← Quay lại trang sách

Chương VI

Mưa ủm thũm dây dưa mấy hôm, hômnay giời tạnh nắng, đường sá khô ráo, bầu giời quang đẹp, bắt đầu nắng hanh vàng tươi sáng. Cảnh vật như nhuộm thắm lòng người, gợi nhớ đến mùa thi cử trước đây. Năm nay là năm khoa chính. Ở các nơi như Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định, có trường đã thi xong, có trường đang thi…, sỹ tử nô nức nhau đua tài trên trường văn, trận bút vui vẻ lắm. Riêng ở đây, trường thi ngày thường đã hoang vắng, bây giờ càng thêm có vẻ hoang vu, lạnh lẽo. Giá như những khoa thi trước, vào dạo này, nơi bờ hồ này đã đông vui biết mấy, sỹ tử đi lại nườm nượp, dạo chơi, bàn tán, đàm luận với nhau, để ngóng chờ… tin bảng ai vào, ai ra, ai qua được các kỳ vào phúc hạch. Nhưng giờ đây, giữa cái lúc, ba năm mới lại một lần có dịp mở đường cho kẻ sỹ vào hội sênh sang áo mũ, giữa cái lúc vinh dự hằng mong mỏi ấy, thì ở đây, đường công danh tự nhiên vít lối, khách văn chương không còn ai lai vãng chốn này, thành ra cảnh giời càng trong đẹp, người đối cảnh cảm thấy trống trải, hoang vắng. Mấy thầy đồ, thầy khóa trong vùng đã nộp quyển tấp tểnh đi thi, nay buồn nhớ cảnh lều chõng vào trường, rủ nhau đến ngồi ở hàng bác Hai Phúc đây, khề khà chén rượu tiêu sầu, và cũng là gợi chuyện và góp chuyện với bác chủ hàng cũng đang buồn thiu nhớ đến cái cảnh nhộn nhịp trong mấy khoa thi trước, mà nơi quán này đã là chỗ trọ cho những tay danh sỹ hay đến đền Ngọc Sơn lễ lạy cầu thần nằm mộng! Mấy người bàn chuyện thi cử, rồi phẫn uất chuyển sang chuyện thời thế, rồi lại từ chuyện thời thế quay trở về chuyện thi cử mà thường thường thở dài than thân phận, trách trò đời… và chửi bọn Tây dương quái ác. Mấy người khách đang chuyện trò, lơ đãng nhìn mặt nước hồ long lanh ánh bạc, bỗng sửng sốt đứng cả lên, khi ở phía ngoài bờ sông luôn chín tiếng súng nổ liên tiếp như pháo lệnh nổ long giời lở đất, vang ầm cả phố phường và rung chuyển cả nhà cửa. Họ bỏ chén đũa, chạy đổ xô ra cả cửa ô Long Tường hướng về phía tiếng súng. Bác Hai cũng ba chân bốn cẳng chạy theo và chạy vượt lên trước. Kìa trên đê, năm sáu trăm tên lính Khách của Đồ Phổ Nghĩa đang đứng thẳng hàng, bồng súng lên, đặt súng xuống theo lệnh của chỉ huy. Dưới sông, mấy còi tàu đồng thời đang kéo rền lên từng hồi. Trên mỗi chiếc tàu một lá cờ ba sắc tung bay phần phật trước gió, tất cả lính Tây, quân phục chỉnh tề, đứng nghiêm thẳng hàng trên khoang tàu. Một đoàn ba chiếc tàu khác cũng phất phơ lá cờ ba sắc, đang ì ì lượn trước đoàn tàu của Đồ Phổ Nghĩa để vượt lên phía trên rồi mới bỏ neo đỗ lại. Thì ra tên quan đặc phái của Tây từ Sài Gòn đã ra đến Hà Nội, cuộc đón tiếp bày ra ngang nhiên như trên đất riêng của chúng nó. Và tuyệt nhiên không thấy bóng dáng một người lính nào của bên ta, và cũng không thấy quan chức tỉnh Hà Nội động tĩnh gì cả. Quái lạ! Thế này thì loạn thật! Bác Hai nghĩ bụng thế, và gặp ai cũng cứ hỏi quen miệng:

− Cái gì vậy? Cái gì vậy?

− Tây nó đón quan nó đấy mà! Có người đáp.

− Nó làm như ở nhà nó thế à? Bác nói thêm. Ai cho nó làm kinh động mọi người như thế? Nó chửi vào mặt mình còn gì nữa!

− Hơi đâu mà dây với bọn đỉa đói! Một ông thủng thẳng nói rồi đi ngay.

Bác đương định dồn cho cái anh chàng vừa nói ấy một mẻ, nhưng hắn đã đi xa, lọt vào ô Hàng Cau rồi, nên bác không nói thêm câu nào nữa, chợt bắt gặp Bá Kim vừa ở cửa ô Hàng Mắm đi xuống, bác vồ ngay lấy, hỏi xoắn một hồi:

− Thưa cụ, nó làm gì vậy? Nó chực đánh ta à?

− Nó đón đặc phái viên của nó đấy, Bá Kim trả lời.

− Sao nó dám bắn súng làm kinh động nhân dân như vậy? Nó là chủ đất này à?

Bá Kim cắt nghĩa ôn tồn:

− Lão quan đặc phái này to lắm, chức cao quyền lớn, ra đây bảo thế nào là bọn ở ngoài này phải nghe theo một phép, cho nên nó phải đón long trọng. Vả lại, nó đón nó, tức là nó đón mình, vì có cả ba vị quan của triều đình cùng đi ở đấy.

− Nó to chức thế, tại sao bên ta không đón?

− Các quan ta không ai ra đón, vì nó đến đây có việc của nó, nó sẽ phải đền mọi thiệt hại cho ta. Mai nó sẽ vào dinh yết kiến, bấy giờ các quan ta mới tiếp nó chứ!

Thấy bác còn ra dáng ngần ngừ muốn hỏi nữa, Bá Kim liền đưa cho bác một tờ giấy niêm yết khổ rộng chữ viết to, có dấu son hẳn hoi, và giục:

− Giao cho bác tờ giấy thông sức này, bác đem về dán ngay ở cửa hàng cho mọi người cùng đọc, giấy quan trên sức khuyên dân chúng yên tĩnh, không để lộ hình tích gì cho Tây nó ngờ, để đợi đón cuộc thương thuyết giữa ta với đặc phái viên của Tây được kết quả tốt, nó không vịn vào cớ gì mà bắt bí ta được.

Bác Hai vẫn còn nửa tin, nửa ngờ, nhưng phận sự người dưới, đành phải đem tờ thông sức ấy về dán ở ngoài cửa nhà mình để mọi người cùng xem. Đã đi được mấy bước, bác còn ngoảnh lại, thấy Bá Kim đang phát thêm mấy tờ giấy như thế cho mấy người nữa, bác cười một mình tự nhủ:

− Lão này khôn thật, đem giấy ra đấy mà sai đi dán, rõ là được một công đôi việc, đuổi bớt được một số người đứng tụm năm, tụm ba!

Bác lại chợt nghĩ sang chiều khác, mải nghĩ quên cả trả lời những câu người ta hỏi bác, bác chỉ lẩm bẩm một mình:

− Chả biết có ra cơ ngũ gì không, nó có bồi thường đến nơi, đến chốn cho không, chứ các quan ta chu đáo thật, biết sắp xếp ngăn chặn ngay từ trước, không để có thể xảy ra một tí gì không lịch thiệp, làm chạm lòng tự ái của chúng nó.

Bác về đến nhà, đem dán tờ giấy ấy ra ngoài cửa rồi đứng ngắm nghía xem có ngay ngắn không: tờ giấy rộng, chữ đẹp, dấu son chi chít và dấu quan phòng to bằng bàn tay in đỏ chóe, trông đẹp như một bức tranh, bác tuy không đọc được, chỉ gật gù khen chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Có ai hỏi giấy gì, bác đều mời đọc đi và nói qua loa ý nghĩ của mình mong cuộc thương thuyết mau xuôi chuyện. Dân tình yên ổn ngóng đợi, vì ai nấy cũng đã quen chuyện Tây Tàu rồi, không lạ như năm ngoái, khi đoàn tàu Đồ Phổ Nghĩa mới đến, vả lại được các quan đã sức cho mọi người biết có cuộc thương thuyết điều đình, nên không ai dám có lời nói, việc làm gì để có thể bị buộc tội là cản trở việc giao thiệp của nhà nước. Yên tĩnh. Và phố xá vẫn đông người. Hàng bác Hai cũng có thêm khách ra vào, ngồi nói chuyện vui như cố ý tưởng tượng ra thời thế sắp sửa thái bình như trước. Người ta ngồi bàn tán bịa ra mọi vẻ hoang đường về cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa đặc phái viên Tây với các quan ta. Họ thêm thắt cho vui câu chuyện. Rồi ngày hôm sau nữa, bỗng một toán lính ra dọn qua loa trường thi, một ông già ở Vũ Thạch vội chạy đến gọi bác Hai bảo:

− Này sắp thi rồi bác Hai ơi! Hàng bác lại vui đáo để!

− Sao cụ biết? Một người ở trong hàng hỏi ra.

− Lính trong thành ra dọn dẹp đấy, ông cụ đáp.

− Chả phải thi, họ dọn làm gì đấy chứ? Bác Hai nói, thi gì mà chóng thế. Nó vừa mới ra đến nơi mà mọi việc xong cả rồi à?

Ông cụ vẫn giữ ý kiến:

− Muốn thi thì cũng phải dọn dẹp, làm lại nhà quan cư, cũng còn phải mươi bữa nửa tháng. Chắc là nó đã bằng lòng mọi thứ rồi, nên ta mới cho mở lại khoa thi.

− Ai cũng mong như thế, nhưng chả phải đâu. Đời nào nó đã chịu rút đi ngay mà thi với cử, ông khách ngồi trong hàng nói. Hôm qua, nó sấn vào trong thành, nó ẩy bừa cả lính canh ra một bên mà đi, có coi ai ra gì đâu!

Một ông khách nhà cùng ở phía Hàng Khay ở ngoài đi vào với ông cụ, nói có vẻ phân giải phải trái:

− Kể gì bọn họ đằng ấy, hễ tướng của chúng nó thuận nghe theo là được. Có lẽ…

− Quân láo lếu là tại tướng dung túng, ông kia cãi lại. Chúng nó bảo nhau hung hăng để gây chuyện bắt nạt các quan mình.

Mấy người đang mải bàn tán, chưa ai đoán rõ các quan trên cho dọn trường thi làm gì, chợt một toán lính đi hàng ba, có đủ khí giới và xẻng, cuốc, dao búa, rầm rập đi từ làng Cựu Lâu qua ngã tư tiến vào đường Hàng Khay. Toàn là Tây trắng, Tây đen, tóc quăn mũi lõ, râu ria xồm xoàm. Trong cửa hàng bác Hai, mọi người im bặt đứng lên đi ra phía hiên, đăm đăm trông theo đám lính đang đi có vẻ ngạo nghễ trên đường đất của quê hương mình. Mọi người cùng nín thở, nén giận. Có lẽ đây là bọn người lạ mặt đầu tiên nghênh ngang xúc phạm đường phố yên tĩnh của ta. Bọn lính khác giống trông dữ tợn như đầu trâu, mặt ngựa, đi đã khuất quá làng Vũ Thạch rồi, mấy người… đều vẫn im lặng sững sờ, cùng cảm thông với nhau trong mối buồn bực chung, và không ai nói ra, nhưng cùng hiểu bọn lính kia đi đâu rồi. Một lúc lâu, cái ông khách nghi ngờ sự mừng hụt của ông cụ lúc nãy, trở vào ngồi chỗ cũ, rồi mới lên tiếng:

− Cụ ơi! Tây nó đi thi đấy, cụ ạ! Ông cụ cười gượng, nói:

− Đúng là chúng nó vào đóng trường thi rồi. Nó đi hàng ba, tôi đếm được đúng hai chục hàng, và hai thằng cai đội gì đấy, đi tách ra ngoài…

− Có cả Tây trắng, Tây hung hung, Tây đen, nhưng không có Khách, một ông nữa nói tiếp…

− Hình như có cả mấy ông người Nam nhà mình, bác Hai nói.

− Người Sài Gòn Gia Định đấy, ông cụ làng Vũ Thạch nói. Đất nó chiếm mất rồi, không đi nó cũng bắt đi ấy chứ. Nó bắt ra ngoài này ăn nói với ta cho dễ.

Chợt Bá Kim đi với mấy người lính tuần thành ở phía trường thi đi về, thấy trong hàng có người, lão rẽ vào, trông thấy bác Hai, dặn ngay:

− Bác cứ mở cửa hàng cho tử tế. Bọn lính Tây họ kéo vào đấy, cắm trại xong đâu đấy, là họ kéo nhau ra đây ngay cho mà xem. Họ đến đây như là khách của Nhà nước. Mình cứ việc bán hàng chiều khách, vừa lợi mình, vừa được việc cho quan trên…

− Thưa cụ, thế họ vào đóng ở trường thi à? Bác Hai hỏi.

− Phải, họ vào đóng tạm ở đấy, Bá Kim đáp. Họ tự làm nhà dựng thêm doanh trại lấy, ta phải cấp vật liệu cho họ.

− Bẩm cụ, sao họ không ở dưới tàu, lên bộ làm gì? Một ông khách ở hàng hỏi.

− Họ ra điều đình còn bàn đến nhiều việc, nên phải ở lâu lâu. Họ đi bể nhiều nên muốn lên bộ ở ít lâu. Vì thế nhân có khu trường thi bỏ không, các quan mới cho họ vào đấy cho tiện.

Ông cụ người làng Vũ Thạch nói:

− Thưa cụ, tôi vừa mừng hụt mà bây giờ thành lo thật, tôi thấy lính đến mở dọn trường thi, tôi tưởng lại mở khoa, chả lại hóa ra ngược đời thế, tôi sợ rằng nuôi ong tay áo!

Bá Kim quay lại nhìn, nể ông cụ nhiều tuổi, nói ôn tồn hơn:

− Ấy chết! Cụ chớ nên nói thế, các quan tỉnh cho phép họ vào đóng tạm ở đấy, chứ có phải quyền ở họ đâu.

Rồi lão quay ra dặn riêng chủ quán, mà như bảo chung mọi người có mặt ở đấy:

− Họ có ra đây, mình cũng phải khéo léo, tỏ ra lịch thiệp một chút, nếu nhỡ ra để thất thố điều gì có hại cho quốc gia đại sự, quan trên bắt tội thì rồi đừng có kêu ca và đừng trách chỗ bà con quen biết không bảo trước…

Bác Hai cũng đành phải vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện, tuy lòng vẫn không ưa gì bọn lính Tây mới đến kia. Bá Kim đi khỏi rồi, bác đắn đo suy nghĩ mãi, không biết nên định liệu thế nào cho phải, bác vội lên hiệu Dụ Hưng Lâu, tìm hỏi Ả Chí. Chú này vừa ở trên Hàng Buồm về, nói cho bác rõ tình hình bọn Khách buôn lớn có vẻ phớn phở với dịp lão quan Đại úy tự Sài Gòn ra, chúng nó coi như là triều đình An Nam đã nhượng bộ cho lão quan Tây kia muốn làm gì cũng được, nên bây giờ chúng nó công nhận vệ về thằng Đồ Phổ Nghĩa. Bác Hai thuật lại việc lính Tây đến đóng ở trường thi và lời Bá Kim dặn dò cho Ả Chí nghe và hỏi cách đối xử lúc này. Ả Chí nói ngay:

− Bác không nên lưỡng lự, cứ nên theo lời Bá Kim, rồi dần dà cố làm quen cầu thân với bọn lính Gia Định. Họ cũng là những người như cánh mình, bị bắt buộc cả…

Ngồi lặng một lúc, Ả Chí nói tiếp:

− Nếu họ thực là khách, như Bá Kim nói, chỉ ra ít lâu xong việc rồi lại trở về, thì công phu bác hầu hạ làm quen với họ cũng đáng. Bất đắc dĩ, mà nó có dã tâm lấn cướp mình, thì bác cũng đã giao thiệp được với bọn nó rồi, nếu bà con ta có mưu đồ đánh tụi nó, thì bác lại có thể giúp đỡ được nhiều cho bà con. Về phần tôi, chúng nó đang thích chí, đang vui mừng, nên tôi cũng cần làm hàng lên bán cho bọn chúng nó phè phỡn ăn mừng rồi tùy cơ ứng biến…

Bác Hai suy nghĩ lời Ả Chí nói có lý, liền ra về dọn dẹp cửa hàng cho sạch sẽ khang trang, sắm sửa thức ăn để đón bọn khách hàng mới lạ. Quả nhiên, đúng như lời Bá Kim nói, từ sáng sớm hôm sau, sau mấy hồi kèn te tò te báo thức, bọn lính đã la cà ra quán của bác ăn quà hoa quả, uống rượu và ngắm cảnh hồ. Hàng của bác đông hẳn lên, nhất là vào buổi trưa và buổi tối. Mới vài ba hôm, bác đã quen thân với mấy anh lính người Sài Gòn. Bọn lính mới đến cũng vẫn còn giữ đủ lễ độ, mải chăm chú sửa sang nơi đóng quân, ngoài ra chỉ đi chơi quanh hồ, đi lại rất trật tự, không hống hách nạt nộ như bọn lính của Đồ Phổ Nghĩa, nên bà con quen hàng bác Hai cũng không ngại ngùng e sợ gì, cứ vào hàng bác ăn uống và xem bọn Tây một thể. Bác càng được dịp khoe với mọi người:

− Mọi năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp khoa thi, cứ vào dạo này là hàng tôi đông khách lắm. Sỹ tử tranh nhau nghỉ ở đây. Năm Dậu này tưởng đã ế. Thế mà mấy hôm nay lại đông hơn cả mọi khi, các “thí sinh” Tây và Sài Gòn vào trường thi cắm lều chõng xong rồi, cứ la cà ra đây suốt ngày!

Bác còn nói đùa thêm:

− Chả biết các ông ấy thi đến bao giờ mới xong!

Mấy ngày đầu qua yên ổn, không có chuyện gì xích mích giữa những người mới đến với dân chúng. Mọi người đang hồi hộp ngóng chờ kết quả của cuộc thương thuyết. Chợt buổi sáng hôm thứ năm sau khi bọn Pháp đã đến Hà Nội và đóng quân yên ổn rồi, một bọn lính đem dán khắp các phố tờ giấy lệnh khổ lớn viết một bên chữ nho, một bên chữ quốc ngữ, dưới có dấu son vuông chữ triện hẳn hoi. Mấy tên lính đem dán hai tờ ở ngay cửa hàng, bác Hai vội chạy ra hỏi:

− Giấy gì vậy?

Một anh lính Sài Gòn đáp:

− Giấy tuyên cáo của quan ba Ngác Nhi Ê đem niêm yết để mọi người cùng biết…

Bác hơi chột dạ, hỏi:

− Sao lại dán ở đây?

− Dán khắp mọi nơi, mọi chỗ có người qua lại.

− Chú đọc tôi nghe nào?

− Tôi chỉ đọc được cái chữ ngoằn ngoèo này thôi, còn bên chữ nho không biết.

− Ừ chú cứ đọc bên chữ ngoằn ngoèo rắn bò kia xem nào.

Anh lính làm ra vẻ thành thạo, giơ tay chỉ cho bác coi và nói:

− Đây, cái chữ quốc ngữ này viết theo vần Tây, phải đọc ngang từ bên tay trái sang bên tay mặt, viết theo dòng ngang chứ không viết dọc như chữ nho bên này. Tôi bắt đầu đọc đấy:

“Tuyên cáo dân chúng Bắc kỳ,

Quan Đại úy Hải quân đặc phái viên Súy phủ Phú Lãng Sa tại Sài Gòn, được toàn quyền thu xếp mọi việc ở Bắc kỳ, tuyên cáo cho mọi người đều biết:

Bản quan ra đây trước hết để giải quyết việc buôn bán. Các quan chức bản xứ ở đây ngăn cản các nhà buôn, không cho đến gặp bản quan bàn cách đặt việc thông thương.

Toàn thể nhân dân hãy yên trí làm ăn. Bản quan ra đến đây là để bảo vệ mọi người dân chống lại sự hà khắc của quan chức An Nam. Quyền lợi buôn bán hiện nay và sau này vĩnh viễn được nước Đại Phú Lãng Sa bảo hộ, bênh vực.

Các phó vương Quảng Đông và Vân Nam đều là bạn thân thiết của bản quan, đều hết sức phù trợ bản quan trong mọi công việc ở Bắc kỳ. Dân chúng chớ sợ quan chức nước An Nam dọa nạt, cứ làm ăn yên ổn.

Tương lai người buôn ở xứ này sẽ được nước Đại Phú Lãng Sa che chở hết sức. Kẻ nào còn giao thiệp với chính quyền An Nam sẽ bị trục xuất ra khỏi nước này.

Về thuế thương chính, từ nay chỉ phải nộp thuế cho quan nước Đại Phú thôi.

Viết tại Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm Thiên chúa giáng sinh thứ 1873.

Đại úy Hải quân

Đặc phái viên toàn quyền nước Đại Phú

An Nghiệp đã ký”.

Tên lính đọc xong, hỏi lại bác:

− Tôi đọc hết rồi đấy, bác chủ đã hiểu chưa?

− Sao ông quan ba ông ấy lại tuyên cáo như thế nhỉ?

− Phải tuyên cáo như thế để mọi người biết rằng ông ấy ra đây là để mở rộng việc buôn bán, thông thương đi lại.

− Thế không phải hắn ra để xin bồi thường cho ta những thiệt hại mà bọn Đồ Phổ Nghĩa đã phá phách ở đây à?

− Đền gì? Có nó bắt đền mình thì có. Tây có bao giờ nó chịu đền ai! Anh lính Sài Gòn kéo bác ra một bên và nói nhỏ vào tai. Ông chủ quán ơi, ông thực thà quá. Tây nó khinh mình ngu nên đi đến đâu, nó cũng cứ làm bừa đi, rồi bắt mình phải theo. Nó bảo để khai hóa cho mình. Không nghe, nó cứ cột vào cổ bắt phải theo. Ở trong lục tỉnh, nó đều ức chế như thế cả đấy…

Bác Hai hỏi vớt vát:

− Thế sao ở ngoài này cứ bảo đợi đón phái viên ở trong ấy ra thương thuyết…

− Cũng có thương thuyết đấy chứ, anh lính kia nói, nhưng ông ba đây, ông ấy lại muốn được mọi quyền tự do như ở trong Sài Gòn, chắc là mấy ông quan ở ngoài này không chịu… Nhưng không chịu thì phải thế nào, chứ cứ ỉm đi là nó càng làm già, nó lấn dần, rồi đến cũng như chúng tôi ở trong ấy đấy…

− Min ván sanh 1 có mau lên không?

1 . Mil vingt cinq: Một nghìn hai mươi nhăm, số lính của anh lính ấy.

Nghe tiếng gọi, anh lính vội chạy ra nhập bọn đem giấy đi dán nơi khác, để lại một mình bác Hai đứng đờ đẫn trước tờ yết thị, mắt đăm chiêu nhìn vào cái dấu vuông khắc nổi rõ sáu chữ: “Đại Phú quốc bảo hộ dân” 2 . Bác bỗng bật ra tiếng cười chua chát tự lẩm bẩm:

2 . Nước Đại Phú bảo vệ dân.

− Vua quan cũng xoen xoét là bảo hộ che chở dân, bây giờ Tây đến cũng lại nhận là che chở bảo hộ dân. Ai cũng bảo hộ thế thì thằng dân chết bỏ mẹ thằng dân, đến cái khố cũng không còn! Cũng lại tuồng đồ phi nghĩa cả thôi! Phải đi hỏi Ả Chí xem sao.

Bác quay vào bảo vợ coi hàng, rồi trở ra đi một mạch lên chợ Hàng Bè vào hiệu Dụ Hưng Lâu, giữa lúc mấy người khách ăn phở đang bàn tán về giấy yết thị ở các phố. Bác không nghe gì cả chạy thẳng vào bếp, thấy Ả Chí đang mổ mấy con vịt, hỏi ngay:

− Chú Chí đã biết gì chưa?

− Gì cơ? Ả Chí hỏi rồi ngẩng lên nhìn nói tiếp. À giấy dán à? Biết rồi. Sao?

− Chú tính thế nào? Bác ngồi xuống mổ hộ một con vịt và hỏi thêm.

− Chắc nó làm già để ép buộc các quan ta phải nhượng bộ nó. Nhưng chả rõ các ông lớn nghĩ sao, chả thấy làm gì cả, chỉ có một cách là ngăn giữ dân chúng thôi.

− Chú đã xem tờ yết thị chưa?

− Chưa, mới nghe nói thôi!

− Nó làm như đây là đất riêng của nó. Nó cấm dân chúng đi theo quan An Nam.

− Láo đến thế kia à? Chú Chí cười hỏi. Thế mà các quan ta để yên thì quả là các ngài vô mưu, khiếp nhược… À thế thì bác về khẽ bảo cô Xuyến lại đây, bác bảo cháu Hiền nó đi nó tìm cô ấy lại đây tôi bàn cái này…

− Gì vậy chú? Bác Hai ngập ngừng muốn hỏi cho rõ.

− À chả lúc này, bên nào cũng còn lỏng lẻo cả, nó như quân hồi vô lệnh ấy mà, ta cứ phá một cái chơi, ta làm lấy đà rồi các nơi họ sẽ noi theo, họ làm ngay. Ai mà chả tức kia chứ!

− Tôi cũng nghĩ thế. Được, để tôi đi tìm. Bác Hai nói rồi vui vẻ đứng lên đi liền.

Ả Chí nói với theo:

− Mau lên bác nhé. Mà này cố mà bán hàng cho khéo nhá, mà phải bàn bạc cho bà ấy nghe ra, chứ bỏ cửa hàng bây giờ là có đứa nó chiếm ngay mất đấy.

Bác Hai gật đầu rồi đi ngay tìm cô Xuyến và về nhà giục con đi theo cô Xuyến cùng lên gặp chú Chí. Bác thoáng nghe chú Chí nhờ gọi hộ bọn con gái là bác hiểu ngay ý định của Ả Chí, nên bác cũng để ý rình muốn xé tờ giấy tuyên cáo ở trước nhà. Nhưng một là trong cửa hàng vẫn thúc thắc có khách ra vào, và bọn lính Tây chia phiên nhau nghỉ, lúc nào cũng có đứa ngồi la cà ở ngoài hàng này, hai là nơi cửa hàng bác lộ liễu quá, mà lại rõ rệt một mình không tránh lẩn, đổ lẫn vào đâu được, nên bác cũng thấy sờ sợ, không dám liều xé tờ giấy như cái gai trước mắt kia. Bác cứ lúng túng, lóng ngóng, ra ra, vào vào, không được bình tĩnh vui vẻ như mấy hôm trước. Đến xế trưa, mấy tên lính Tây cầm một tờ giấy yết thị bị xé rách đi với một tên thông ngôn, xồng xộc vào hàng, gọi bác ra hỏi:

− Tại sao các quan tuyên cáo bảo vệ dân, mà lại có kẻ cả gan xé tuyên cáo đi thế? Có phải là do các quan trên cho lệnh không?

Bác Hai giật mình, trông ra ngoài cửa thấy tờ giấy vẫn còn, bình tĩnh hỏi lại:

− Xé ở đâu thế?

− Ở ngay cái đình ngoài kia, tên thông ngôn nói, giữa lối đi lại.

− Đấy là dân họ xé đấy, bác Hai nói thản nhiên. Vì dân đây vốn ghét bọn ông Đồ Phổ Nghĩa dối quan nạt dân, nay quan Tây ra lại bênh ông ta, nên họ tức, họ xé…

Tên thông ngôn xì xồ nói lại cho mấy tên Phú nghe, rồi lại hỏi bác chủ quán:

− Thế dân không ghét bọn quan An Nam hà khắc à?

− Quan nào hà khắc thì dân ghét, và cùng lắm thì dân chống lại, kiện lên trên, bác Hai vẫn nói thản nhiên. Nhưng những quan tốt thì dân ái mộ. Còn người ngoài đến mà nạt dân, giết người như ông Đồ Phổ Nghĩa thì dân họ muốn giết ngay hay đuổi đi cho sớm. Chỉ tại các quan ở đây không cho, ngăn cấm không cho họ làm như thế. Chứ không họ đã tống khứ bọn Đồ Phổ Nghĩa xéo sớm rồi.

Tên thông ngôn giảng giải:

− Nhưng các quan Đại Phú Lãng Sa ra đây để bảo hộ dân kia mà.

− Nào họ có thấy bảo hộ đâu? Bác Hai cũng nói hăng hái hơn. Bảo hộ sao không hỏi đến tội cướp của giết người của bọn Đồ Phổ Nghĩa, mà lại chiếm đóng mất trường thi giữa vào khoa thi, con em dân không thi được, bảo hộ lại đi cấm người dân không được giao thiệp với quan chức người Nam!...

Vừa lúc ấy, một tên lính Sài Gòn ở ngoài chạy xổ vào nói hớt hải:

− Tờ tuyên cáo ở đây mà cũng bị xé à? Quân to gan thật, bắt ngay chủ quản truy cho ra.

Bác Hai vừa thoáng thấy con gái bác đi qua cửa lúc bọn Tây vào, bác hồi hộp lo sợ, nhưng trấn tĩnh được ngay, phân trần với bọn Tây:

− Đấy các ông xem, các ông vừa vào tờ giấy vẫn còn, các ông còn đang ngồi đây hỏi vặn tôi, ấy thế mà tờ giấy đã biến mất. Dân họ tức thì họ có sợ gì đâu. Có các ông làm chứng cho đấy. Không có thì tôi đến bị liên lụy oan.

Thấy mấy tên kia còn ngồi im, hoặc nói chuyện riêng với nhau, bác liền hỏi ngay:

− Tôi hỏi khí không phải, các ông dạy cho tôi hiểu ra nhẽ nhá. Tại sao tôi thấy các ông nói quan lớn chủ tướng của các ông tên là Ngác Nhe, mà ở tờ tuyên cáo lại ký tên là An Nghiệp, hay An Nghiệp là tước phong?

Anh lính Sài Gòn cười nhe răng vàng nói:

− Trong quân ngũ, binh lính chúng tôi gọi là quan ba Gác Nhi Ê, vì tên ngài là Phăng Si Gác Nhi Ê 1 . Còn vì sao lại ký tên là An Nghiệp thì xin cứ hỏi ông thông ngôn này.

1 . Francis Garnier.

Hắn cười khì khì chỉ tay sang người thông ngôn đang nói gì với mấy tên lính Pháp. Anh thông ngôn nghe nói, quay ra giảng:

− An Nghiệp là ở yên, giữ yên cơ nghiệp mà làm ăn. Quan lớn ra đây cốt làm cho dân yên ổn, an cư lạc nghiệp, nên mới lấy tên như vậy.

Bác Hai nói:

− Từ khi ông Đồ Phổ Nghĩa đến đây gây ra lắm chuyện rắc rối, dân không được yên ổn. Vậy muốn cho dân an cư lạc nghiệp, chỉ việc bảo bọn ông Đồ Phổ Nghĩa rút đi, đừng để bọn lính khách, lính Tây nghênh ngang ngoài phố, gây chuyện nữa là được, việc gì phải đặt tên ngụ ý, có tên mà không thực cũng chả ai tin.

Tên thông ngôn cáu gắt:

− Anh ngu bỏ mẹ đi ấy! Nói với anh tức anh ách. Người ta đem ánh văn minh đến mở mang trí óc cho mà chẳng biết gì cả. Đồ con lợn! Ưa nhẹ không ưa, ưa nặng!

Thấy bác ngồi im, hắn huênh hoang nói tiếp:

− Tây nó đến đây, nó không chịu về không đâu nhé. Nơi nào còn ngu tối, nó phải đến khai hóa, mở mày mở mặt cho. Không nghe, nó nện cho ấy chứ. Đấy rồi xem.

Bác Hai bỗng cười gằn hỏi:

− À ra An Nghiệp là như thế đấy à? Ngu tối cái gì mà phải khai hóa kia chứ?

− Nhà cửa bẩn thỉu, đường sá lội lặm, tên thông ngôn nói với vẻ tự đắc khinh miệt, ngay như cái hàng của anh đây không có chỗ nào đáng ghé đít ngồi. Chúng nó khổ lắm, nên chúng nó phải ở đây khai hóa dạy bảo cho làm đường sá khang trang, nhà cao cửa rộng, lầu gác nguy nga, để rồi mới thông thương với ngoại quốc được. Đây là nơi cửa ngõ đi lại, nó phải ở lại mở mang cho đẹp đẽ. Bảo không nghe, nó cứ tự ý phải làm, chứ nó sợ à! Rây vào với nó, nó đánh cho mất xác!

Thấy cãi lý với cái tên ăn phải cùi dìa của bọn Tây này cũng vô ích mà chỉ làm cho hắn thêm thù tức, bác Hai đành gật gật ư hữ cho hắn thích chí để hắn dắt bọn Tây đi ra, trong thâm tâm bác nghĩ đúng là cái kiểu kẻ cướp như Đồ Phổ Nghĩa rồi, tự nhiên bác nghĩ đến cái anh lính đi dán tuyên cáo lúc sáng. Bác tự lẩm bẩm:

− Cái anh này còn khá đây! Mình phải làm thân với cậu ta mới được.

Bác liền chạy vào bếp hỏi con gái xem tình hình ở trên phố ra sao. Cô Hiền nói nhỏ:

− Xé hết cả rồi! Chỉ ở mấy phố đông mình mới phải xé trước. Còn ở các phố khác, dân qua đường họ xé cả. Có người còn gan cuộn cả tờ giấy mang đi…

− Có thấy lính tỉnh à? Bác Hai hỏi.

− Không! Đâu lính còn phải ở cả trong thành giữ thành. Có lẽ đến đánh nhau mất!

− Có tìm được cô Cúc à?

− Có. Chỉ có chị ấy và chị Xuyến mới vào được phố Hàng Buồm, nó ngăn canh từ cửa đền Bạch Mã trở ra. Trên kia thì nó giữ cửa ô Quan Chưởng. Chị Xuyến phải dắt con gái chú Hằng Dụ mới đi lọt đấy.

− Tụi Khách thế nào?

− Tụi nhà giàu nhơn nhơn lắm, bọn chúng đang sửa soạn ăn tiệc ở nhà hội quán. Bọn Khách nghèo thì cũng bán được hàng. Chú Chí, chú Sìn bán cả ở trên phố Hàng Giầy… À này thầy…

Bác đã ra ngoài nhà, không nghe thấy con gọi chỉ ngoái lại dặn con:

− Tao phải ở nhà, không thể chạy lên trên chú Sìn như trước được. Mày nhớ gặp chú Sìn hay chú Chí bảo cố xuống đây tao hỏi nhé. Mấy lại, mày cũng liệu cẩn thận kín đáo, chớ có bộp chộp…

Ở ngoài, có tiếng gọi:

- Ông chủ ơi!

Bác vội chạy ra hỏi:

− Bẩm cái gì ạ?

− Ông bán cho mấy quả chuối, bát bún nào!

− Vâng ạ! Bác trả lời và trông ra thấy người lính đi dán giấy ban sáng.

− Chưa đến giờ nghỉ buổi chiều, người lính nói, nhưng xong việc rồi, ông đội, ông ấy rộng cho đi kiếm gì ăn lửng dạ đã rồi tí nữa về ăn cơm.

Bác Hai lấy quà đưa cho người lính và gạ chuyện làm quen:

− Các ông ra lính cho Tây đều lấy tên Tây cả à? Sao nghe gọi khó nhớ quá.

− Gọi theo số ba ngạch đấy, số thứ tự ghi vào sổ lúc tuyển mộ ấy mà, gọi thế để Tây nó dễ nhớ. Min ván sanh là một nghìn hai mươi nhăm. Gọi tên tiếng ta, nó không nhớ được và đọc cũng sai.

− Thế tên ông là gì? Quê ở đâu?

− Tên tôi là Võ Văn Út, người huyện Tân Phước, tỉnh Biên Hòa. Ông chú tôi ngày trước cũng đi lính ra ngoài này đóng ở Sơn Tây. Sơn Tây có gần đây không?

− Sơn Tây cũng không xa lắm. Đây lên đấy độ một ngày đường. Ông vào lính đã lâu chưa? Có phải học tiếng Tây không?

− Nó bắt học chữ quốc ngữ, mà ba năm rồi, tôi đọc vẫn chưa thông đấy!

− Thưa ông, ba năm mà đã đọc được là chóng đấy chứ.

− Không, chậm đấy chứ, cái chữ quốc ngữ học chóng lắm. Có người chỉ học mười hôm là đọc được, viết được. Có tôi là người nhà quê, nông thôn, chân lấm tay bùn quen, đến lượt bắt phải đi lính thì đi, chứ có thiết gì học, nên chỉ võ vẽ.

− Tôi tưởng họ kén chọn lắm, có ai thực bụng tin theo, họ mới cho đi lính chứ.

− Kén chọn gì đâu. Nó cứ theo sổ đinh cũ của các làng, theo số lính đã khai ở sổ mà bắt. Đằng nào rồi cũng phải đi, có ức cũng đành chịu, ngày trước đi lính cho vua cũng thế, mà bây giờ đi lính cho Tây cũng vậy.

Anh lính bỗng nhìn ra cửa nói:

− Ở ngoài này các ông ghê thật. Tây nó đóng kè kè ngay đấy mà giấy tuyên cáo vừa dán xong là các ông xé ngay tức khắc.

Bác Hai vội vàng chống chế:

− Ấy may lúc nãy có mấy ông Tây và ông thông ngôn làm chứng cho đấy, giá không thì đến phải chịu liên lụy oan. Các ông ấy vừa vào trong nhà thì hãy còn mà một lúc sau, các ông vẫn còn ngồi đấy, tờ giấy đã bị xé mất rồi!

− Không, tôi không dọa gì ông chủ đâu, − anh lính cười nói – tôi nói tình thực đấy chứ, dân chúng họ trăm tay nghìn mắt, họ đã định phá cái gì mà chả được.

− Vâng, vâng… bác Hai nói đỡ ngay. Dân họ tức thì họ phá cũng dễ, muôn người như một, họ cùng làm một lúc, làm gì mà chả nhanh.

Bác Hai ngồi ngẫm nghĩ rồi nói tiếp:

− Dân ở đây họ tức cánh ông Đồ Phổ Nghĩa. Nếu các quan Tây ra đây bắt ông Đồ Phổ Nghĩa phải bồi thường thiệt hại cho dân, hoặc bắt ông ấy lui khỏi đây, thì mọi sự yên ổn, dân còn tức vào đâu nữa.

Anh lính Võ Văn Út bỗng cười sặc sụa:

− Ông chủ thực thà quá. Tây nó không chịu lui đâu, nó không khi nào ra đây lại chịu trở về không. Nó sẽ ở ì đây và bênh vực cả lão Đồ Phổ Nghĩa kia đấy.

− Thế họ không thực tâm điều đình thương thuyết à?

− Nó thực tâm ra ở đây đấy, thương thuyết hay không, nó cũng cứ ở đây. Chiếm Gia Định lục tỉnh rồi là nó lần ra đây đấy.

***

Mấy hôm sau tình thế càng có vẻ khẩn cấp hơn. Bọn Pháp đã cho lính đi tuần từ bờ sông đến cửa ô Đông Hà, quành vào Hàng Buồm, và từ cửa ô Tây Long vào đến trường thi. Bọn lính đi tuần được dịp vào hàng bác Hai ăn quà và trò chuyện. Và bác gợi được tin gì hay cũng lại báo lên cho Ả Chí biết. Trước cái cảnh trắng đen không rõ, có vẻ rối loạn đến nơi, bác cũng thấy trong lòng nao núng, mà bạn bè, thân thích đáng tin cậy thì đều xa vắng cả, không biết hỏi ai, bác đã đắn đo nghĩ đến cách chạy đi như người khác, nhưng Ả Chí vẫn khuyên bác cứ ở lại, chưa nên chạy đi đâu vội. Cứ lằng nhăng như thế. Đến một hôm, anh lính Võ Văn Út lại đem đến cho bác một tờ giấy và nói:

− Xin biếu ông chủ một tờ nhé. Hễ ở ngoài cửa kia, người ta có xé đi mất, thì ông đem ra mà dán vào nhé.

− Giấy gì vậy? Bác hỏi.

− Lại giấy tuyên cáo đấy, Võ Văn Út cười thân mật đáp. Bên cứ dán, bên cứ xé, xem bên nào được nào?

− Lại tuyên cáo! Ông đọc cho tôi nghe nhờ một tí nào.

− Đây chỉ có nguyên chữ nho thôi, tôi chỉ biết lõm bõm dăm ba chữ không đọc được. Anh lính lại cười.

Bác Hai cầm lấy tờ giấy, kéo anh lính đứng gần vào bên trong hỏi khẽ:

− Thế nào? Liệu có đánh nhau không?

− Chả biết được! Anh lính tần ngần nói có vẻ suy nghĩ, chúng tôi thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, bảo làm là làm chứ có biết gì đâu. Nhưng Tây nó đã ra đến đây là nó không đi đâu nữa, và nó không chịu lép vế đâu. Nếu các quan ở đây mà chống lại nó là nó đánh đấy.

− Chết nhỉ! Trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi chết! Bác Hai thở dài hỏi. Chúng tôi phải chạy trước đi chứ nhỉ?

− Việc quái gì mà phải chạy. Chúng tôi đã đóng ở gần đây rồi, còn ai dám đến đây nữa mà sợ đánh nhau. Vả có đánh nhau thì cũng chóng ấy mà.

Một anh lính nữa chạy vào gọi anh Út, nghe lõm bõm câu chuyện, nói xen vào:

− Có thế nào, ông chủ cứ cho gia đình vào trong trại ở với chúng tôi.

Hai người lính đi rồi, bác ngồi bần thần suy nghĩ, ruột rối như tơ vò, đang định đợi con gái về hỏi rõ thêm tình hình và bàn cách tiến thoái thế nào, thì chợt ở bên ngoài một người bước vào cùng với tiếng nói, giọng trọ trẹ lơ lớ miền trong:

− Ông chủ ngơi đá? Ông bán cho tui bát nác. Bác Hai trông ra, nhìn kỹ, vội reo lên nói tíu tít:

− A! Cậu Ba! Gớm trông cậu ăn mặc khác hẳn đi mà lại bắt chước giọng đường trong. Tôi ngờ ngợ vì không đúng giọng nên nhận ra ngay. Cậu ở đâu về thế?

Ấm Phách Tự Tháp nhanh nhẹn bước vào ngồi trên cái chõng tre bên bác Hai và nói từ tốn.

− Vừa được thả về đây! Các quan sợ bọn văn hội xui dân làm bậy phá rối cuộc thương thuyết, nên các ngài mời tất cả văn hội lại cho đi bình văn, đọc sách ở tận Ứng Hóa. Có gì lạ không?

− Hình như thương thuyết không xong. Bác Hai đáp. Bọn Tây nó yết thị cấm dân giao thiệp với quan. Mọi quyền đều phải do nó cả. Thế có láo không? Ta đã xé đi hết. Hôm nay nó lại cho dán tờ này đây, cậu đọc cho tôi nghe tí.

Bác Hai với tờ giấy cuộn tròn để trên yên thư cho cậu ấm Phách mở ra và nói tiếp:

− Nó cũng ấn son, chữ triện hẳn hoi ra vẻ lắm, chứ chơi đâu, nó lập tâm tư trước nên mới có những thứ này!

Cậu Ba Tự Tháp, đưa mắt nhìn qua một lượt rồi lên tiếng đọc:

“Từ ngày hôm nay, 15 tháng 11 năm 1873, sông Cái được mở tự do từ bể lên đến Vân Nam. Các tàu Phú Lãng Sa, Y Pha Nho, Trung Quốc, các nước Tây dương và Á Đông đều được tự do xuôi ngược.

Mở cửa Hải Cảng, Ninh Hải và Thái Bình. Thuế thương chính ấn định thống nhất là một trăm phần lấy thuế hai phần.

Hàng hóa đi ngang qua Bắc kỳ lên Vân Nam chỉ đóng thuế một trăm phần lấy một phần.

Hàng hóa của nước Đại Phú Lãng Sa tải từ Sài Gòn lên Vân Nam chỉ phải nộp thuế một nghìn phần lấy năm phần thôi, và đem vào bán ở Bắc kỳ phải nộp thuế một trăm phần lấy một.

Thương nhân các nước vào Bắc kỳ chỉ tùy thuộc các quan Đại Phú, hoàn toàn không thuộc quyền quan lại An Nam.

Các thương nhân ngoại quốc được tự do mua đất làm nhà ở Hà Nội.

Hủy bỏ mọi quyền thương chính của triều đình An Nam ở toàn hạt Bắc kỳ…”

Cậu Ba đọc xong, nhìn đến niên hiệu, chức tước tên ký và dấu son, hỏi bâng quơ:

− Tên thằng này là An Nghiệp à?

− Nó lấy tên chữ nho cho ra vẻ thân dân, bác Hai nói, chứ tên thật nó là Ngác Nhe kia đấy. Thế nào, cậu tính đến phải đánh nhau chứ. Liệu mình có đánh nó không? Đánh cho nó chết nhe răng ra, chứ không thì tức lắm.

Cậu ấm Ba cuộn lại tờ giấy quẳng lên giường, nói thủng thẳng:

− Thương thuyết không xong, có lẽ bây giờ các quan mới biết rõ cái dã tâm của tụi Tây, nên mới chịu thả cánh văn thân ra. Có lẽ đến phải đánh nhau. Hai cụ Cử và cụ Mền định lại ra cả vùng dưới kia tụ tập anh em đánh Tây, nếu chúng nó làm quá…

− Gia đình các cụ có chạy đi không?

− Có, cũng thu xếp cho ra một thể.

− Tôi đây, tôi cũng đang đắn đo định chạy, cậu nghĩ hộ xem có nên không?

Cậu Ba không ngần ngại gì nói ngay:

− Bác không nên chạy. Sở dĩ vừa ra một cái, tôi phải đến đây ngay là để bàn với bác như thế. Bác phải ở lại đây để làm cái trạm bắt mối với chú Khách Dụ Hưng Lâu và báo tin cho anh em bên ngoài. Vả cái chỗ này bây giờ đắc địa lắm, ở ngay sát nách bọn Tây, biết được nhiều tin tức… Bác Kim Cổ bảo tôi ra ngay gặp bác bảo bác cố mà ở lại giữ lấy cửa hàng, không có đứa khác nó ra nó mở tranh mất!

− Ngộ nhỡ đánh nhau thật, Tây nó hung hãn nó giết bừa đi thì sao? Bác Hai hỏi. Nhà tôi mấy hôm nay đâm sợ chỉ nói ra nói vào, đòi rút về nhà quê.

− Không sợ! Cậu Ba nói vẫn một giọng thong thả nhấn mạnh từng tiếng để thuyết phục. Đây ở ngay khu vực nó, nó đã quen biết rồi, thế tất nó phải trọng dụng cửa hàng của bác. Còn bác gái có đòi về cứ để bác ấy với các cháu về nhà quê, nhờ một anh trai tráng nào đến bán hàng giúp bác. Thế là tốt nhất.

Bác Hai ngẫm nghĩ cho là phải, nhưng lại thấy khó tìm người, lẩm bẩm một mình:

− Biết tìm ai bây giờ! Ai người ta dại đâu đâm quàng vào bụi rậm kia chứ mà mong!

Bác ngẩng lên nhìn cậu Ba, nói tiếp:

− Có thằng cháu Tín nhà tôi, để tôi cho gọi nó lên xem nó có ở giúp tôi được không, không thì tôi nhờ nó tìm hộ ở dưới ấy xem có ai không, chứ ở trên này thì khó lắm.

− Bác nghĩ xem ở Trừng Thanh có ai không?

− Có đấy, nhưng cũng khó tin, vả không biết họ có nghe theo mình không?

− Được bác cứ thử xem, nếu cần nói rõ cho họ biết, bác cứ bảo, tôi và cụ Cử sẽ thân đến gặp họ, nói cho họ nghe ra.

− Vâng được thế thì tốt quá. Để cháu Hiền nó về, tôi bảo cháu đi ngay.

− Cháu Hiền đi đâu nhỉ?

− Cháu đi chợ và vào gặp chú Chí một thể!

− Cô Xuyến độ này thế nào?

− Can trường, lắm mưu trí lắm. Xé những tờ giấy của thằng Ngác Nhe hôm nọ là nhờ có cô ấy và cô Cúc trên Vẽ đấy! Hôm nay cô ấy đi vắng, không biết cái của nợ này có rước đi được nhanh không?

Bác Hai vừa nói vừa trỏ vào tờ giấy tuyên cáo để trên giường.

− Cô ấy đi đâu? Cậu Ba hỏi.

− Cô ấy đưa cụ Bá lánh đi ít lâu, sợ để ở ngoài này bọn Khách bang trưởng nó khéo dỗ ngon dỗ ngọt cụ ấy đi với Tây mất.

Cậu Ba cười vui vẻ:

− Lòng cô ấy tốt. Thế cũng hay. Nhưng không biết cô ấy có chọi nổi mưu mô của cụ ấy không, không thì lại trúng kế điệu hổ ly sơn của cụ ấy mất.

Ngừng một lát, cậu nói tiếp, như tin ở sức mình hơn.

− Hễ tìm được anh Tín lên, bác đưa anh ấy lại chơi đằng tôi, tôi nói chuyện riêng với anh ấy nhé. Mà cứ tìm cả cậu nào ở Hà Thanh hay Yên Trung xem. Họ ở ngay đây càng dễ. Nhờ được hai ba người cùng đến giúp việc càng thêm tốt cho mình.

Bác Hai lắc đầu có vẻ ngần ngại:

− Ấy tôi thì tôi sợ hai ba người nhỡ lộ chuyện thì khốn!

Cậu Ba đứng lên gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý:

− Thì hẵng hỏi riêng anh Tín thôi vậy.