← Quay lại trang sách

Chương V

Giời mưa rươi luôn mấy hôm, đường lầy lội đi lại lấm láp. Ông cử Tam Sơn, từ trong Mọc ra đến hàng bác Hai Phúc. Mặt trời mới ló ra từ nửa chiều, giờ đã sà xuống bên dãy tre làng Phục Cổ, nhuộm đỏ ngòm cả một góc trời tây. Quần xắn đến bên trên đầu gối, ông bước xuống cái cầu ao bằng bốn đoạn tre đóng liền làm một bắc nhô ra hồ ở bên phía đầu hàng bác Hai, ông vịn lên đầu cọc cầu, khỏa chân uồm uồm, có ý khua mạnh cho người trong nhà nghe tiếng, nhưng không thấy bóng ai ló ra, ông đoán có lẽ nhà này đi vắng cả chăng? Ông rửa xong lên bờ, buông quần xuống, vuốt phẳng, rồi ung dung bước vào hàng bác Hai. Cửa đã đóng kín, ông lên tiếng gọi, bác Hai ra mở, trông thấy ông vội reo lên, không kịp chào hỏi gì cả:

- May quá, chỉ một tí nữa là nhà cháu lại đi vắng!

- Bận à? Đi đâu? Ông Cử hỏi. Sao không bán hàng? Nhộn lắm à?

- Dạ, dạo này hai bên không ngăn giữ nhau nữa, bác Hai vừa mở to cửa mời ông khách vào vừa nói, hàng họ được mang vào phố, khách ăn họ tụ tập cả ở trên ấy, còn người mình thì cũng không ai thiết đi lại, ế hàng, nên càng có cớ chạy rong…

- Thế định chạy rong đâu đấy?

- Bẩm, tiểu đệ định chạy qua lại hàng chú Sìn một tí.

- À thế có cái chú khách gì ở đấy không? Cái chú mà bác nói khoe với tôi hôm nọ ấy mà.

- Bẩm, may ra thì có, à, giờ có lẽ chú sắp gánh hàng lên bán ở Hàng Buồm.

- À thế cho tôi đi theo đến gặp chú ấy một tí có tiện không?

- Dạ, bẩm được lắm ạ! Chỉ ngại quan bác mệt.

- Tôi đi bộ quen rồi, bác ạ, không sợ. Ông Cử nói quả quyết, rồi ngần ngừ quay vào giường bên cửa sổ nói thêm:

– À này, bác cho tôi mượn bút mực viết câu này gửi tặng quan Đốc. Lúc nãy, đông khách, chưa tiện viết. Mai hay lúc nào bác vào thăm, đem vào giùm nhé. Ông cụ nằm đấy cũng buồn.

- Dạ, đệ không vào được, đệ xin đem lên Hàng Đậu gửi người nhà đem vào ngay trình quan lớn. Ấy quan lớn về trong ấy mới tĩnh dưỡng được, chứ ở ngoài này, vừa ồn lại vừa tức, nó chọc ngay trước mắt.

Bác Hai nói, vừa đi vội vào trong buồng lấy nghiên mực, ống bút và tờ giấy hoa tiên màu hồng, bác mới xin được của hiệu khách Thành Ký bán thuốc bắc trên phố Hàng Buồm, đem ra đưa cho ông Cử. Bác lấy nước mài mực. Ông Cử vuốt phẳng tờ giấy hoa tiên khen:

- Tờ giấy hồng đẹp thế này mà chả biết chữ nghĩa có xứng không? Ông thấm bút vào mực viết một đôi câu đối. Bác Hai vừa mài mực vừa lẩm bẩm đọc, rồi lên tiếng nói:

- Lão huynh đọc to lên cho đệ nghe nhờ tí. Cái dốt là cái tội. Lão huynh viết tháu, đệ không nhận ra được.

Ông Cử vê ngòi bút trên nghiên mực, tháp bút lại rồi đọc ngân nga:

Lòng đủ thấu giời, đau khắc khỏi

Thù còn lấn nước, giận càng sôi!

Ông gấp tờ giấy lại đưa cho bác Hai và nói thêm:

- Viết mấy chữ phá lề lối, cốt mong quan Đốc mau khỏi. Bác Hai đế ngay:

- Ấy lão huynh viết thiết thực như thế, quan Đốc sẽ bớt được một phần nghĩ ngợi mà mau khỏi thật đấy. Người ta thường bảo văn chương của các bậc cao sỹ, đanh thép, quỷ thần kinh sợ, chữa khỏi bệnh đấy.

Ông Cử cười đứng lên nói:

- Bác cũng khéo tán rộng thế. Thôi ta đi đi! Hai người cùng bước ra hè. Bác Hai khép chuồng cửa bướm lại, rồi bước xuống sân theo ra đường, đi vượt lên nói:

- Tôi dẫn lão huynh đi vào thôn Yên Trường, đường lát gạch bổ cau dễ đi, lối ngoài này còn lội lắm.

- Được tùy bác, bác dẫn đi đâu tôi cũng đi.

Hai người đi song song bên nhau đến cửa đền Bà Chúa, quành ra sau đền, rồi bác Hai đi trước tiến theo đường gạch vào trong xóm. Yên tĩnh quá, loáng thoáng trên dăm ba mái nhà, làn khói lam nhè nhẹ bốc lên là là, trên đường dăm sáu người đi làm về rảo bước, tươi cười chào bác Phúc rồi vượt đi. Ở ao làng, một vài cô đang lội xuống bậc vén cao ống quần lên rửa chân, cái mớ tóc đuôi gà trong vành khăn đang phất phơ đằng sau gáy theo với nhịp toàn thân uyển chuyển do hai bàn chân đang kỳ cọ. Cảnh thanh bình quá, ông Cử thốt nhiên hỏi:

- Thái bình yên ấm quá nhỉ? Mấy hôm nọ cũng thế à?

- Cũng thế. Vì những người giàu có ở làng này, họ sợ đánh nhau, họ đã chạy ra vùng nhà quê cả rồi. Còn ở đây ở nhà chỉ có những người đi làm ở các phường. Vì thế trong làng vắng vẻ. Trong làng sạch sẽ, nhưng không có gì, nên bọn lính Khách nó cũng biết, nó không đến đây bao giờ.

- Vào đến đây, tôi tưởng như vào một làng ở xa xôi lắm, như ở Hưng Yên, trên bờ sông Luộc…

- Ấy, thế đố lão huynh biết hết thôn này rồi đến gì đây?

Ông Cử trông theo tay bác Hai, thấy ra khỏi thôn có mấy tấm ruộng lúa nếp hoa vàng trĩu hạt, mấy vườn rau, rồi đến thôn xóm nữa. Ông chưa kịp nói, bác Hai đã đỡ ngay:

- Chính con đường này chạy qua bãi Hàng Bè thẳng lên phố Hàng Tre, tre nứa xếp đống ngổn ngang kia. Xóm kia tức là đầu thôn Trang Lâu.

- Thôn Trang Lâu trước kia liền với thôn Nam Phố, tức là Hàng Bè bây giờ. Trước kia bãi sông vào mãi đến tận đây, phố tức là một bên là bờ sông, bên kia bờ, dân cư ở thành dãy dài. Nam phố bây giờ không còn sống nữa, làng đã ở lùi vào phía trong phố và đổi tên là Gia Ngư, còn bè tre nứa gỗ bây giờ ở tít ngoài xa, mãi bên ngoài phố hàng Tre. Bác trông có mênh mông vắng vẻ không?

- Cũng tại tụi Tây nó đậu thuyền ở ngoài sông kia, nên khu vực ít tre gỗ hẳn đi, và người đến mua bán cũng ít, phố này thành ra vắng vẻ, chưa chiều tối đã vắng như bãi tha ma, chứ dạo trước khu này rộn rịp đông vui suốt từ sáng sớm cho đến tối. Hàng đệ cũng vắng lây vì thế đấy.

- Ừ, thời thế thay đổi cũng mau đấy chứ. Hai người đã tắt qua bãi, lên phố rồi vào chợ Hàng Bè, đến hiệu Dụ Hưng Lâu, hàng đã đóng cửa, chú Sìn đi vắng, chỉ thấy Ả Chí đang loay hoay nhóm lửa vào bếp một bên gánh phở. Bác Phúc bước vào trước hỏi:

- Đã đi rồi à?

Rồi bác giới thiệu ngay ông Cử với Ả Chí và quay ra nói với ông bạn già:

- Chú Sìn đã gánh cháo và sực tắc lên trên phố Hàng Buồm bán rồi, ở đây đèn đóm lách cách và tối, khách họ cũng ít xuống. Chú Chí cũng sắp một gánh đi. Mời lão huynh vào, may vừa gặp, nói chuyện ở đây tiện hơn ở trên kia.

Ông Cử bước vào nhà. Hai người chào nhau. Ả Chí khêu to ngọn đèn dầu lạc để sẵn trên bàn, giương mắt trân trân nhìn ông khách mới như dò xét xem tướng, sau cùng có lẽ nhận thấy một ông già đạo mạo, quắc thước, nói năng từ tốn, chú mới nói xin lỗi bằng một thứ tiếng Việt chưa sõi lắm:

- Thưa tôn ông, đệ là dân kiều ngụ cục cằn, nói chào thô lỗ, xin tôn ông xá cho. Tôn ông cũng như ông Hai đây, đệ biết đều là những người rất tốt, biết quý người, hay giúp đỡ người, nên đệ rất thích được hầu chuyện ông Hai đấy, và nay lại được hân hạnh thừa tiếp tôn ông, đệ rất lấy làm sung sướng.

Ông Cử nói mấy câu xã giao làm quen bằng tiếng Khách. Bác Phúc trố mắt nhìn, hỏi:

- Lão huynh nói sõi tiếng Tàu thế cơ à?

- Tôi đã học nói khi tôi làm tài công cho hiệu khách ở Ninh Hải, ông Cử nói, tôi tập nói lại để chú Chí nghe xem có hiểu không?

Bác Hai ngồi xuống đất bỏ thêm củi vào bếp đang nhóm và xếp gọn một ít củi khô, bỏ vào hòm gánh ở dưới gầm cái tủ gánh đựng bát đĩa, thịt gà và gia vị, rồi nói với hai người:

- Hai vị cứ yên trí nói chuyện, tôi gánh hàng đi trước cho.

- Chậm một tí cũng được, bán về khuya cơ mà, giờ đã có ai ăn.

Ả Chí nói vậy, ông Cử cũng tiếp:

- Nếu cần đi ngay, tôi xin đi theo xem quang cảnh phố một tí cũng được. Có chuyện gì kín lắm đâu.

- Cứ ở nhà một lúc đã, tối hẳn hãy đi. Ả Chí vẫn nói.

Ba người ngồi lại nói chuyện với nhau, sau mấy câu xã giao thăm dò như thường lệ, Ả Chí không còn e ngại gì nữa, nói ngay:

- Đệ thấy ông Hai đây nói đến tiên sinh, đệ vẫn ước ao được gặp để mong biết được cao ý đối với việc đời nay. Tính đệ cứ thẳng tuột ruột ngựa, biết thế nào nói thế, không dám ba hoa văn vẻ. Đệ qua ở bên này đã lâu, đệ nghĩ rằng mọi khổ cực điêu linh ở đây hiện nay đều do bọn Tây dương mà ra cả. Tụi nó mà đắc thời đắc thế thì còn là chết ạ! Có phải thế không quan bác? Vậy đáng lẽ ta phải sớm chặn nó lại. Nhưng quan bác ạ, triều đình và quan lớn có lẽ không biết đấy vào đâu. Bên Đại Thanh cũng thế và bên An Nam này cũng thế. Họ chỉ biết nhường nhịn bọn Tây để kiếm lợi riêng. Tổng binh Trần Vân Quý đấy, Hiệu úy Lý Dương Tài đấy, bọn chúng đi ấy giấy của Phùng Đề đốc Quảng Tây để bênh vực Đồ Phổ Nghĩa tác oai tác phúc ở đây. Còn các quan chức ở đây, từ tỉnh đến huyện cứ ngồi im, mặc cho Tây dương hoành hành. Có phải thế không quan bác? Và nguyên do tại sao?

Ông Cử vui miệng trả lời ngay:

- Tại họ nhút nhát, tham sống sợ chết…

Ả Chí nói tiếp ngay:

- Tại vì họ còn mong có lời, lợi lộc và sự tọa hưởng yên thân đã vít tối mắt họ lại, tôi xem họ hoạnh họe tôi mấy lần, tôi rõ lắm. Nhưng còn dân thì khác. Dân chúng trăm họ vốn ghét bọn giặc ngoài hung hãn, trăm người như một, ai cũng căm tức. Nhân cái đà dân đang căm tức, ta lựa chiều chặn nó được tí nào hay tí ấy. Trận phục kích hôm nọ hay đấy, chúng nó sợ đáo để. Nhưng bọn quan ở đây tồi quá, chỉ ăn tham cho béo, lúc thường thì hống hách bắt nạt dân, bòn rút của dân, đến khi lâm nguy thì rồi cũng đành đánh trống lảng, chỉ còn trông nhờ ở dân cả thôi. Dân mà không làm gì được, họ sẽ sẵn sàng luồn cúi bọn giặc mà thôi.

Bác Hai sốt ruột nói:

- Chán quá, sao chú nói ít với tôi, mà thấy lão huynh tôi, chú lại nói nhiều thế? Lão huynh tôi là bậc khoa bảng danh sỹ đã trải đời nhiều, chú nói ít lão huynh tôi cũng đã hiểu rồi…

Ông Cử vội ngắt:

- Cái anh này chỉ quen thói cộc cằn, chú là người ngoài, chú có nói, mình nghe mới sáng mắt ra chứ!

Ông quay ra nói với Ả Chí:

- Chú xá lỗi cho, bác Hai nhà tôi nông nổi, chỉ muốn nói ngay một là một, hai là hai, không thích người ta bàn đến xa xôi… vả lại bác ta sốt ruột cũng vì tình trạng bây giờ đúng như chú nói đấy, nên chúng tôi muốn đến nhờ chú giúp thêm, vì hai dân nước chúng ta như môi với răng, môi hở thì răng lạnh…

- Không, ông Hai tính thực và thẳng, Ả Chí nói, tôi biết lắm. Trông thấy cái gì ngang trái bất công thì tức. Bọn Khách chúng tôi cũng thế. Nhưng mỗi người nghĩ theo cái chí của mình có sâu rộng khác nhau. Có bọn đi theo Tây dương. Nhưng tôi thì tôi ghét cay ghét đắng bọn ấy, vì bọn ấy xảo quyệt, xui nguyên giục bị để tàn hại dân lành, vơ vét cho đầy túi tham của chúng, ở bên nước tôi và ở bên nước tiên sinh đây cũng vậy, nên tôi không thể nào theo chúng nó được…

- Nghe bác Hai nói, ông Cử ngắt, tôi biết chú là người có chí lớn, hôm nay được gặp, quả là chú có lòng nghĩa khí, anh hùng ẩn tích, giữa đường gặp sự bất bằng, không thể nào ngồi yên được. Cho nên hạnh ngộ đây, tôi muốn bàn với chú xem trong tình trạng bây giờ, hai bên họ đã hòa hoãn với nhau, không găng quá như trước, anh em chúng tôi có nên làm gì nữa không, hay là cứ theo lệnh quan trên yên trí mà làm ăn ở nhà, cho được yên ổn cả.

Ả Chí cười nói lưỡng:

- Quan bác dạy vậy, chứ đệ nói chắc nào quan bác đã tin. Nhưng mà đệ nghĩ rằng, bây giờ dân An Nam ở đây ai cũng ghét Tây, mình chống lại Tây ai cũng thích, mà cũng do cái trận cản nó hôm nọ mà nó mới êm êm đi một ít đấy. Nay nó đã lấy nê được quan nể, về hùa với nó rồi, nếu ta không làm gì thì rồi nó đè ép nữa cho mà xem, nó đè cả người Nam và người Khách cho ngóc đầu lên không được ấy.

- Ấy thế nên chúng tôi mới tìm đến bàn với chú.

- Đệ thì cô thân một mình một ý, Ả Chí nói tiếp, giọng trở nên nghiêm trang hơn, không có vây cánh, chẳng dám lạm bàn. Nhưng tôi nghĩ việc đối xử tử tế với bọn lính Vân Nam bị bắt hôm nọ, rồi lại trả về, làm cho cả bọn rất cảm kích. Cũng vì thế mà mấy hôm nay, bọn lính khách không dám hoạnh họe, nạt nộ dân nữa. Có thể ta nhân cái cơ lính đang dễ dãi và sợ sệt như thế mà làm ngay một việc gì cho chúng nó hoảng một mẻ.

Rồi chú hỏi ngay sang việc khác, đột ngột:

- Nhưng này, người ta thường bảo vô nam dụng nữ, mà bây giờ tôi lại muốn phiền các ông, tuy hữu nam, tôi vẫn muốn dụng riêng nữ, liệu có được không?

- Chú lại định dùng mỹ nhân kế? Ông Cử hỏi:

- Không, chưa phải lúc. Bây giờ tôi nghĩ muốn dùng mấy tay con gái can trường, đi đứng hết sức tự nhiên, nói năng hoạt bát, để thu xếp lừa đánh cho chúng nó những đòn bất ngờ, vì hiện nay đàn bà con gái đi lại trong phố chúng nó đỡ nghi hơn. Chúng nó còn đang muốn ve vãn. Về phía tôi, tôi suy nghĩ mãi chỉ mới có thể tìm cách làm được như thế.

- Chú nghĩ như thế, ông Cử nói, kể cũng chí lý đấy. Việc xé và xóa bỏ những giấy yết thị của bọn Phú Lãng Sa ở mấy phố này thấy nói đều nhờ mưu và công của chú. Đã tin điều trước, ắt nhằm việc sau. Phiền nỗi tôi ít ở đây, không quen biết mấy ở thành phố này, nên không biết ai là người có thể giao phó được. Để chúng tôi về bàn với anh em xem.

Bác Hai bộp chộp nói như vồ ngay lấy:

- Hoài của! Có cô Xuyến độ nọ chạy đến gọi tôi, cái hôm quan Đốc bị nạn ấy mà, chú có nhớ không? Cô ấy tính khí nhẹ nhõm dễ bảo, thích làm việc nghĩa, giúp người. Nhưng ác cái cô ấy lại là con gái lão Bá Kim. Người ta đang nghi lão về bè với Tây…

- Càng tốt, Ả Chí nói luôn, con ông Bá Kim càng dễ làm việc, vì ông ta đang làm việc quan, khắp mấy bang Phúc Kiến, Quảng Đông ở đây, ai là không biết, ông ta lại đang đi lại chơi thân với các ông Huỳnh Lục Ký, Lê Đạt Ký. Có cô ấy giúp, ra vào, quanh quẩn mấy phố khách này càng khỏi bị chúng nó nghi ngờ, có phải tốt không quan bác nhỉ?

- Vâng! Ông Cử đáp. Vả dùng người như dùng gỗ, lấy chỗ tốt, bỏ chỗ xấu, cốt sao cho được việc thì dùng. Có trách thì nên trách những kẻ có quyền hành giành giữ một phương mà cứ làm thinh, mặc kệ, chỉ ngồi đợi lệnh triều đình, rồi muốn ra sao thì ra, chứ trách chi đến hạng người thừa hành… mà lại đi khinh rẻ con cái người ta.

- Ấy cũng cần biết mà ngăn cản đi chứ, bác Hai nói vẫn giữ ý mình. Kẻ ở sát ngay cạnh nách mình, nếu đã nhị tâm, càng dễ thông tỏ ngõ nguồn, dễ phá hại mình lắm. Nhưng nếu lão huynh và chú Chí thấy có thể dùng cô ấy giúp được một tay thì cứ dùng. Vả cô ấy cũng là con người tốt.

- Được, quan bác cứ bảo cô ấy đến đây, Ả Chí nói, và mấy cô nữa càng tốt, rồi ta sẽ bàn xem.

Bác Hai quay lại nói với ông Cử:

- Muốn cho cô ta làm được việc, lão huynh nên bảo cậu ấm Ba khuyên cô ta một tiếng.

- Bác bảo sao? Ông Cử hỏi hơi khó chịu. Có can chi đến cậu ấm?

- Thưa lão huynh, ấy chả là vì cùng lứa tuổi thiếu niên cả, người ta thường mộ nghĩa liên tài 1 mà.

1 . Mến nghĩa thương yêu tài nhau.

- Được, ông Cử cười giục, thế để ta về bàn với bác Cử và cậu Ba. Rồi ông đứng lên nói với Ả Chí:

- Nhất kiến như cựu 2 , xin vâng lời chú dạy, về anh em chúng tôi bàn nhau, không quậy cựa gì lúc này thì cũng ức lắm, chú ạ. Thôi để chú đi bán hàng, kẻo khách ăn họ mong ta…

2 . Mới gặp nhau một lần như quen nhau từ đã lâu.

Hai người chào Ả Chí, rồi bước ra cửa. Bên ngoài giời đã tối hẳn. Giời tạnh mát. Trên nền giời quang, những ngôi sao như những chòm cúc bạc óng ánh tỏa ánh sáng mờ nhạt đánh loãng màn đêm nhờ nhờ. Hai bên đường phố, trong những nhà cửa đóng, đã lập lòe ánh đèn sáng. Nhưng tứ phía im ắng. Các lối đi hiện ra lờ mờ trước mặt. Đến ngã ba đầu chợ, bác Hai rẽ vào xóm Gia Ngư và nói với ông Cử:

- Ta đi tắt lối này ra hồ Thái Cực, đi quành sau đình Hàng Đào luồn sang phường Đông Hà gần hơn, lão huynh nhá!

- Ừ! Ông Cử nói. Tùy bác chứ, có dễ đi không?

- Dễ chứ, vừa mới chập tối, nhà nào cũng còn thắp đèn, đường ngõ sáng lắm.

- Thế thì tốt, bác đưa tôi về bác Kim Cổ, rồi đi tìm cậu ấm lại nhá, rồi có cần lên giúp chú Chí ngay thì đi cũng được, mai tôi sẽ bàn thêm với bác. Cái chú này hay đấy, không viển vông.

Hai người ra khỏi xóm Gia Ngư, bước vào phường Thái Cực ở vuông quanh hồ, đi vòng theo nửa bờ phía đông và bờ phía bắc đến phố Hàng Đào chạy bổ dọc phường. Đèn những nhà hai bên phố chiếu sáng ra đường, hai người đến chỗ giữa phố khuất ánh đèn, dừng lại tìm lối. Đây là đình Hàng Đào, ngôi đình to, có sân rộng trông ra hồ, là nơi họp chợ tơ. Những ngày phiên chợ, người các nơi đem tơ nhuộm, tơ dệt, tơ con đến bán rất đông, ngồi khắp cả phố và quanh hồ này. Đang ở những nhà có ánh đèn, vào chỗ tối, bị quáng, ông Cử vịn tay vào tường định sờ soạng lần theo bác Phúc và hỏi:

- Chợ tơ dạo này có đông không?

- Vắng lắm, lão huynh ạ, bác Hai đáp. Chẳng sao cả, nhưng ở ngoài cứ nghe đồn tưởng ghê gớm lắm, khách xa người ta không đến, hàng gần chả bán cho ai. Đến ngay như La Khê, La Cả, họ cũng ngại không dám đem hàng ra bán…

- Thành thử hàng bác cũng ế lây.

- Vâng chính thế.

Đi men hết cái đình chuôi vồ thì vào một cái ngõ ngang, lại có ánh đèn ở trong hắt ra, bác Phúc đi vào cái ngõ có ánh sáng ấy, và lên tiếng hỏi:

- Cụ cả có nhà không? Cháu đi nhờ sau vườn sang xóm Tố Tịch một tí nhá.

Một ông già khỏe mạnh ở trong nhà bước ra sân hỏi ngay:

- Hai Phúc đá? Vào chơi đã! Có món gì hời không?

- Thôi xin phép cụ, cháu vội đi có tí việc.

Bác và ông Cử chào ông cụ, đi qua sân rồi đi thẳng ra cái vườn sau, đến cái góc vườn có một cái cổng xép khép chặt. Bác Hai mở cổng nhường ông Cử ra trước, bác ra sau, khép chặt cổng lại như cũ, rồi đứng lại bảo với ông Cử:

- Từ chỗ này ra cái ao giữa xóm kia tối khó đi, lão huynh vịn vào vai đệ đi cho nó vững và nhanh…

- Được kệ tôi, tôi đi được. Sáng sao và đường khô, dễ đi đấy chứ. Ngập ngừng một lát, ông nói tiếp:

- Ngộ nhỡ có đánh nhau, người ở đây phải thông thuộc đường lối như bác thế mới được.

- Ấy, các phố cổng vẫn đóng đấy, bác Phúc nói với vẻ thỏa thích, nhưng những người khéo lần mò, len lỏi, vẫn đi lại suốt đêm được, không phải qua cổng chính, không bị ai hỏi han cả, vì phố nào nhà nào, người ta cũng có ngõ ngang, có cổng sau.

Ra đến ao Tố Tịch, một khoảng rộng thênh thang, yên tĩnh, không khí mát lạnh, cảnh vật sáng nhờ nhờ, hai người dừng lại nghỉ một lúc, bác Hai nói:

- Cái ao này to lắm, gần bằng nửa hồ Hàng Đào, nên nước ở mạn này trút xuống đây cả, mưa xong là đường khô ngay. Phố Hàng Quạt cũng chung cái ao này đấy. Ao giặt chiếu miến, chiếu hoa ngày xưa đấy.

- Hồi tôi còn trẻ học ở trên này, tối thường ra đây chơi, thấy dân xóm phố phường ra đây giặt giũ đông vui lắm.

- Ấy chả là giời mới mưa rươi trở lạnh, nên vắng đấy, nóng bức ở đây đông lắm. Vả cũng một phần tại thằng Tây.

Hai người lại đi, quặt mấy bước đã sang đến phường Đông Hà xiên thẳng xuống đền đức Thánh Tản, đi một quãng nữa là đến trường học của ông cử Kim Cổ. Nhà vắng vẻ. Khoa thi hương năm nay đình hoãn, học trò không đến học nữa. Vả từ khi ông bị giữ ở trong dinh Tổng đốc rồi được thả về, đội nghĩa sỹ giải tán về làng xóm, càng ít người qua lại nhà ông. Nay được ông bạn già đến thăm đột ngột, giữa lúc tình thế nguy nan này, ông cử Kim Cổ rất vui mừng, hỏi ngay:

- Sao cái ông này lại cứ lần mò đến lúc đêm tối? Lại chuyện gì đây?

- Chẳng chuyện gì cả! Ông cử Tam Sơn nói. Già rồi, đi chậm nên giờ mới lần đến được, có bác Phúc biết đấy.

- Đi mất mặt đâu từ hồi ấy, tưởng là chết đâu rồi. Ông cử Kim Cổ hỏi với vẻ thân mật,trìu mến, anh em lo đông lo tây, mong mỏi mắt chẳng thấy đâu cả giờ mới bò đến!

- Giờ còn mò đến được là may đấy, ông cử Tam Sơn cười đáp. Ngỡ là bị quan trên kết án là phỉ đảng rồi thì còn đâu!

Ông ngoảnh lại bảo bác Phúc còn đang đứng bên cạnh, ngay bậu cửa ra vào:

- Bác làm ơn cố gắng đi mời cậu ấm Ba lên đây nghe nhé!

Bác Hai vâng lời lui ra. Hai ông bạn cùng ngồi trên cái sập, mỗi người cùng ngồi tựa tí tay lên chồng gối xếp bọc vải đỏ, cùng nói chuyện ngay đến việc đối phó với bọn Tây dương. Ông già Tam Sơn hỏi đến việc phiên chế đội nghĩa sỹ, hỏi chi tiết cuộc chiến đấu hôm nọ, hỏi thái độ của dân chúng xóm làng, cách đối xử của quan trên đối với nhân dân, cách đối phó của họ với bọn Tây, bọn Khách. Ông cử Kim Cổ trả lời cặn kẽ mọi chi tiết và nêu rõ cả ý nghĩ đắn đo từng việc một. Ông già Tam Sơn cũng thêm bớt ý kiến, vừa có ý cho câu chuyện thêm vui, vừa có ý để tán thưởng tinh thần ông bạn đã dâng mình vì nghĩa. Sau cùng ông thuật lại cuộc gặp gỡ Ả Chí và ý định đã bàn ở hàng chú Sìn. Ông cử Kim Cổ tán thành luôn, không trù trừ ngẫm nghĩ như thường tình của ông xưa nay. Ông nói:

- Được lắm! Lẽ thứ nhất là cô Xuyến là học trò, tôi biết lắm. Tính tình nó tốt, thích làm việc nghĩa, giúp người. Có thể tin cậy được. Khéo khích lệ, nó càng xông xáo dám làm, mà lại biết cơ mưu quyền biến, biết hâm mộ những hành vi tiết liệt, những bậc chính nhân quân tử. Nó vốn kính trọng con em nhà nho chúng ta. Và ông Bá hình như cũng có ý muốn rắp ranh bắn tin muốn cho nó làm bạn với cậu ấm Ba đấy… Nhưng…

Ông Tam Sơn ngắt:

- Ấy, khó khăn là ở chỗ ấy, binh tình như không thì không sao. Đằng này lại có sự gán ghép như thế rồi, nhỡ ra người ta đồn đại không đâu, thì hỏng bét cả công việc. Cho nên phải dặn cậu Ba hết sức khéo léo cẩn thận lắm mới được.

- Được, không sao! Ông Kim Cổ nói tiếp. Tôi sẽ bảo ban khích lệ cô ta và sẽ giữ gìn cho cậu Ba khỏi điều tiếng.

Vừa lúc ấy, bác Phúc dẫn cậu ấm Phách đến, cậu reo lên:

- Lão huynh đến đây từ hôm qua kia à mà đệ không được biết!...

- Biết muộn càng tốt, ông Kim Cổ cười, nói chòng, mãi đến bây giờ mới có việc liên can đến cậu, cần tìm cậu để bàn đấy.

- Thế cơ à? Cậu ấm hỏi. Hân hạnh quá nhỉ. Việc gì thế? Lành hay dữ?

- Việc lớn nước nhà hẳn hoi, ông già Tam Sơn nói, nếu muốn trọn vẹn cả tư tình, công nghĩa cũng được.

Rồi ông ôn tồn, thân mật mà nghiêm nghị kể lại mưu kế của Ả Chí và ý định của ông Cử và bác Phúc muốn kéo cô Xuyến giúp vào công việc. Ông nhắc lại ý tình của Bá Kim đối với cậu và tấm lòng trong trắng mộ nghĩa của cô và khuyên cậu nên vui vẻ khích lệ cô ta và hết sức giữ gìn tránh mọi sự đồn đại không hay rất dễ xảy ra đối với cậu. Ông cử Kim Cổ cũng nói:

- Mà cậu phải bỏ cái lối hung hăng hay vặc nhau với ông Bá đi. Ai người ta đã bắt bò cậu. Cậu chỉ hay nóng nảy gây chuyện không đâu, chỉ tổ làm cho người ta oán ghét.

Ông cử Tam Sơn cũng nói:

- Phải, chính lúc này lại càng không nên làm mất lòng ai. Ta cần gìn giữ, đề phòng. Nhưng chớ có lộ liễu làm phật ý người ta.

Ông Kim Cổ nói tiếp, trở lại công việc chính:

- Cái Xuyến, tôi sẽ bảo được vả bảo nó rủ thêm một vài cô nữa. Nên khuyên bảo và dạy cả cái cháu Hiền nhà bác Hai cùng làm nữa cũng được. Cháu nó đã lớn. Tôi xem ra cũng tinh khôn đáo để đấy. Ta nói rành rọt, nó sẽ nghe ra ngay. Được, mai cứ mời các cô ấy lại đây, tôi sẽ nói chuyện ướm thử trước xem sao đã…

Còn một lẽ nữa, tôi thấy nhờ vào Khách trú và để cho bọn con gái hành động lúc này rất lợi và khó bị lộ. Các quan ta tin ở đặc phái viên của nó sắp ra đến đây, nay mai dàn xếp xong, nên cấm ngặt dân ta gây khó dễ với bọn nó, có thể các ngài sẽ bắt giữ bọn nhà nho chúng ta lúc nào chưa biết chừng. Vậy cho bọn trẻ gái nó vùng vẫy thế rất tốt, nếu chúng ta có bị giam giữ, công việc cũng vẫn cứ chạy. À mà này, Ngô huynh và các hiền hữu ạ, trên họ chú ý đến bọn đồng môn chúng ta lắm đấy. Ta chớ có bộp chộp nóng nảy mà lỡ ra họ có cớ buộc tội bọn mình. Cậu Ba nhà mình nên kín đáo, chín chắn hơn nữa đấy cậu ạ.

- Thì từ khi tôn huynh bị giữ đến nay, đệ đã dám hé miệng nói một câu gì hớ hênh đâu, cứ nhũn như con chi chi.

Cậu ấm Tự Tháp từ nãy đến giờ ngồi im nghe hai ông khuyên bảo, mọi ý nghĩa tình cảm đang ngổn ngang trong óc, bề bộn trong lòng, giờ mới lên tiếng phân trần, ông cử Tam Sơn cười, dịu dàng nói đỡ:

- Ấy cũng là dặn phòng xa thế. Không thế thì càng tốt. Ta phải cẩn thận từng lời nói, đừng làm mất lòng ai. Nhưng không phải là sợ sệt không dám làm gì. Đã biết việc làm chính đại quang minh vì dân vì nước, thì thấy điều gì có lợi cho công việc, ta phải quyết làm cho bằng được. Lúc này cần kế sách này, lúc khác cần kế sách khác, không giống nhau, phải tùy cơ ứng biến, không bo bo cố chấp mà cũng chớ có cẩn thận quá mà thành ra sợ sệt. Các hiền hữu nghĩ mà xem, đội nghĩa sỹ của chúng ta cản giặc là rất phải đạo, chúng ta chẳng cần ăn vàng, ăn bạc gì, chẳng mong tranh chức trọng quyền cao gì, cho nên các quan có dọa nạt đi nữa, ta cũng không hề sợ, bắt người này đã có người khác thay. Chỉ sợ ta không biết giữ gìn lấy nhau, để kẻ địch nó mê hoặc được, đánh lừa cho ta cứ ngồi im xem thế sự, cho nó hoàn thành mọi âm mưu của nó đâu vào đấy rồi, rẫy không được nữa, hoặc là để nó lôi kéo được đi theo nó mất. Có sợ là sợ như thế.

- Lão huynh dạy đúng đấy, bác Phúc nói. Mấy hôm nay họ tung tin là bọn đồng môn chống đối triều đình đấy. Nhưng tung thì tung cũng chả ai nghe. Mình làm phải, ai người ta cũng biết và tin theo mình. Kẻ giúp công, người giúp của nhan nhản ra đấy. Chỉ sợ mình không thành tâm, phụ lòng người ta thôi…

Ông cử Tam Sơn nhìn bác Hai nói, chăm chú nghe rồi nói tiếp ngay vào ý ấy:

- Ấy đấy đúng thế, thấy bọn giặc ngoài hống hách lăng nhục người mình ai cũng tức bực, thấy có việc nghĩa cử, mọi người đều hoan nghinh, một kẻ xướng có nghìn vạn người theo. Cho nên tôi lại muốn bàn với các hiền hữu hơi xa một chút. Bọn giặc Tây đến đây viện cớ thông thương mà lấn át khinh miệt dân ta, chực chiếm được nước ta như ở Gia Định, thế mà chúng ta đã tức khí, cùng nhau tụ họp muốn đánh đuổi ngay chúng nó đi cho khuất mắt. Và mọi người dân đều mong muốn như thế cả. Thế thì ngộ nhỡ nó đánh chiếm đất ta thật, các quan thua trận hay đầu hàng nộp thành cho bọn nó, thì anh em ta có cùng với bà con nổi lên đánh nhau thực sự với bọn ấy không?

- Nhất định phải có chứ, cậu ấm Ba nói.

- Nước chưa mất, đã nổi lên hung hăng, ông cử Kim Cổ nói, để mang tiếng chống lại triều đình, lúc nước mất thật, lại không làm gì cả, có ngỡ là người rừng, chó má. Dân chúng người ta chửi cho ấy.

- Đúng thế, ông già Tam Sơn nói, mình không làm, mình không dám làm, thì người khác người ta đứng lên người ta đảm nhiệm công việc ấy, chứ một nước mấy nghìn năm văn hiến, đã bao lần đánh đuổi ngoại xâm, thì người dân không chịu lép một bề đâu. Người ta sẽ nổi lên ở khắp mọi nơi. Vậy ta nói giả thử Tây nó đánh lấy mất cái Hà Thành này – ý chúng nó muốn làm như ở Gia Định đấy – tất chúng ta không thể ngồi yên, phải bỏ bút cầm kiếm chứ, mọi người đều sẽ xông ra giết giặc chứ gì? Nhưng còn cách đánh?

Ông ngừng lại nhìn ba người như dò hỏi. Im lặng như tờ. Mấy chén nước ông Cử vừa rót ra còn bốc khói, không ai nghĩ đến uống nữa. Một lát, ông cử Kim Cổ mới nói:

- Đằng nào thì cũng đánh! Quân lính nó đóng giữ mất cả mọi nơi rồi, thì ta phải kéo cả ra ngoài, rồi tập hợp quân sỹ tụ ngoài mà đánh vào…

- Phải thế, ông già nói, ta lại còn phải biết đến cái nước ngoại công nội ứng chứ. Phải biết rõ cả địch tình. Cho nên thế nào cũng phải có người ở trong này. Những người có chút ít tiếng tăm và những người đã vỡ tiếng bị tình nghi rồi thì không thể nào còn ở lại trong này được nữa. Cho nên tôi muốn bàn với các vị thế này: bác Cử và cậu ấm nhất định không thể ở lại trong này được, nếu ở lại chỉ có là đi theo địch thôi, chứ không nó chẳng để cho yên đâu. Còn bác Hai có thể ở lại được, nhưng ngay từ giờ phải khéo, đừng để chúng nó ngờ… Và ta phải tìm lấy những người tốt, bà con thân thuộc chúng ta, để làm tai mắt cho ta sau này. Ta lại cần dựa thêm vào Khách trú. Bác Phúc cứ bám lấy chú Sìn mà làm ăn, mà lưỡng lợi đấy. Còn đối với Ả Chí, tôi thiết tưởng bác cứ nên giao thiệp thân và chặt hơn nữa, để giúp cho mình thông tỏ ngõ nguồn hơn… Đó là mấy ý kiến thô thiển của tôi, các hiền hữu thử xét xem có phải?

- Lão huynh bàn hơi xa nhưng có phần đúng đấy, cậu ấm gật gù khen. Đệ cũng ngài ngại có thể đánh nhau to đấy. Dân phố họ cũng cảm thấy như thế, nên những cánh khá giả, giàu có, họ đã vận của đi về vùng quê, một chốn đôi nơi cả. Họ đã biết phòng xa thế, ta cũng phải phòng xa chứ.

- Người tốt thì có nhiều, bác Hai nói, dân phường phố đều tốt cả. Nhưng cần có người biết quán xuyến mọi việc, đối phó được với mưu mô quỷ quyệt của địch, nó như cái cọc cho mọi người vịn. Hay là lão huynh lâu nay không ở đây, ít người biết mặt, lúc ấy lão huynh ở lại đây, bảo ban cho bà con theo…

- Tôi già rồi lại càng dễ lộ, ông già cười, nối lời bác Hai. Ấy là tôi bàn ra như vậy, còn nếu cần người như cái cọc, thì rồi lúc ấy bác Cử sẽ tìm ra! Còn bác Hai, tôi biết bác bộc trực và thành tâm lắm. Nhưng muốn giúp đỡ lâu dài cho danh giáo, thì bây giờ cũng nên tỏ ra ít sốt sắng với đồng môn, cho người ngoài khỏi ngờ, có bác Cử và cậu ấm đây biết cho lòng bác là được, có phải không Ngô huynh?

Ông Cử cười đáp:

- Phải, chính vì bác tốt với anh em đồng môn quá, nên bọn ở ngoài họ bảo anh em chúng tôi mê hoặc bác và cho là bác hiếu danh, mượn tiếng chúng tôi. Bây giờ bác cứ lãnh đạm như không là chúng nó mừng, mà chúng tôi rõ cả, chúng tôi không dám trách đâu, trừ phi bác đi theo Tây hẳn, bán rẻ anh em chúng tôi. Nhưng không bao giờ chúng tôi ngờ bác như thế. Bác cứ nên nghe lão huynh.

- Đây là nói chuyện lâu dài, ông già Tam Sơn vui vẻ tiếp, ta phải khôn khéo nhìn xa một tí. Còn bây giờ thì ta cứ việc ta hằng ngày ta làm. Năm nay, trên đã ra lệnh hoãn thi, nhưng ta là học trò ta cứ đọc sách, bác cứ rỗi rãi thì đi chơi quanh, bác Phúc cứ xoay xở, hàng họ ế thì ta chung hàng với khách, chả còn ai dám ngờ nữa…

- Thế còn lão huynh thì làm gì? Cậu ấm hỏi.

- Tôi ấy à? Ông già cười đáp. Vô công rồi nghề, mai tôi cần đến gặp Ả Chí một lần nữa, rồi tôi phải về bên Bắc chứ. Ấy là tôi chỉ bàn góp với các hiền hữu thế thôi, còn công việc ở đây xin tùy ở các hiền hữu chứ. Tôi có phải là người ở luôn đây đâu.

- Lão huynh dạy đúng cả, về phần đệ, đệ xin theo. Thôi, ta đi về để hai lão huynh đi nghỉ kẻo mệt.

Bác Hai bỗng đứng lên, nói thế, rồi rủ cậu ấm cùng về. Ông cử Kim Cổ bảo cậu ấm:

- Cậu Ba không bận gì, ngủ lại ở đây cũng được, nói chuyện tí đã.

Ông cử Tam Sơn dặn bác Hai:

- Bác hẹn chú Chí ngày mai đợi tôi vào lúc nào nhé. À này, giá sáng mai mời chú ấy lại đây chơi thì tốt. Lần đầu ta gặp nhau cả ở đây, rồi sau hẹn gặp nhau ở đâu cũng dễ. Bác thử hỏi xem, rồi sớm mai sang bảo cho biết nhé.

Bác Hai vâng lời chào rồi đi ra.

***

Phố xá được một dạo yên yên. Việc đi lại từ các phường sang các phố Khách trú, nhất là Hàng Buồm, đã dễ dàng hơn trước, tuy không tấp nập, có những người qua các phố và cả những người ở các xóm làng nông thôn đem sản vật vào bán thẳng cho các hiệu khách. Mọi người đang mong mỏi nếu đúng như các quan thông sức, bọn Tây ở Sài Gòn ra thương thuyết chịu đền bồi mọi thứ, cho người của họ ở lại đây buôn bán, thì dân mình có hẹp hòi gì mà chả vui đón khách bốn phương, thì rồi đâu đấy lại yên ổn làm ăn, cái đất Thăng Long này từ xưa vốn là kẻ chợ họp đủ người bốn bể kia mà! Lòng căm phẫn cũng dần nguôi xuống theo với quãng thời gian yên tĩnh, bọn lính Khách và lính Phú ít đi lại hống hách ngoài phố Hàng Buồm. Các phiên chợ đã có đông người hơn, và hàng bác Hai Phúc ở bờ Hồ Gươm cũng đông thêm khách ra vào ăn quà, uống rượu. Có người đã từ lâu không dám ló mặt ra ngoài, nay lại la cà vào quán, gặp người quen kẻ thuộc, cũng nhăn nhở ra vẻ nói cứng:

- Mình là dân kẻ chợ, mình chỉ ghét tụi côn đồ ăn cướp, mình không chơi với, mình không muốn nhìn thấy mặt chúng nó, chứ nếu đến đây thông thương hòa hảo như thế này, thì đâu mình có lẩn tránh…

Bác Hai cười hỏi:

- Thế bây giờ chắc ông anh định lên Hàng Buồm thăm chừng xem Tây nó mua gì, bán gì, để liệu chừng mà xí phần trước chứ gì? Ông anh có được phần, đừng quên nhà cháu nhé.

Ông kia cũng cười đáp:

- Lợi là lợi chung cả, chứ có riêng ai. Phố xá yên ổn, không đùng đoàng, nhốn nháo như mấy hôm nọ, an cư lạc nghiệp, thiên hạ thái bình là phúc cho bà con mình. Còn buôn bán thẳng với họ thì ai tranh được với bọn Khách lớn, tôi có tiền đâu đọ được với các chú ấy mà bác bảo tôi xí phần… mình chỉ mong được yên thân là thích… Êm ả, ngồi uống chén trà, chén rượu thế này…

Bỗng tiếng trống ngũ liên nổi giật lên ở các làng, làng nọ đáp theo làng kia. Mấy người ở trong hàng xô cả ra ngoài. Bác Phúc còn nói kháy ông khách, cùng vội vàng bước ra ngoài hè:

- Êm ả ngồi uống chén trà đã đi đâu mà vội, ông anh?

- Có lẽ lại chưa yên, một ông khách khác đế theo.

Ngoài đường đã có những người chạy ngược lên và tiếng nói lao xao, hấp tấp:

- Cháy! Cháy! Ở ô Đông Hà!

Và văng vẳng đằng xa vọng lại:

- Ối phường phố ôi! Cháy!

- Ối làng nước ôi! Cháy!

Bác Phúc chạy tót trở vào, xuống bếp lấy cái gầu vẫy, dặn vợ trông hàng, rồi ba chân bốn cẳng băng ra đường chạy theo đám người đang ồ ạt chạy đi cứu hỏa, kẻ mang câu liêm, người mang gầu tưới cải, giơ lên tua tủa. Trống vẫn thúc, người bị ứ lại ở phố Hàng Bè. Có tiếng người nói như quát:

- Chia tản ra nhiều toán, vào cứu làng Thanh Hà! Đừng qua Hàng Buồm. Bọn Khách nó không cho vào đâu!

Bọn người liền tỏa ra hai phía, một toán chạy vòng phía bờ sông, một toán chạy tắt qua phường Đại Lợi lên Hàng Đường để quặt rẽ vào làng Thanh Hà. Đến đầu làng, việc chống hỏa đã đang tiến hành, cả bọn mới đến nhập bọn vào công việc ngay. Một ông đứng ở đầu làng chỉ từng người theo từng toán và giao công việc cặn kẽ: toán lên dỡ mái gianh, toán chuyên nước đổ lên mái nhà, toán dọn đồ đạc trong nhà. Những người mới đến không được xông ra chữa cháy. Lính trong thành đã ở sát ngay đám cháy, một viên suất đội chỉ huy toán lính, giơ roi chỉ trỏ nói với mọi người:

- Cháy dãy nhà lá của ông Đồ Phổ Nghĩa. Lính khách họ không cho bà con ta vào. Bà con đem toàn lực cứu lấy xóm này, không rồi giời hanh này, nó lém được sang đến đây, thì rồi hỏa sinh phong 1 , nó lan ra cả mấy thôn mấy phường quanh chợ Đồng Xuân thì nguy!

1 . Lửa sinh ra gió.

Mọi người cố gắng mải miết vẩy nước dập tàn, không cho ngọn lửa ngoài cửa ô loang ra được đến ngoài. Nó chỉ thiêu trụi cái kho chứa hàng của Đồ Phổ Nghĩa. Đám cháy tắt, một số người được mời ở lại lợp nhà và dọn trả đồ đạc giúp xóm Thanh Hà. Còn số đông trở về kéo nhau qua chợ Đồng Xuân, nói chuyện râm ran vui vẻ. Một người nói có vẻ tiếc rẻ:

- Nó dại chứ, nó cứ để chúng mình vào chữa, làm gì mà chẳng dập tắt ngọn lửa, cứu được kho hàng!

- Anh tiếc à? Một người hỏi. Đồ bất nghĩa, cháy cũng đáng.

- Của đời là của chung chứ, anh kia cãi. Vả lại nó đang muốn hòa hảo kia mà, các cậu không xem thông sức à?

- Nó sợ mình vào ăn cướp. Một người khác thêm.

- Thế nên giời mới cướp của nó, nó mới trơ mắt ếch ra!

Vừa về đến ngã tư Cầu Gỗ, thì gặp Bá Kim ở đầu phường Đông Hà đi lại, gọi bác lại hỏi ngay:

- Đi chữa cháy về đá? Có bận lắm không? Đi với tôi xuống chợ mua hộ cái này tí?

- Bẩm mua gì ạ? Sao không lên phố? Chợ bây giờ làm gì có. Bác đứng lại ngần ngừ có ý đợi trả lời.

- Không, đi mua lễ chín, lễ tạ thần Hỏa, Bá Kim đáp.

- À? Thế bẩm cụ sắm lễ chay hay lễ mặn? Bác hỏi. Lễ chay, hoa quả ở trên chợ Đồng Xuân nhiều hơn. Tôi vừa ở đấy.

- Quan huyện bảo sắm lễ mặn, Bá Kim trả lời. Ta cứ vào qua chợ Hàng Bè, nếu không có, ta sẽ lên cả chợ trên. Bác đi với chúng tôi, tôi còn hỏi cái này.

Lão quay lại bảo một anh lính cơ đi theo sau:

- Anh lên Hàng Mã bảo nhà hàng làm cho một cỗ mũ đỏ, một đôi hia đỏ, hàng bà Vân đầu phố ấy, nhà ấy sẵn cả, anh chỉ ngồi đấy đợi họ tô điểm cho thật đỏ tươi rồi đem về nhé. Chỗ nào còn nhờ thì bảo họ phải tô lại cho đẹp.

Anh lính cơ vâng lời, rẽ lối Hàng Đào đi ngược, Bá Kim quay lại bảo bác Phúc và một người nữa đi theo:

- Ta đi tắt vào làng Gia Ngư cho nó gần.

Đi được một quãng, lão nói tiếp:

- Đẩy được anh chàng kia đi và lại nhờ được bác Hai đi hộ, nó dễ mua bán. Lúc này, cái áo nẹp với cái nón dấu chóp nhọn ló mặt ra chợ khó mua bán. Lại thêm cái mặt Bá Kim sở tại nữa thì chả ma nào nó muốn bán của tốt cho đâu. Thế nên bác cứ đứng ra mua hộ, rồi giao cho anh lệ này mang về. Được cái bọn lính lệ quần chùng áo dài cũng ít ai chú ý.

Bác Hai vừa đi theo, vừa hỏi:

- Bẩm thế mua những gì ạ?

- Lễ chay thôi mà, Bá Kim đáp. Chọn lấy một con gà sống thiến béo, gạo nếp có rồi. Ta mua thêm nải chuối ngự hay tiêu cũng được, mùa này có cam, ta mua thêm chục cam. Tiền anh lệ này mang theo đấy, có thiếu bác tạm khất, hay tìm tôi ở trong hàng Dụ Hưng mà lấy thêm. Bác chọn mua cho khéo. Lễ đức Hỏa thần cần nhất phải tinh khiết tố hảo 1 .

1 . Trong sạch tốt đẹp.

Bác Hai đã biết rõ việc mình phải làm rồi, lại được dịp nói đến thần Hỏa, bác hí hửng nói ngay:

- Kể thần Hỏa cũng tài thật, ngài thui trụi ngay cái của phi nghĩa. Thấy bảo đâu cháy sạch sành sanh, không còn tí gì. Thế cụ không lên khám xem sao à?

- Đấy là công việc của cụ Đề, Bá Kim nói.

Vả đây là khu Khách trú, lại là tài sản của Tây dương, nên phải trên tỉnh ra khám kia đấy…

Ngừng một tí, lão ngẫm nghĩ tỏ vẻ ái ngại, nói tiếp:

- Nhưng này, thần Hỏa có thiêng nhưng mà không khéo, dân ta không bị cháy là may rồi. Nhưng còn bọn Tây, dù nó có bất cẩn đi nữa, nó cũng cứ đổ riệt cho là ta xui người đốt cháy tài sản của nó, rồi nó bắt đền ta, cũng sinh ra lôi thôi đấy. Thành ra, giá không cháy vẫn là hơn. Tôi cho là thế nào rồi hai bên cũng lại sừng sộ nhau cho mà xem.

- Tại sao nó lại không để cho ta vào chữa hộ kia chứ, bác Hai nói.

- Ấy đấy, tại nó ngờ ta, nên nó lại càng có thể vin đấy để xoay trở với ta biết chừng.

Vào đến chợ Hàng Bè, mỗi người tỏa đi một ngả theo như Bá Kim đã dặn. Bác Hai đi lùng mua được đủ gà, chuối, cam giao cho anh lính lệ huyện Thọ Xương mang về. Bác vào hàng Dụ Hưng chào Bá Kim để về, lão Bá khen:

- Nhanh nhỉ? Tốt đấy. Tí nữa lên miếu thần Hỏa dự lễ nhé. Chắc lộn xộn thế này cũng chả mấy ai dám đến. Bác cố lên cho nó vui… À này đợi một tí, tôi cũng đi đây.

Nhưng bác Hai không đợi, bác chào rồi vội đi ngay, bác vội về nhà xem con gái có nhà không, hỏi xem thêm tình hình trên khu phố Khách thế nào.

Cô Hiền cũng đi chợ Đình Ngang chưa về. Mấy người khách ngồi chơi trong hàng đang bàn tán về đám cháy ngoài cửa ô Đông Hà. Ai nấy đều có vẻ thích thú, có người lại quá vui vẻ, tán quá rộng, bô bô rượu vào lời ra:

- Cháy thế mà ngọt, chỉ thui sạch cái của phù vân của đồ bất nghĩa! Còn ngoài ra, giời hanh gió lộng thế này mà nguyên vẹn cả, không “ướt át” đâu cả! Đức thần Hỏa thiêng thật. Đồ Phổ Nghĩa rõ ra đồ phi nghĩa nhá!

- Chuyện! Có người tiếp. Đất Thăng Long là trung chi long, con rồng vàng ở giữa, nó mà đã cựa mình là y như rằng nó tiêu tai trừ hạn, trừng phạt kẻ bạc ác bất nhân!

- Thần thánh nào! Rồng phượng nào! Một ông đứng tuổi vừa đi chữa cháy về nói. Không chữa khéo thì nó chả lan ra khắp làng Thanh Hà ấy à? Kể dân mình bây giờ cừ thật, dọn đồ đạc, dỡ mái ra, chuyển nước lên… bây giờ lại lợp lại mái nhà, dọn đồ đạc đâu vào đấy cả, mất mát, hủy hoại chả mấy tí. Mỗi người một tay, biết lo giúp đỡ nhau trong cơn vận hạn, ngăn được kẻ có lòng tham, dụng tâm đi hôi của là được tất, chứ thần thánh nào? Thần thánh nào phù hộ độ trì được ngọn lửa gần rơm khô củi nỏ nó đừng lan ra. Không có bà con ta, thần thánh cũng chịu chứ gì!

Một ông ở ngoài bước vào nghe được nửa quãng nói ngay:

- Có thờ có thiêng, có kiêng có lành chứ, nói thế không được. Dân ta làm ăn là nhờ thần thánh vua bụt phù hộ độ trì cho thì mới được yên hàn, mở mày mở mặt ra đấy chứ. Còn thằng Tây vô thiên vô địa ở đâu đến đây, nó ngỗ ngược lếu láo, nên các ngài phạt.

- Nó ở ngoài sông ấy, sao không ra đấy mà phạt! Cái ông vừa khoe chữa cháy giỏi, nói tiếp ngay. Suýt nữa thì thiêu cả cái tổng Đồng Xuân, thì số phận ai phải chịu? Tây hay ta?

Bác Hai Phúc thấy cần góp vào câu chuyện để dàn hòa và cũng muốn tỏ ra là mình đã được tham dự vào cả mọi việc:

- Các cụ ạ, tôi thiết nghĩ có giời thì cũng phải có ta, có thần thánh vua bụt giúp, nhưng cũng phải có người làm, không dưng dễ các ngài làm thay à? Như cái vụ cháy cửa ô vừa rồi, cũng phải có sức người ta khéo chống chữa mới tránh được ướt át lây. Tôi cho là tụi Tây tụi Khách nó dại chứ, nó để cho dân ta vào chữa thì đâu đến nỗi cháy trụi! Thần thánh các ngài chỉ ra oai cho mà biết, chứ đã nỡ nào…

Ông vừa vào được người đồng tình, vồ ngay lấy:

- Phải, phải! Bác chủ nói chí phải, các ngài mới phạt nhẹ, giơ cao đánh khẽ cho mà sợ, chứ lòng hiếu sinh ai nỡ giết hại cả đoàn tàu… Thần thánh vô tư chỉ trừng phạt những kẻ có tội và còn mở cho đường chạy lại…

- Vâng, bác Hai nói vội như sợ có người tranh, thế nên huyện ta đã mua mũ áo, vàng hương, xôi gà, oản quả lên lễ tạ đức thần Hỏa đấy! Tôi vừa mua hộ bác lệ trong huyện con gà trống thiến béo nặng trình trịch rất tố hảo, như gà nuôi cân lễ khai xuân của ta ấy.

- Có cả áo mũ cơ à? Một người hỏi.

- Vâng, đủ cả, bác Hai trả lời, áo đỏ, mũ đỏ, vàng đỏ, màu đỏ tươi, như hồng huyết…

- Phải, phải, ông cụ vào sau nói, thần Hỏa là đức thiên thần Chúc Dong, trị phương Nam, sắc đỏ nên lễ vật đủ như thế là chu đáo tươm tất lắm, dân ta được yên tâm không lo.

- Thế thần Hỏa trị phương Nam là trị cả nước ta nữa à? Một ông hỏi.

- Đúng vậy, ông cụ vui vẻ trả lời. Cả cái thành Hà Nội này nữa. Cho nên mới bảo quan trên sắm sửa lễ vật chu đáo thế là dân ta được yên tâm.

Bỗng cô Hiền đi chợ về nói lao xao về tin quan huyện bị bọn Tây, bọn Khách giữ lại ở Hàng Buồm, mọi người vội bỏ câu chuyện thần Hỏa chạy xô cả ra vây giữ cô lại, không cho xuống nhà vội, hỏi cho ra đầu đuôi ngọn ngành việc vừa xảy ra. Cô phải đặt gánh xuống đứng lại cầm cái nón phe phẩy quạt và kể:

- Bẩm, cháu cũng không được rõ lắm đâu, chỉ thấy trên phố người ta nói quan huyện Thọ với cụ Đề cùng đi với quan quản phòng thành ra cửa ô khám xét đám cháy, bọn Đồ Phổ Nghĩa nó bắt giữ quan huyện và quan quản lại, chỉ để cụ Đề và lính về thôi. Người ta bảo nó bắt giữ quan huyện và quan quản lại để bắt đền thiệt hại, vì nó cho là có người đốt.

- Thế cô có trông thấy không? Có người hỏi.

- Không ạ, thưa cháu chỉ nghe thấy người ta nói thế thôi ạ, chứ có trông thấy nó giữ quan huyện đâu. Mà bây giờ ở trên ấy, nó không cho ai vào phố Hàng Buồm và quanh bờ sông Tô cả, ai vào là nó bắt giữ lại cả.

- Thế ra loạn à? Một ông buông một lời than.

- Thì trước kia nó chả thế là gì? Một người nói tiếp. Ông quên à? Chỉ tại các quan mình cứ nhân nhượng, không trừng phạt ngay từ đầu, để nhu nhơ, chúng nó coi thường.

- Tại các quan mình khiếp nhược thì có, chứ nhân nhượng gì. Một người nữa nói. Giá cứ để cho dân ta cùng với văn hội đánh bỏ mẹ nó ngay hồi tháng trước thì có còn việc gì mà lôi thôi nữa.

- Hay là có người đốt kho của nó thật? Một ông đắn đo nói.

- Đến đốt cả đoàn tàu của nó, cũng không có thói phép như thế, bác Phúc nói, ai bảo nó đến đây mà hành hung cướp bóc, rồi không coi phép vua luật nước ra gì.

Mọi người lại đều như cùng chịu chung một luồng gió giật, đều bừng bừng phẫn nộ, tuồng như muốn xông ra làm gỏi băm nhỏ bọn kẻ cướp ngoại bang ở đâu đến đây chuyên chiếm của giết người, vu oan giá họa! Cái ông đứng tuổi vừa khen dân mình giỏi chữa cháy, hùng hổ nói:

- Đánh bỏ mẹ nó đi chứ chịu à?

- Nhưng quan trên có cho đánh đâu kia chứ! Ông cử Kim Cổ bị giam đấy, bác không biết à? Một ông nói thong thả rít từng tiếng.

- Thì phóng hỏa đốt hết đi cho nó vô tang, hết của là nó phải xéo! Ông kia vẫn tức tối nói tiếp.

- Ấy chết, đường quang không đi đâm quàng đường rậm, bác Hai nói thong thả chắc nịch như cố làm cho ông kia dịu đi. Mình không đốt, nó còn đương đổ riệt vào cho mình, huống chi ông anh bảo cứ đốt sạch đi, nó vin vào cớ cố ý phá hủy tài sản nhân mạng của nó, thì lấy của đâu mà cho vừa lòng tham của chó đói?

- Thế tôi hỏi bác, ông kia sừng sộ vặn lại, coi bác Hai như kẻ có ý bênh vực cho bọn Tây. Nó đánh người, giết người, cướp của bên ta, ta đã bắt đền được nó chưa?

- Ta còn đợi phái viên của nó ra thương thuyết, bác Phúc vẫn bình tĩnh ôn tồn trả lời.

- Vậy thì ta cứ đốt, ông kia nói vẫn dằn từng tiếng nạt nộ. Bao giờ nó đến đây thương thuyết, cùng kỳ lý ra phải đền, ta sẽ đền. Nó có đền ta, ta mới đền nó chứ.

Một ông ngồi im lặng từ nãy đến giờ, mới ung dung lên tiếng:

- Lý thì như thế đấy. Nhưng nó thì hung hăng gây chuyện, còn các quan ta thì cứ lần lữa nhân nhượng cho êm chuyện. Thế nên được đằng chân nó mới lân đằng đầu chứ. Các ông làm như là các ông đã trị được bọn nó, bắt được nó bỏ rọ rồi, muốn làm gì thì làm. Đấy rồi các ông xem, nó lại chả bắt các quan ta đền è cổ ra, rồi nó mới chịu thả quan huyện ra đấy à! Các ông bàn những chuyện không đâu! Tức thì tức, ai người ta cho mình đánh, mình đốt kia chứ…

Một ông đã ngà ngà say vặc ngay:

- À! Anh muốn về hùa với Tây phải? Ông kia cũng không vừa, cãi lại:

- Tôi nói thật đấy, tôi không sợ đâu, các ông mà nhi nhoe, các quan lớn tỉnh Hà Nội này sẽ cột cổ các ông lại ngay cho mà xem. Thế thì ai về hùa? Tôi thử hỏi các ông có dám làm không nào?

Ông cụ tin thần Hỏa thấy hai người nói đều phải cả mà để cãi nhau lúc này thật là vô lý, ông liền nói dàn hòa cả hai người:

- Chung quy tại thằng bạch quỷ Tây dương cả mà bà con mình đâm ra vặn lý nhau ở đây thì thực là thái vô ích. Mà thật đấy, tôi thiết nghĩ mình có định đánh thì lại đánh cho ra trò, như đạo quân nghĩa sỹ hôm nọ, có bị bắt như ông Cử cũng thỏa, chứ nhùng nhằng chỉ tổ các ông quan có cớ buộc tội mình thì uổng. Cái gì chứ cái việc buộc tội bà con mình thì các ông ấy nhanh lắm. Tôi thì tôi chỉ tâm niệm cầu đức thần Hỏa cứ thiêu cho nó mấy bận nữa là sạch sành sanh. Các quan lễ cầu, dân lễ cầu, thể nào ngài cũng phù hộ độ trì. Tâm động quỷ thần tri mà! Thôi các ông đừng cãi vã nhau nữa. Tôi về tôi đi lễ đây!

Ông cụ đứng lên chào mọi người đi ra liền, một bác trung niên chạy ra cười nói theo:

- Bố đi lễ ở đình đền nào thế cho cháu theo với!

- Còn ở đâu nữa, ông cụ không quay lại, đáp gọn lỏn. Anh hỏi lẩn thẩn, ở đền đức thần Hỏa chứ ở đâu?

- Nhưng đền ở chỗ nào? Cháu chưa biết!

- Ở làng An Trung, gần phố Hàng Điếu, anh đi đến trạm Hà Trung rồi đi thẳng lên.

Cuộc bàn tán sôi nổi về đám cháy thế là tan. Giời đã xế trưa rồi, hàng vắng khách, bác Hai để mặc vợ con, chạy vào bếp khẽ hỏi con gái:

- Này mày có thấy chú Chí đâu à? Lúc nãy tao ở đằng hiệu chú Sìn không thấy, đông khách tao cũng không dám hỏi.

Cô Hiền đã toan nói rõ sự thực về đám cháy cho bố biết, nhưng lại sợ bố bộp chộp hay nói để lộ chuyện, nhỡ ra thì khốn cả lũ, cô đắn đo nói:

- Có, sáng con có gặp chú ở phố Hàng Buồm, rồi không thấy đâu.

- Ấy tao nghĩ hay là chú ấy đốt cũng nên, bác Hai nói.

- Thầy biết đâu mà vội đoán thế? Cô con nói lảng sang chuyện khác: À này thầy có biết chị Cúc trên Vẽ không nhỉ, chị ấy là con gái ông ấm gì vẫn thường vào hàng nhà ta ấy mà?

- Trên Vẽ thì biết bao nhiêu là ông ấm, bác Hai nói thẫn thờ có vẻ suy nghĩ. Phải nói tên người ta mới biết chứ!

- Tại các cụ cứ gọi tôn nhau như thế, cô Hiền cười tiếp lời bố, ông nào cũng là ông ấm Vẽ, ông cử Vẽ cả thì ai biết đâu mà lần. Cái ông ấm mà hay đi với cậu ấm Ba bên Tự Tháp ấy mà!

- À ông ấm Cầu! Bác Hai nói reo lên. Cô ấy là con gái út quan Nghè đấy. Sao? Cô ấy cũng xuống đây đi với bọn mày à?

- Vâng, chị ấy ăn mặc giả Khách, chị ấy nói tiếng Khách, đi lại truyện trò với bọn lính Khách, chị biết được những tên chó má nào hay thì thụt với tụi Tây, tụi Khách, chị bày cách bắt cóc quả tang, chị lại bắt được cả mấy chú lính Khách đem đi nữa, mới tài chứ!

- Thế còn cô Xuyến? Cô ấy có biết không?

- Biết chứ! Chị Xuyến thường cùng giúp vào mới được nhiều việc thế. Hai chị quý nhau lắm.

- Liệu ở ngoài có ai biết chưa? Cụ Bá có bảo sao không?

- Cụ có biết đâu mà bảo sao! Chị Xuyến chị ấy kín lắm, đến ngay cùng bọn, có khi chị ấy cũng không cần bảo cho biết nữa là.

- Tao chỉ sợ cô ấy cũng như mày, có bao nhiêu cái hay về hí hửng khoe với bố hết thì rồi ông Bá ông ấy biết, lộ chuyện ra, người ta bắt cho cả nút.

Cô Hiền cười nói có vẻ trêu bố:

- Chị ấy khôn chứ như thầy ấy. Chị ấy giấu không cho cụ Bá biết. Chị ấy lại khéo dựa vào thím Hằng Dụ để nói dối, cụ Bá vẫn tin không ngờ vực gì cả, thế mới tài.

Băn khoăn đứng ngồi không yên, bác Hai bỏ cửa hàng chạy lại hiệu Dụ Hưng Lâu xem có thấy Ả Chí ở nhà không. Đến nơi, Ả Sìn không đợi đã hỏi ngay:

- Ả Chí vừa quẩy hàng đi rồi, chả chắc có bán được không, khéo không lớ ngớ nó bắt đi thì khốn…

- Sao? Bác Hai hỏi có vẻ sửng sốt.

- Nó đang vây giữ cả phố Hàng Buồm và mạn cửa ô, nó ngờ có người đốt nhà nó đấy. Bác không biết à?

- Thế chú