị, vì anh em họp lại chống Tây để tự vệ chứ không phải làm giặc chống lại triều đình, nên ai nấy đều thống nhất ý kiến phải cương quyết ngăn chặn bọn Tây Phú hôi tanh để bảo vệ lấy danh giáo, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trăm họ. Nhiều người còn nhắc đến quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương mới ra và một vài sự thuyên chuyển trong quan chức ở Hà Nội để làm mạnh thêm bề thế cho việc nghĩa cử này. Ông cử Ngô Văn Dạng phải nêu lên câu hỏi một lần nữa trước khi chuyển sang việc thứ hai:
- Ta không nói đến cụ lớn Kinh lược có giúp đỡ chúng ta hay không, nếu cụ lớn cũng cấm đoán chúng ta, thì vì việc nghĩa, đội nghĩa sỹ chúng ta cũng cứ nhất quyết cử sự chứ?
Mọi người cùng vang lên một tiếng “nhất quyết” đáp lại rắn chắc như tiếng reo vang nhịp bước của đoàn quân Bố cái Đại Vương tiến lên xiết chặt vòng vây Cao Chính Bình ở trong phủ trị đô hộ. Ông Cử nói:
- Bây giờ bàn đến kế sách tiến đánh. Quân nó nhiều, súng nó mạnh, ta có đánh và có cách nào đánh không?
Mọi người ngồi im lặng suy nghĩ. Đây là một vấn đề nan giải hơn. Quân nó hung hăng, liều lĩnh, súng của nó bắn ra lửa nhanh gọn và mạnh, đạn nổ tan và phá dữ hơn binh khí của triều đình, có lẽ vì thế mà các quan ta sợ, không dám ngăn chặn chúng nó, để chúng nó lấn dần, làm già. Vậy thì một bọn người dân thường chúng ta, chỉ có gậy gộc, giáo mác, liệu có đối địch được với chúng nó không? Một lúc lâu, một anh thợ thêu phố Hàng Quạt, thập trưởng những người thủ công ở phường phố gia nhập đội nghĩa sỹ, lên tiếng nói trước:
- Cái mạnh của tụi nó chỉ là cái mạnh hung hăng bề ngoài, nếu ta nhụt, nó càng làm già. Nhưng xét cho cùng, nó là khách lạ đến, ta là chủ, ta có đủ thời thế và hình. Thời là ta đánh lúc nào cũng được, thế là ta đánh ở chỗ nào cũng được, đất là đất của ta, chỗ nào ta xoay giở công và thủ cũng được; hình là địa hình ta biết hết, nhân dân mọi nhà đều tranh nhau giúp đỡ ta, ta có thể vừa nấp vừa đánh đón đường chặn lối dồn nó vào chỗ bí. Nếu ta quyết tâm lại có các vị chỉ huy khéo bài binh bố trận, tùy cơ ứng biến linh hoạt thần tốc, thì nhất định ta đánh được…
Có người cười nói xen:
- Nghe bác nói cứ như là ông tướng cầm quân ấy!
- Chứ lại không à? Anh thợ Hàng Quạt nói. Ta họp nhau để đi đánh nhau mà không lượng mọi tình thế bên mình, bên địch thì đánh làm sao được.
Ông cử Kim Cổ giơ tay chưa kịp nói, ông ấm làng Vẽ đã lên tiếng:
- Ông ấy nói đúng, ta có cái thế vững, nếu ta khéo dùng thì có thể “thảo mộc giai binh” 1 , Bồ Kiên đem trăm vạn quân đến lội cạn sông tràn xuống Trung nguyên mà Tạ An ngồi ung dung đánh cờ cũng thắng được. Ở ta, đức thánh Trần đánh quân Nguyên cũng đã dùng đoản đánh trường mà thắng đấy. Chỉ sợ ta không có dũng khí và quyết tâm, chứ cứ xuất kỳ bất ý xông ra chịt lấy bọn chúng giáp lá cà với nhau thì súng của chúng nó cũng bằng vất đi.
1 . Cây cỏ đều là quân lính.
Ông mền Kim Liên thêm:
- Vâng! Đúng đấy ạ! Quyết thắng là ở ta, chứ không phải ở địch. Chúng nó nhiều người nhưng lạ thung lạ thổ, ta ngăn được những kẻ vô lương đi đưa đường chỉ lối cho chúng, ta lại cố dò biết thói quen của chúng nó hay xuất quân vào lúc nào, đi về phía nào, thế tất ta có cơ chặn đánh được chúng dễ như chơi…
- Vậy phải thêm người đi thám thính, một vị nói, để ngay những người ở trong phố làm công việc ấy, vừa dò biết địch và vừa dò biết những người bên ta và của bọn Khách nữa.
- Thường thường một ít thằng Tây đi cùng với mấy toán lính Khách hay đi ra vào lúc sáng sớm để đi mua thức ăn, nếu không mua được thì chúng cứ xông vào cướp rồi quăng tiền lại trả. Ta đặt quân phục đánh úp bọn ấy tất là thắng được. Vả lại ta bố trí ngăn bắt những thuyền lạ của bọn đi đạo đem lương thực đến cũng vừa dử được cho chúng nó ra… Vì tất nhiên chúng nó phải đi bảo vệ lương thực của chúng nó.
- Hay đấy! Một ông nữa nói. Ông Phúc nói có lý. Ta phải làm hai việc cùng một lúc. Ta chia người ra đón bắt giữ những thuyền lương, hễ nó ra gây sự là ta chặn đánh.
Ông cử Kim Cổ hỏi:
- Thế là ta lân sang việc thứ ba rồi. Hỗn hợp cả hai việc cùng bàn cũng được. Nhưng việc chính của chúng ta là đánh Tây, vì vậy ta phải làm trái cả lệnh của triều đình, và tất nhiên cũng phải ngăn bắt những thuyền lương của dân đạo do các cha cố bảo đem đến cho địch. Vậy ta hãy bàn cái việc thứ ba này trước cũng được, có phải không các hiền hữu? Ta nên đối với bọn ấy thế nào?
- Ta chia quân ra kiểm soát dọc sông, ông cử Hoàng Mai nói, hễ bắt được những thuyền lương như thế, ta tịch thu cả thuyền và lương thực, bắt giam người lại trong khi ta sắp đánh nhau với Tây.
- Tôi nghĩ ta không nên làm mạnh quá, bác Phúc nói, chẳng qua cũng Nam quốc Nam nhân cả, dân đạo họ bị bọn cố cụ dụ dỗ xui bậy đem những lương thực đến cho những người đi mở nước Chúa, đem văn minh đến cho dân Nam, họ bị lừa dối tưởng lầm tụi Tây là người nhà Chúa thật, nên họ mới liều thân đi lại như vậy, nay ta bắt tất cả, chỉ càng làm cho họ oán thêm ta mà thôi. Nên tôi thiết tưởng tốt nhất là ta bắt lấy hàng, hoàn lại vốn cho họ về là hơn.
- Tiền ở đâu mà hoàn? Một người hỏi.
- Chúng ta sẽ lấy số lương thực ấy, và trả bằng tiền của ta, bác Phúc nói, nếu không đủ, ta đem số hàng ấy bán cho dân.
- Nhưng ta không phải quan chức, ta có quyền bắt giữ họ không? Một người hỏi.
- Nếu ta nhất quyết làm là làm được, ông mền Kim Liên nói, ta sẽ xin giấy của quan huyện Thanh Trì cho quyền chúng ta bắt giữ mọi thuyền buôn trái phép.
Ông cử Hoàng Mai khoa tay lên như phân bua nói:
- Tôi xin giữ việc này cho, tôi đi xin phép quan huyện và hễ bắt được thuyền nào đem lương thực cho Tây là tôi giữ lại, hoàn vốn cho chủ thuyền, và cũng là một cách đóng quân ở dưới này để làm thế ỷ dốc 1 . Nếu hỏng việc, tôi xin chịu cữu.
1 . Ỷ dốc: dựa vào nhau.
- Được, giao cho bác cử Hoàng Mai cũng được. Ông cử Kim Cổ nói, miễn là bác đừng có mượn cớ để giết đạo. Ngày mai ta sẽ canh phòng rẻo sông, ngăn bắt thuyền đạo ngay. Và bây giờ ta trở lại việc đánh đuổi Tây. Ta có nhất quyết không?
Bàn sáng tỏ hai việc đầu và cuối rồi, mọi người đang bồng bột, nô nức, cả gian đình rộng rãi từ nẫy giờ yên tĩnh trang nghiêm bỗng ồn ào rộn lên, mọi người đều như muốn hét lên hai tiếng:
- Nhất quyết! Nhất quyết!
Ông ấm Vẽ trịnh trọng nói:
- Lúc nãy, các vị đã nói rõ rồi đấy! Ta có thể hơn địch, nếu ta không biết dùng ngay cái thế ấy, thì thế sẽ mất đi mà địch sẽ lấn ta. Chúng ta đã nhất quyết thì nên làm ngay!
Mọi người đều reo lên:
- Phải đấy!
- Phải đấy!
Ông cử Kim Cổ vui mừng đứng hẳn lên nói nghiêm nghị:
- Các hiền hữu ạ! Thế là chúng ta đã trăm người như một, đều dốc một lòng, chúng ta nhất quyết đánh đuổi bọn Tây đi, không để cho chúng nó hoành hành ở phường phố ta. Chúng ta sẽ tách ra một toán giao cho bác cử Hoàng Mai đi tuần ven sông ngay từ ngày mai. Còn hai đạo quân sẽ tiến lên đóng dải ở phố ngay sau khi đã phân bố xong và chấn chỉnh đủ khí giới, nghĩa là chỉ một hai ngày nữa là cùng… Vậy các thập phải về báo ngay cho người của mình sửa soạn đầy đủ. Việc bài binh bố trận sẽ báo xuống các thập sau.
Mọi người đứng lên vui vẻ nhộn nhịp. Ông Cử vẫn đứng nghiêm trang giơ tay gạt gạt nói:
- Hãy khoan! Hãy khoan! Ai có thêm ý kiến gì nữa không?
- Tôi xin các vị đội trưởng cho mở binh thư ra xem, học cách thức làm hỏa mù, một người nói.
- Hỏa mù ta đã có gio, có gio! Đánh giáp lá cà, gio tung vào mắt là tốt nhất. Người khác xen ngay.
Ông cử Kim Cổ nói:
- Chúng tôi xin theo tất cả ý kiến của các vị, cố đem thử cả xem. Còn một việc nữa ta nên lưu tâm là đối với các người tư văn mà không ra đây đồng cam cộng khổ với chúng ta, ta nên đối xử thế nào cho phải đạo?
Ông ấm Vẽ nói ngay:
- Trừ ông cử Vũ Thạch ra, còn các người khác sức dài vai rộng mà không ra với chúng ta, tức là không cùng một ý chí với chúng ta rồi, không được như người dân thường, không chơi với họ nữa.
- Không được! Anh thợ thêu Hàng Quạt nói. Họ không ra đây mỗi người vì một lẽ riêng, nếu ta coi nhất luật như nhau, hóa ra đẩy họ đến chỗ bỏ ta. Chi bằng ta cứ liên lạc với họ, cho họ thấy sức mạnh của chúng ta mà không dám nghĩ khác, còn công việc của ta làm thế nào ta không cho họ biết.
Ông cử Kim Cổ vui vẻ nhắc lại ngay ý kiến ấy như để kết thúc hội nghị:
- Đúng! Ta không bỏ họ, họ muốn liên lạc ta cứ cho liên lạc, nhưng không cho họ biết công việc của ta, họ biết tức là dễ lộ, địch nó biết được nó dễ đề phòng. Vậy tất cả các hiền hữu ở đây chỉ nên nói mục đích và ý định đã bàn hôm nay với các bạn ở nhà, còn kế hoạch rõ ràng thì không nên nói vội. Còn với người ngoài thì không nên nói gì cả.
Ngừng một lát, ông nói thêm thân mật:
- Thế là chúng ta đã bàn xong. Các hiền hữu về bàn bạc với anh em sửa soạn cho tốt nhé.
Cuộc họp mặt tan giữa sự tĩnh mịch của đêm khuya. Mọi người lần lượt ra về, im lặng, những bước đi càng vọng huỳnh huỵch trong đường xóm vắng làm cho những con chó ở nhà ven đường giật mình trở dậy sủa vang lên một lúc mới thôi. Bác Phúc còn ở lại bàn thêm ít việc với ông Cử và ông Mền. Ông Cử vào đình trong thắp một tuần hương cho khói lên thơm nghi ngút. Ông trông theo đốm lửa đỏ ngòm trong đêm tối như đang tâm niệm đến đức Bố cái Đại Vương đã giáng lâm đang phù hộ độ trì cho công việc của mình. Ông lặng lẽ đi ra phía sàn, thấy bác Phúc còn đứng đấy, ông vui vẻ nói với ông Mền ngồi trên sàn đang khêu to ngọn đèn cầy, mà như nói riêng với bác:
- Ấy có để cho bàn vỡ lẽ ra như thế, họ mới tin ở sức mình và mới mạnh dạn đi theo việc nghĩa như nước chảy, và không chùn bước trước sự hung hăng của quân thú dữ.
Ông đứng sát gần bên bác, nói thêm:
- Bác về để ý mấy lão Tú ở phía chợ Cửa Đông xem họ có làm gì không, nhất là cái anh Tú Tốn Hàng Gà, anh ấy đi đạo, có thể dễ vệ về bọn Tây đấy. Bác cũng nên năng đến thầy bói Thịnh. Anh ấy khá mà biết lắm chuyện đáo để.
- Ấy phải khéo mới được, ông Mền xếp mọi giấy tờ vào tráp đậy nắp lại và nói. Nghe ngóng và hỏi thêm ở ngoài, đừng để người ta tưởng mình dò la họ để làm hại họ. Không cần đến nhiều, ở đây ta cũng có người thường về vùng ấy rồi.
Ông Cử nói thêm và vỗ vai bác Phúc như tỏ ý tin cậy khuyến khích:
- Ấy là nói thế, nếu có dịp đi lại ta cần để ý đến cả mọi thứ. Thôi, bác có thể về. Cứ việc đi giúp đỡ chú Sìn, ai nói ra nói vào cũng đừng ngại. Phải khéo với cả Bá Kim đấy. Lão mà cấm bác đi lại với Khách thì cũng rầy rà cả cho bác…
- Vâng được ạ! Đệ xin tuân lời các vị dạy.
Bác Phúc đáp và chào hai ông, lui ra băng mình vào trong đêm tối sáng sao mát rợi, qua những làng mạc yên tĩnh như đi giữa sông Ngân Hà mênh mông. Bác về qua Nam Ngư thì đã nghe vọng từ trên lầu canh của cổng thành tiếng chuông ba tiếng, rồi xa xa ba tiếng trống ở chòi huyện Thọ như trả lời lại. Chắc cũng vừa mới trống canh ba thôi. Nhưng đêm đã khuya rồi, chó ngủ im cả. Bác đã toát hơi sương, chó không đánh hơi được, bác lại đi nhẹ nhàng thoăn thoắt hình như không có tiếng động, nên chó chẳng sủa gì cả. Chỉ khi qua những điếm canh các làng, bác đã nhanh miệng lên tiếng hỏi các phu tuần trước. Họ đều quen biết bác cả, họ để bác đi ngay.
Bác đi một mạch về đến nhà, khẽ gọi cửa, cô Hiền đã ra mở. Bác sửng sốt hỏi:
- Chưa ngủ kia à?
- Con mải vá cái áo, cô con gái nói ngọt ngào, mồ hôi chóng rách lắm.
- Từ tối đến giờ làm gì không vá?
- Ban tối lủng củng, hai mẹ con còn mải cãi lý sự với nhau, cô bé vẫn nói ngọt ngào tự nhiên. Đã đi nằm nhưng nóng quá không ngủ được, con dậy thắp đèn ngồi vá áo để đợi thầy về.
- Mẹ con nhà mày chỉ vô công rồi nghề, ngồi rỗi mách lẻo, hay lôi thôi! Hễ vắng tao là y như có chuyện!
Cô Hiền ngồi vào phản vuốt thẳng mụn vá, vẫn ung dung nói:
- Không, có lôi thôi gì đâu, chả là bu con cứ cằn nhằn về thầy cứ đi họp đêm, họp hôm ở đâu, khách đến người ta cứ hỏi. Chả là lúc gần tối, cụ Bá Đông và ông Tú trên phố chợ vào đây ăn quà có hỏi thầy đi đâu, họ có bảo bu là thầy đi họp đồng môn chống lại quan trên đấy làm bu sợ quá. Đến tối lại cái anh Tín ở dưới làng lên bồn chồn bảo rằng ở ngoài người ta đồn nhà ta đi mua hàng bán cho Tây, anh ấy nói mất mặn mất nhạt, làm cho bu tức quá, hai thím cháu suýt nữa chửi nhau to, anh ấy vội bỏ ra về…
Bác Phúc trở lại bình tĩnh vui vẻ nói:
- Cái tính thằng ấy nó lốp bốp thế, nó chưa rõ đấy thôi, mai mày xuống tìm nó lên đây tao bảo. Thế còn cụ Bá Kim và ông Tú đến đây cùng một lúc à?
- Vâng, cùng một lúc, cô con gái đang mặc áo vào, vơ những mụn vải lại và đáp. Họ ngồi nói chuyện với nhau lâu lắm và hễ thấy bu và con là họ cứ hỏi thầy đi đâu? Bao giờ về? Vì thế, bu con bảo từ mai không cho thầy đi đâu cả, không cho lên chú Sìn, không cho đi chợ.
- Mẹ bố mày! Không lên chú Sìn thì đói rã họng ra, bu mày lại kêu! Thôi tắt đèn đi ngủ! Quá nửa đêm rồi!
Bác bước ra khỏi buồng, tự tủm tỉm cười giọng chửi êm dịu của mình.
Bá Kim cùng với bang trưởng Quảng Đông Huỳnh Lục Ký đi quanh một vòng hết chợ Hàng Bè. Chợ vắng quá, chỉ lèo tèo mấy hàng rau. Cua cá của dân chài dưới sông cũng không đem lên bán. Hai người đi ra góc chợ phía thôn Gia Ngư rẽ vào hiệu Dụ Hưng Lâu. Cửa hàng đã đông khách. Chú Sìn và Ả Chí đang tíu tít chạy đi chạy lại bưng món ăn lên hầu khách, toàn là những tên lính háu ăn mạo hiểm và những chú Khách khá giả ở trên phố. Hai người đến nơi, chú Sìn vội chạy ra đón mời vào. Bá Kim vui vẻ hỏi ngay:
- Đông khách đấy nhỉ? Phát tài không?
- Dạ bẩm hai cụ, chú Sìn trả lời tươi cười, nhờ giời, nhờ lượng các cụ, mấy tuần nay cũng bán chạy. Rước hai cụ vào chơi.
- Thôi, để anh bán hàng, Huỳnh Lục Ký nói, chúng tôi vào làm cho chật chỗ thêm, có khi khách ăn họ ngượng với chúng tôi. Anh sang bên hàng xóm này tĩnh mịch, tôi hỏi anh cái này một tí.
Bá Kim trông thấy bác Phúc ở trong bếp trong đi ra cũng gọi:
- Bác Hai! Bác Hai sang đây một thể.
Sợ bác không nghe thấy hay vờ lảng đi, lão dặn theo Ả Sìn:
- Chú bảo cả bác Phúc sang nữa nhé!
Hai người đủng đỉnh quay trở ra đi sang nhà bên cạnh là nhà một người bán cau ở cửa ô Hàng Cau. Nhà có bờ rào hóp, có cổng, có mảnh sân gạch con và một cái nhà gỗ năm gian lợp lá. Người nhớn đi vắng, chỉ có mấy đứa bé đang chơi ở ngoài sân. Hai người đẩy cửa vào đến sân, bác Phúc và chú Sìn cũng vừa theo kịp. Bá Kim đi rảo lên trước ngồi phệt ngay xuống cái bờ hè xây gạch và nói ra vẻ xuề xòa đắc ý:
- Ta ngồi ngay đây nói cho tiện.
Huỳnh Lục Ký vào đến nơi cũng ngồi xuống hè. Còn hai người kia ngồi xổm dưới sân. Huỳnh Lục Ký nói vào đề ngay:
- Chúng tôi vừa đi thăm chợ, chợ vắng lắm.
Mấy hôm nay các chợ đều không có người đem sản vật đến bán. Mà khu ta đây đông đúc, mỗi ngày ăn uống nhiều, nên tôi đến bảo anh mở to hàng của anh ra để buôn bán được nhiều, sau nữa khi đi mua thức ăn, mua thêm cho nhiều, về bán lại cho bà con, và nhân tiện bảo với bà con các thôn xóm đem sản vật vào mấy chợ ở đây mà bán.
- Họ không đem đến bán đâu, chú Sìn nói, họ sợ các quan cấm, tôi cũng phải nhờ bác Phúc mua hộ đấy.
- Không, bây giờ có giấy sức của các quan hẳn hoi, Lục Ký nói, anh phải thân hành đi đến tận các nơi mà nói cho người ta biết. Trước hãy đi cùng với ông Hai, rồi sau đi một mình, vừa mua được hàng cho mình, vừa giúp ích được cho cả đôi bên, nhỉ ông Hai nhỉ!
Huỳnh Lục Ký quay ra cười hỏi bác Phúc, bác chưa kịp trả lời ra sao, Bá Kim đã bảo:
- Chợ ít người họp, các gia đình Khách trú ở đây có tiền mà không mua được thức ăn, hàng bang có lên kêu với quan Tổng đốc, nên nay đã có giấy thông sức cho dân các thôn xã vùng quê phải đem sản vật ra bán cho phố phường. Đây giấy sức đây!
Lão thò tay vào cái túi ngực khâu trong cái áo cộc năm thân, rút ra một tờ giấy bản gấp vuông, mở to cho mọi người nhìn rõ dấu son đỏ chóe, và è một tiếng lấy giọng đọc luôn:
“Quan Tri huyện Nguyễn, huyện Thọ Xương thông sức cho chánh phó tổng bảy tổng tuân loan báo cho dân chúng các thôn, xã, phường, trại biết:
Mới đây vì ngôn ngữ bất đồng, đoàn thuyền Tây dương đến có sinh ra xô xát, nhân dân ta sợ tai vạ không đem sản vật ra chợ bán nữa. Nay việc thương thuyết đã buộc họ phải cử phái viên ra bàn bạc cùng ta, bồi thường mọi thứ. Vả không vì thế mà để cho mấy nghìn Khách trú đã ở lâu đời ở đây phải chịu thiếu thốn lây. Vậy các thầy chánh phó tổng phải đi cùng với lý phó trưởng các thôn, xã, phường, trại đến bảo mọi nhà phải đi họp chợ như thường, đem hàng hóa sản vật đến bán ở những nơi đông Khách trú, cho tỏ rõ tấm lòng nhất thị đồng nhân 1 .
Nay khẩn sức.”
1 . Coi thân cùng như nhau.
Đọc hết, lão ngẩng lên trông bác Phúc và nói:
- Nhất thị đồng nhân, coi nhất luật như anh em nhà cả. Giấy quan đã sức thế, bác Hai nên đứng ra đi mua hộ hàng giúp cho chú Sìn, rồi chú Sìn đem bán cho bà con khách trú, thế là vừa có lợi, vừa có tình, bác nghĩ thế nào?
Bị hỏi dồn, bác chưa kịp suy nghĩ, đành đánh nước lảng:
- Dạ, tôi không quen buôn bán lớn, chỉ quen đâm đầu vào bếp bán hàng cơm, có giấy sức được đi lại như thường, tôi xin mở to cửa hàng của tôi để mời các chú Khách quá bộ xuống thưởng thức cho vui vẻ.
- Được, vừa mở to cửa hàng, Bá Kim nói, vừa buôn bán thêm cũng được chứ sao? Cho vợ con chạy chợ, mình ở nhà.
- Không cần phải đi buôn đâu, ông Hai ạ, Huỳnh Lục Ký cũng nói, ông cứ bảo bà con đem hàng đến chợ bán, hay đem đến hàng ông, ông mua rồi chuyển sang tay cho Ả Sìn này.
- Nhưng trước hết, ông phải bảo bọn các ông đừng ngăn cách riêng khu các ông ra nữa mới được. Bác Phúc nói riêng với Huỳnh Lục Ký, có bỏ cái lối lính canh giữa phố đi, người ta mới nói đến chứ.
- Ồ! Đấy cũng là một lối tự vệ đấy thôi. Huỳnh Lục Ký nói thêm. Để tôi sẽ nói lại với mấy ông tướng Tàu.
Bá Kim đứng lên ra vẻ dặn dò:
- Thôi, việc có thế, thấy điều lợi, chúng tôi đến bảo bác và chú Sìn trước. Bây giờ, tôi phải thân đến các xã thôn, nói làm sao cho dân họ hiểu. Chúng tôi đi đây.
Huỳnh Lục Ký cũng đứng lên theo. Hai người đi ra. Bác Phúc cũng đứng lên phủi đít quần, chạy theo chú Sìn đã đi tắt ngang lách qua bờ rào về bên bếp nhà mình. Bác nói vọng thêm cho chú Sìn rõ:
- Mẹ kiếp, miệng quan trôn trẻ, lúc thì sức cấm, lúc lại sức bắt ra họp chợ, đem hàng đến bán, ai tin được!
Nhưng chú Sìn đã đi ngoắt lên cửa hàng. Bác vui thích một mình chui vào bếp, bồng bột nói với một chú khách thanh niên đến làm giúp đang ngồi xay cối bột:
- Cho là còn lâu mới có lương thực.
- Sao thế cơ? Chú bé đang quay cái cối, ngẩng lên hỏi.
- Vì dân thôn người ta không mang ra, nên bà con mình mới bị khó khăn.
Bác trả lời thế cho xong chuyện, rồi im lặng đi lấy cái điếu cày, hút một điếu thuốc lào to, say lờ đờ, bác ngồi nghĩ toán anh em nghĩa sỹ đã đi đóng ở ven sông ngăn giữ các thuyền đem lương và hàng đến cho giặc. Đúng rồi, hai hôm nay sáng nào nó cũng vận cho hai toán lính đi trên ven đê mong bảo vệ những thuyền lương của chúng. Nhưng thuyền vẫn không lên được, toán lính đành đi diễu hành trên đê trở về đoàn thuyền, hay lên hội quán phố Hàng Buồm. Thảo nào! Nó lại phải đâm bổ đi kêu xin quan ta sức cho dân đi họp chợ, rồi bọn thừa hành của ta lại có dịp kiếm lợi cả hai mang! Được! Ông cho là chúng mày còn khốn quẫn ạ! Đằng nào cũng muốn giữ phần làm bố người ta cả, ai người ta nghe! Bác đã tỉnh say thuốc, lấy làm thích chí đang chực chạy ra cửa hiệu rỉ tai ý nghĩ vui sướng với Ả Chí thì chợt có luôn mấy tiếng súng nổ ở phía bờ sông, tiếp theo có tiếng hò reo văng vẳng từ đằng xa lại. Trong làng xôn xao. Có người kêu:
- Chết! Họ đánh nhau rồi!
Mọi người nhớn nhác chạy ra. Bác Phúc không thèm nghe những chú Khách líu lô bàn tán nữa, bác chạy bổ văng về qua nhà, giục vợ con đóng cửa, rồi lao như bay về lối đình làng Trường Tín, vì bác đã biết anh em đóng về mạn này. Khác với cảnh nhốn nháo ở trên phố, ở những làng dưới này nhân dân vui vác gậy vác dao chạy ra phía bờ sông nơi có tiếng ồn ào, mấy cụ già đầu tóc bạc phơ chống gậy ra đứng ở cổng làng nghe ngóng tươi cười trông theo những người trai trẻ đang chạy cả ra bờ sông, có cụ cười nheo mắt nói:
- Cố bắt đem về đây mấy đứa nhé!
Tiếng ồn ào càng vọng to hơn. Một cụ mừng quá reo lên:
- Có thế chứ! Mình nhiều thế này mà chịu nó à?
Bác Phúc đang nức lòng cũng nói theo:
- Vui quá, nhỉ cụ nhỉ?
Nhưng vừa ra khỏi đầu làng Trường Tín, đám đông người đứng tụm lại, trên đê một toán người tiến xuống. Có người nói lớn:
- Đừng kéo ra ngoài ấy nhiều nữa, lốn nhốn không có chỗ nấp, nó bắn súng đấy!
Người đi đầu tiến vượt lên nói thêm:
- Các ông đi giải bọn này xuống Đồng Phù với chúng tôi!
Mọi người nhảy lên reo vui:
- A người mình bắt được tụi nó!
- Nhưng sao lại chỉ có bọn Khách thế này?
- Chưa bắt được Tây à?
Mọi người tranh nói, tranh hỏi. Có người trong bọn họ nói len vào:
- Bắt được Tây thì giết đi chứ, đem của nợ ấy về làm gì!
Người đi đầu đã đến nơi, nói cải chính:
- Không, bọn Tây nó ít, chưa bắt được. Mới bắt được mấy chú này, chúng tôi phải dẫn đi liền. Để ngoài ấy quẩn chân!
Cả toán đã đến nơi. Mọi người đều xúm quanh vây lấy bọn khách bị bắt. Tất cả năm đứa to lớn, nhưng quần áo xốc xếch, hai tay bị trói rặt ra đằng sau, mặt nhợt nhạt tái mét, run sợ như cò bị bão, trông thiểu não đến bật cười. Có người xô vào trực đánh, bác Phúc vội dang tay gạt mọi người ra và nói như quát:
- Không được! Ta chỉ đánh nhau tại trận thôi! Vả đây cũng người da vàng bà con ta cả. Ta chỉ đánh bọn quỷ trắng nó đến ăn hiếp ta.
Rồi bác quay lại nói với toán người áp giải:
- Các bác để tôi giải đi cho, dẫn qua trong xóm cho mấy cụ đang đứng ngóng kia các cụ thích, các cụ vừa dặn xong.
Thấy mọi người cười, bác mới kịp ngẩng lên nhìn các chiến sỹ:
- À quên, các anh, bác nói tiếp hơi ngượng, thì ra toàn thanh niên các xóm, các xã cả. Các anh đi vào với tư văn à? Thế cụ Cử có ở ngoài ấy không?
- Cụ Cử nào kia chứ? Một anh hỏi.
- Có, có mấy ông Cử, ông Tú ở ngoài mặt trận đấy…
Một anh nữa chưa nói hết câu, người đi đầu lúc nãy, nhiều tuổi hơn, đã nói cướp:
- Có cụ Mền chỉ huy ở đấy, còn cụ Cử đi đón đầu ở đằng trên kia! À này thôi, cụ Phúc ơi, cụ dẫn lũ này về dưới kia và cũng xin các bác, các chú cũng đi với cụ Phúc, còn vị nào không muốn đi, xin cứ đứng đón bọn Khách nữa. Đừng ra ngoài ấy, để chúng cháu đã tập quen rồi ra mới có lợi. Văn ôn, vũ luyện, chúng cháu có tập vẫn hơn.
- Được! Chúng tôi xin đứng đợi ở đây, một ông vui vẻ nói, không làm được gì nữa thì chúng tôi kéo đi thổi cơm làm cỗ giúp các anh để các anh nghỉ ngơi chứ sao.
Mọi người cười vui vẻ. Ba người ở lại đi với tù binh, còn năm người lại cầm mã tấu khoác lại khiên, chạy bon bon vượt đê ra phía bờ sông. Trông theo họ lanh lẹn lao mình lên đê, bác Phúc càng thấm thía thấy rõ tinh thần dũng cảm của đoàn quân nghĩa sỹ, một toán người ô hợp, áo giáp chỉ có bộ quần áo nâu cộc, thắt ngoài ngang bụng một cái dây lưng xanh bỏ múi ngang hông dưới nách, đi chân không, đầu bịt một cái khăn vuông đen, ấy thế mà trông cũng hùng dũng, hiên ngang, bắt được cả một lũ to béo, đủ cả quần áo, giầy vải, nón chóp bọc da và kiếm. Quay nhìn lại bọn chúng đang đứng cúi xuống giật nẩy mình ngẩng đầu lên khi nghe tiếng giục của bác trưởng toán:
- Thôi đi mau!
Bác càng thấy khinh bỉ và thương hại bọn lính đánh thuê ấy, bác đi kèm bên chúng nó để giữ cho chúng khỏi bị dân chúng bên đường đón đánh. Nhưng người ta chỉ tức Tây, chứ không mấy người ghét Khách, trông chúng đi thất thểu, tay bị trói, bụng bị hở áo phanh cả rốn, có bà cụ đứng nhìn và nói:
- Sao không cài áo bụng lại cho nó?
Bác bập bẹ mấy tiếng Khách nói cho chúng nghe rõ ý bà cụ, làm cho chúng nó hối hận, bẽn lẽn cúi gầm mặt xuống. Toán giải tù binh này đi rất nhanh, chỉ độ khô một bãi bòn bọt đã đến làng Đồng Phù, còn đang để chúng nó ngồi nghỉ ở sân đình cho bà con xóm làng ra xem cho chán, thì đã có một toán dẫn thêm sáu anh lính Khách nữa đến. Thấy đem nhiều lính Khách về đây, sợ bọn giặc nó biết, nó sẽ đi tàu máy về đến tận bờ đê, nó tiến được vào làng, nó sẽ phá hết, đốt hết, giết hết, một cụ già bảo mấy chiến sỹ áp giải:
- Các anh đem chúng nó vào sâu trong những làng trong kia. Ở đây gần ngay bờ sông, chúng nó đi sấn về đến nơi, nó có thể vào đánh tháo được.
Bác Phúc ôn tồn nói đáp lại:
- Cụ đừng sợ. Khi nào nó dám xuống đến đây! Và cũng tạm cho nó nghỉ ở đây một lúc, rồi chốc nữa, sẽ đưa nó đi…
Rồi bác quay ra nói chuyện với một chiến sỹ đứng đầu toán:
- Xin anh cho tôi trở lên đón lấy mươi, mười lăm tên nữa đem về đây chứ?
Bác lại chạy tót ra đi đón những toán khác, nhìn thấy mấy chú Khách bị giải đến, bác hỏi thăm qua loa, rồi đi thẳng về đầu xóm Đông xã Trường Tín. Nhưng chưa đến nơi, bỗng nghe thấy những tiếng ào ạt như phàn nàn tức tối, rồi có mấy toán người cùng đi theo ven đê trở về mặt hầm hầm dữ dội, thúc bọn lính Khách bị trói đi mau. Những người đứng bên đường thì reo vui đón chào họ, nhưng bác chạy ra hỏi, họ vẫn im lặng không thèm nói, cứ đi nhanh. Lại những toán sau nữa, bác nhận ra nhiều người quen. Kìa bọn ấm Vẽ, lại kìa toán của ấm Phách. Bác chạy xô ra hỏi:
- Sao lại về? Thua à?
- Thua lại bắt được lính Khách? Ấm Vẽ nói.
- Không bắt được Tây à?
- Ông đề không cho bắt! Một thanh niên nói nhanh với vẻ tức tối lẫn thêm vẻ kiêu hãnh.
Bác chạy lên đón cậu ấm Tự Tháp:
- Nó đuổi hay sao mà về cả thế?
Cậu ấm Ba Tự Tháp là người hung hăng nói nhiều nhất từ nãy đến giờ đã sừng sộ cả với ông cử Kim Cổ, mới im lặng được một lúc, thấy bác Hai hỏi đến, lại vùng vằng bỏ hàng ngũ chạy ra với bác và giục:
- Thôi về đi! Đánh với chác!
Những người trong hàng reo lên:
- Ê anh kia đào ngũ!
- Tao về đây! Cậu nói thế, tay trật cái khăn bịt đầu ra và cầm cả cái dao mã tấu đưa cho bác Hai và nói khẩn khoản:
- Nhờ bác cầm chạy lên giao cho ông ấm Vẽ hộ tôi. Tội vạ tôi xin chịu…
Cậu chạy ra ngồi trên một mô đất dưới cây sung bên một bờ ao ria đường, đợi bác Hai. Ở ngoài kia loáng thoáng lại có thêm từng toán đi vào. Trong làng tự nhiên có tiếng nhốn nháo truyền nhau:
- Chạy bớt đi, không nó đuổi đánh báo thù đấy!
Cậu vội đứng lên quát:
- Đứa nào nói láo? Trói nó lại! Quân ở đâu mà nó dám đến đây báo thù? Những người còn ở ngoài kia người ta là nấm à?
Bác Hai đã trở về đến gốc sung. Những toán chiến sỹ đã lần lượt đi hết, trông ra ngoài đê chỉ còn trời nắng chang chang tỏa nhuộm vàng tươi ngọn cỏ sườn đê và những lùm cây bàng, cây đề, cây đa ngoài phía bãi. Trời đã gần trưa. Nhưng ở đây dưới lũy tre râm mát và cây sung lòa xòa soi bóng xuống cái ao trong phẳng lặng, mấy con cá mè đang úi lượm đớp mồi gợn sóng lăn tăn, mọi người đã vây quanh cậu ấm hỏi cho rõ tình hình trận đánh. Đương muốn trút hết mọi bực tức và cũng là muốn cho dân chúng khỏi hiểu sai tưởng rằng mình thua, cậu đành phải đứng lại nói cho rõ ngành ngọn.
Biết được thóp Đồ Phổ Nghĩa hay cho quân đi vào buổi sáng ở trên đê để thị uy và bắt phu về làm cho nó – nó trả rất hậu, nên vẫn có một số người lảng vảng ra để được bắt – quân ta quyết chặn đánh một mẻ rồi ra sao thì ra. Cả đội chia làm hai cánh. Cánh hữu do ông Mền chỉ huy đi lẻn vào phục kích từ làng Cổ Tân, Trang Lâu đến Thất Thi, thủ dao ngắn, đi rải rác như người vào phố, toán tiền đạo phải giả làm dân lảng vảng ở ngoài cửa ô Hàng Cau đến cửa ô Long Tường. Cánh tả quân do ông Cử nhà ta dẫn đến bày trận ở ven đê từ bãi Đồng Nhân đến bến đò Trường Tín ngoài kia. Anh em cánh này vào ở lẫn với dân, dân biết cả, nhưng ai nấy một lòng không bàn tán gì. Một toán phải túc trực ở ngoài ven đê suốt ngày hôm qua chẳng thấy gì cả, đến chiều anh em rút cả về Phụ Khánh, Bạch Mai, Thanh Nhàn. Sáng sớm tinh mơ hôm nay, anh em lại lặng lẽ đi ra phân bố như sáng qua. Đến độ đầu giờ Mão, mặt trời đã qua khỏi những lũy tre bên kia sông đến mấy con sào đang tỏa ánh nắng chói chang, hất những bóng cây ven đê ngả dài rợp các thôn xóm bên đường. Một toán quân dưới thuyền đi lên bộ, bóng nhấp nhô, loang loáng, trông ngứa mắt quá, nó đi nghênh ngang như đi trên đất nước nhà nó. Đến mặt đê, chúng nó chia làm hai, một cánh đi lên phía đê Thanh Hà, còn một cánh chừng ba mươi Tây, năm mươi Khách và độ hơn chục Tây đen rầm rộ xì xồ kéo về phía bến đò này như thường lệ. Ba tiếng trống rồng ở đình ngoài Trường Tín lúc sáng là tiếng hiệu, rồi chuông chùa Đồng Nhân tiếp theo. Các đội quân phục kích ở ven đê xông lên nhanh như chớp cắt ngang toán quân địch, mặc cho súng địch bắn vì đã xông vào giáp lá cà, súng trường không còn sức tác hại nữa. Bọn lính Khách không có súng, chỉ có đao kiếm bị quân ta chẹn bất ngờ, hoảng sợ bỏ khí giới chạy toán loạn thục thân, bị quân ta ở trong làng chạy thêm ra vây bắt. Bọn Tây đen, Tây trắng thấy vắng tụi Khách vội chạy xuống bãi sông đứng tụm vào nhau, cố bắn súng bừa ra tứ phía để tự vệ. Quân ta đang đà thắng cúi nấp vào những mép đất, mô đất, lấy gạch đá đã mang sẵn trong người ném túi bụi vào đám quân đang đứng túm tụm. Có những người đỡ nghiêng nằm lăn xả vào gần tới bọn địch, vừa lăn vừa ném gạch. Và đến gần được họ đã vùng lên múa dao chém đỡ… Cánh hữu quân của ông Mền trong xóm Cổ Tân xông ra cùng với anh em tiền đạo đánh lùi bọn Tây chạy xuống thuyền, và nổ pháo làm nghi binh giữ rịt bọn lính Vân Nam ở ô Thanh Hà không dám ra. Một nửa cánh quân đang ào ào tiến xuống Trường Tín. Ba quân đang hăng hái tiến đến bao vây bắt giặc, chợt có ba tiếng loa gọi ở trên đê là có quan Đề đốc đến. Lá cờ lệnh đuôi nheo phấp phới trên mình ngựa đi trước, theo sau ba con ngựa với ba vị võ quan cùng chạy lao xuống chỗ ?