Chương VIII
Ngay buổi chiều hôm ấy; ông từ đình Xuân Yên đã nhờ một anh thợ thêu ở phố Hàng Nón, nhà ở bên cạnh đền mậu Thuận Mỹ, đi lẻn ra vùng quê Thanh Trì báo tin buồn ấy cho bà con thân thuộc chạy tản cư biết. Anh thợ thêu này vội đi ngay, nên không hỏi rõ đích xác, đã báo theo đúng như Tú Tốn đã kết tội, có ba người bị chém bêu đầu là ông cử Tạ Văn Đình, chú khách Ả Chí và bác Hai Phúc bờ hồ. Ông cử Kim Cổ quyết định cho một số người về lấy thủ cấp và xác bêu của ba vị liệt sỹ tử nạn đem ra ngoài này làm lễ mai táng. Cả bọn hơn hai chục người chia làm ba toán đi theo những lối thông thuộc riêng của vùng mình ở, hẹn nhau gặp lại cả ở thôn Phúc Lâm, quê bác Hai Phúc. Mấy ngày hôm nay, Tây và ngụy kiểm soát canh phòng nghiêm ngặt hơn. Nhưng vì không đủ quân và những quân lính ngụy hiện có đều nơm nớp sợ nhân dân trừng trị, chứ không còn hung hăng hống hách như mấy hôm đầu nữa, nên tối đến, chúng chỉ dám tập trung đông người canh giữ mấy cửa ô chính sát gần thành và mấy ngã tư lớn gần trường thi và nơi đông dân cư. Những thôn ở ba tổng miền tây nam, Kim Liên, Vĩnh Xương, Yên Hòa đều là khu trống, nhân dân ra vào tự nhiên, nhất là trong đêm tối. Cả ba toán quen thuộc đường lối, tránh những nơi có lính ngụy canh, đi thông thống đến ngay thôn Phúc Lâm. Ở đấy, cả bọn họp lại tạm nghỉ chờ đợi, cử riêng hai đoàn gồm năm người thuộc lối nhất: cậu ấm Ba Tự Tháp, anh thợ thêu Hàng Nón, anh Tín, cô Hiền và anh Sản, người thôn Phúc Lâm. Đợi đến khuya, năm người mang theo võng, chiếu buồm mới vượt qua đường Thập Lý, đi qua thôn Vọng Đức, quành cánh đồng vào đầu làng Cựu Lâu, vòng phía sau chùa Liên Trì, đi qua làng Yên Trường lên làng Trang Lâu, vào Nam phố ra chợ Hàng Bè. Bốn bề im lặng, không một tiếng chó sủa. Chỉ có tiếng gió heo may mới nổi từ chập tối thổi từng đợt rào rào. Có lẽ giời cũng oán hờn thương xót người ngay chăng, nên mới hiển linh giúp đỡ thế chăng? Cậu Ba Tự Tháp rỉ tai nói nhỏ với mọi người ý nghĩ của mình để khích thích mấy anh thanh niên. Tiết tháng một giá lạnh, nhưng ai nấy đều đang nóng ran, bừng bừng căm tức và mong mỏi mau chóng thu lượm được di hài trung nghĩa của ba người thân tiết liệt, nên đều mải miết đi, không biết gì đến nguy hiểm cả. Họ lặng lẽ mải miết đi một mạch đến nơi, không vướng gặp một ai. Khu chợ càng thêm hoang vắng hơn nữa. Qua ánh sáng ruồng lờ mờ, mấy người mò mẫm đi tìm khắp các khoảng đất trống đến các lều rỗng đứng riêng ở ngoài, đều không thấy gì cả, cậu ấm Ba hỏi khẽ anh thợ thêu:
− Hay nó chưa xử quyết?
− Nó chém rồi cơ mà! Anh kia đáp. Chính lúc tôi đi đã thấy nói nó quẳng xác chú Khách ở chợ này rồi mà!
Anh Tín sốt ruột muốn lại ngay đằng bờ hồ, nói xen vào:
− Hay là nó đem lại cả đằng vườn dừa rồi. Ra đấy xem đã!
Năm người lại im lặng nhẹ nhàng đi như lướt theo gió ra phía Hồ Gươm. Họ phải đi chếch xuống Trang Lâu rồi mới vòng lên để tránh qua ngã tư, rồi lần mò men theo bờ hồ vào đến vườn dừa. Gió từng cơn qua hồ Thái Cực xuống khoảng hồ dưới này rộng mông mênh càng được thể rít lên ù ù, những tàu lá dừa cứ phất cánh rào rào như cũng cố khua tiếng động và xòe ra che chở cho bọn người mới đến này thực hành được mau gọn ý định thiêng liêng của họ, không thể cho một người ngoài nào có thể biết được. Tiếng gió bốn bên cứ rì rầm họa lại như những tiếng u hồn nhắn gọi xa xăm. Cậu ấm xúc động lẩm nhẩm khấn:
− Lậy ba vị sống khôn chết thiêng, xin ba vị phù hộ độ trì cho chúng tôi được khâm liệm mai táng ba vị mồ yên mả đẹp, phù hộ cho chúng tôi đánh đuổi sạch bọn quỷ Tây, quỷ Đông cướp nước!
Năm người lanh lẹn chia nhau đi lần tìm khắp các gốc dừa. Nhưng quái lạ! Cũng đều không thấy dấu vết gì. Năm người cùng kinh lạ chụm lại như hỏi nhau. Cậu ấm nói:
− Có lẽ nó chưa giết! Nếu nó chém rồi nhất định nó phải bêu đầu ở đây để dọa dân chứ!
Anh thợ thêu nói:
− Tôi đi ngay, cũng chưa được trông thấy, nhưng nhiều người nói đích xác là nó đã xử ngay ba người ở vườn dừa này rồi mà! Hay có người đã đến rước đi trước chúng ta rồi!
Anh Tín nói:
− Các vị trung nghĩa chết bất đắc kỳ tử thiêng lắm, các vị tự thu lấy hài cốt đem ký táng vào đâu đấy. Ta về lập đàn tràng cầu khẩn giải oan cho các vị rồi các vị báo mộng cho.
Cậu ấm gạt đi:
− Cái anh này chỉ nói nhảm, chết trung vì nước, tuẫn tiết, làm sao lại phải giải oan. Tôi chắc như anh gì vừa nói, dân chúng đã nhanh chân hơn bọn ta, dân chúng đã bất chấp cả bọn giặc đe cấm, họ đã mai táng cho ba vị trung nghĩa rồi!
Cô Hiền nghĩ không tìm được thủ cấp và xác cha, quá xúc động và tủi thân, bỗng khóc nức nở. Anh Tín phải ngồi sát lại giơ tay bịt mồm em gái, nói:
− Thôi, nén đau đớn đi em ạ, khóc bây giờ lộ ra thì chết cả nút!
Cậu ấm cũng khuyên:
− Cha chết bất đắc kỳ tử, ai mà chả đau xót! Nhưng phải cố nén đi để báo thù và còn lo nuôi mẹ, nuôi em. Lỡ việc bây giờ là hỏng bét cả đấy!
Mấy người còn đang mải rì rầm sụt sịt, bỗng trong tiếng gió ào ào, có vẳng tiếng chân người đi mau huỳnh huỵch tiếp ngay tiếng quát hỏi:
− Chúng bay tụ tập gì đây, trai gái thế này, phi dâm tắc đạo! 1
1 . Không phải gian dâm với nhau thì là kẻ trộm.
Mấy người nép vào gốc dừa, giữ thế thủ, nghe ngóng. Anh Tín lên tiếng hỏi, bình tĩnh và ngọt ngào:
− Tiếng ai quen quen? Có phải anh Thạch đi tuần đá?
Người kia không tiến lại gần, cứ đứng im một chỗ, nói ra vẻ hách dịch:
− Ai quen gì chúng bay! Đú đởn? Hay chực đi ăn trộm đầu lâu? Đằng nào thì cũng có tội! Khôn hồn thì ra ngay đây! Không tao rúc tù và cho gọi quân lính đến vây bắt bây giờ!
Cậu ấm Ba đủng đỉnh nói:
- Anh cứ rúc tù và cho nhiều người đến đây, tôi lại càng dễ nói là anh đã giấu đầu lâu đi, rồi vu cho chúng tôi, chứ khám bọn chúng tôi chỉ có đầu lâu bọn chúng tôi thôi đấy!
− Gớm, lý sự nhỉ!
− Thôi đừng đùa nữa! Đúng bố Thạch Hà Thanh rồi. Anh phải canh đầu lâu à? Thì đâu cả rồi?
Tín vừa hỏi, người kia đi rón rén lại gần, hạ thấp giọng hỏi:
− Ai. Tín đá? Chết! Định đi đâu đấy? Nhưng ai nữa kia?
− Người Cựu Lâu, Yên Trường cả đây mà! Anh Tín nói vội. Định ra mai táng. Tội nghiệp mấy ông. Nhưng mà đâu cả rồi?
− Không phải người Cựu Lâu, Yên Trường, vì hai thôn ấy họ ra đây từ hồi nẫy. Thôi, yên đẹp cả rồi, về đi! Không nhỡ gặp bọn chó chạy rông thì chết. Đi đi, tôi đưa đến đằng sau chùa Quan Thượng.
Mấy người lại lặng lẽ chống gậy khoác võng đi ra. Anh thợ thêu Hàng Nón nói với anh Tín:
− Thôi đã vào đến đây rồi, để tôi về nhá!
− Liệu có đi được không? Nhỡ ra thì khốn! Cậu ấm Ba nói.
− Được tôi đã có cách, tôi đi luồn vòng qua cái ao Hàng Quạt, anh kia nói. Để đến mai vào lại thêm khó.
Anh Thạch dừng lại nói:
− Này, đừng có mà liều, nó mà vớ được là nó chặt ngay! Cứ ở đây làm tuần phu với tớ, vào kia ngủ khoèo đến gần sáng hãy về.
Năm người lại lặng lẽ đi theo anh dẫn đường. Cậu ấm Ba phấp phỏng lo sợ, không dám tin hẳn vào anh phu tuần này, bỗng hỏi nửa đùa, nửa thực:
− Anh dẫn chúng tôi đi đâu? Ra chùa Quan Thượng hay ra trường thi?
Anh kia nói ngay:
− Tôi dẫn vào đâu cũng được cả, vô phúc anh nào thì anh ấy chết! Tôi đưa các anh về hàng ông Hai là cùng chứ gì?
Anh ngoảnh lại đứng đợi cho bọn kia đi vượt lên, thấy cô Hiền sụt sịt khóc, liền hỏi ngay:
− Sao lại khóc? Sợ à? Con gái đã cả gan vào đây lại còn khóc? Thương thì thương, nhưng chưa chết còn là may!
− Anh nói sao? Ai chưa chết? Tín hỏi giật!
− Ông Hai chứ ai. Nó mới chém có hai người, còn nó cho xuống tàu đi Gia Định cả rồi. Hiện đương ở ngoài giữa sông kia kìa.
− Anh nói dối, Tín nói, anh em tôi phải mò vào đây là tìm xác ông chú tôi.
− Ai còn dám nói dối cái sự can hệ như thế chứ! Anh Thạch nói.
Vẫn ngờ là anh kia nói lảng ra thế để an ủi, và còn đang lo đối phó với mọi tình thế bất trắc, không ai hỏi thêm gì nữa, cứ lặng lẽ đi theo anh kia. Đã qua làng Hà Thanh, sát gần đường Thập Lý bên bờ hồ, mỗi người phải đi tản ra cách nhau xa một tí. Gió heo may ào ào thổi qua mặt hồ, sóng vỗ vào bờ lép bép, oặp oặp, nghe như có tiếng ai nguyền rủa, giận dữ. Nhìn sang thôn Tự Tháp bên kia, mờ mịt đen thẫm một màu chẳng thấy gì cả, cậu ấm sực nhớ đến lời ông bạn già Tam Sơn nói trong quán bác Hai đằng kia mới cách đây hơn một năm. Rõ ràng lúc ấy ông đã có ý lo xa cho cảnh đã dĩ phi! Thế mà nay cảnh khác thật rồi. Quán bên hồ còn kia, mà chủ quán nay không còn ở đấy nữa, vợ con phải siêu dạt đi nơi khác! Còn anh em thì mỗi người tản mát một nơi! Nhà cửa, làng mạc của mình kia mà không được ở, phải lánh đi, chịu để bọn giặc khác giống nó hoành hành! Quán mát bên hồ nay đã thành của riêng của bọn chúng nó rồi. Không thể để như thế được!
Cậu ấm đang mải chìm đắm trong suy nghĩ, anh tuần đi trước thỉnh thoảng dừng lại đợi và đếm số người, thấy thiếu một, vội chạy lại nắm lấy cậu ấm, cáu tiết giục:
− Có mau lên không? Hay muốn la cà đi vào hàng ông Hai để đi theo ông Hai?
Anh Tín cự lại:
− Này anh Thạch ạ, trong lúc hoạn nạn này anh không nên chế nhạo chúng tôi! Anh đưa chúng tôi đi thì đưa cho tử tế. Đã vào đến đây và đương lúc tức giận này chỉ có liều chết thôi anh ạ.
Anh kia phải nói chữa:
− Ấy là tôi giục thế, vì địa phận tôi đến đây là hết tổng Đông Thọ rồi, đi quá nữa tôi xin lậy cả nón.
Cậu ấm phải xen vào nói đỡ:
− Được! Anh đưa đến đâu, chúng tôi cũng xin cám ơn đến đấy. Chỗ nào không có anh, chúng tôi sẽ tự liệu.
− Tôi đưa đến chùa, tôi sẽ canh ở tháp Hòa Phong cho các anh đi lối sau chùa.
Anh tuần nói thêm. Và cả bọn lại lặng lẽ đi. Đến chùa Liên Trì, anh tuần và anh thợ thêu dừng lại, bốn người kia khẽ chào rồi đi biến lẩn vào sau chùa, đi qua làng Cựu Lâu, lại theo lối đi lúc nãy qua thôn Vọng Đức để về thôn Phúc Lâm. Đi không được việc, nhưng hết đêm hôm ấy, cả bọn, ba toán, lại đều đã trở về được đến nơi xuất phát không xảy ra việc gì cả.
Sáng sớm hôm sau, mọi người ra báo rõ tình hình đi vào vườn dừa tìm thủ cấp và thi hài các liệt sỹ và thuật lại tinh thần nhân dân ở trong phố cho bà con nghe, ông cử Kim Cổ liền quyết định làm lễ phục hồn cho ba người đã chết trung vì nước, nhân đó làm lễ tế cờ, ăn thề với nhau để kích thích chí phục thù cứu nước. Ông Cử nói thêm sau khi đã quyết định:
− Cậu ấm Ba có nhắc lời anh tuần phu ở Hà Thanh bảo bác Hai Phúc của chúng ta chưa bị giết. Điều đó chưa chắc hẳn, có lẽ anh tuần ấy nói ra thế để an ủi cháu Hiền chăng? Vả đã ở trong hang hùm nọc rắn thì dù chưa chết lúc này thì trước sau rồi cũng chết mà thôi! Cho nên ta cứ làm lễ truy điệu phục hồn một thể để gợi thêm chí khí địch khái 1 ở mọi người dân chúng ta. Các vị nghĩ thế nào?
1 . Căm ghét giặc.
Mọi người đều vâng theo ý định của ông Cử. Một đàn chay được thành lập ngay giữa giời, trong sân đình làng Thịnh Liệt, nơi thờ bậc cao sỹ Chu Văn An đời Trần. Bàn thờ giản dị nhưng trang nghiêm, ba cái bài vị gỗ đứng ngang hàng thẳng tắp, trên mỗi cái dán một tờ giấy gấp phong mép lại viết tên và chức tước người đã tử tiết. Bài vị ông cử Nga My đặt ở giữa, bên tả là bài vị Ả Chí và bên hữu là bài vị bác Hai Phúc. Hai bên đàn, ông cho treo câu đối vải trắng tự tay ông viết bằng nước lá đậu ván:
Ba vị, ba nơi, vì nghĩa chết cùng giờ, cùng chỗ.
Muôn người, muôn trí, báo thù thề chung sức, chung lòng.
Đàn chay phục hồn làm vội vàng gấp rút chỉ trong nửa buổi thôi. Thế mà nhờ có mỗi người một việc, đã đâu vào đấy cả, đủ lễ tam sinh, đủ hình nhân truy táng, và có rất nhiều câu đối viết trên vải trắng đeo quanh đòn. Ông cử Kim Cổ đứng chủ cuộc lễ. Sau khi hai thầy tự đã đọc kinh khấn thần phật và cầm nén hương đang cháy múa viết từng chữ trên không và làm phép khai quang điểm nhỡn cho ba hình nhân xong, ông Cử đứng ra khấn lễ tạ, rồi nói dõng dạc như nói chung với tất cả:
− Lậy ba vị, ba vị sống khôn, chết thiêng, sống anh dũng, chết oai linh, xin ba vị đằng vân giá vũ, giáng lâm trai đàn 1 , chứng giám cho tấm lòng thành kính của chúng tôi và chứng giám cuộc lễ thề xuất quân của anh em chúng tôi đi đuổi hết giặc dữ, lấy lại non sông! Các vị linh thiêng, xin phù hộ độ trì cho anh em chúng tôi sở cầu như nguyện…
1 . Vượt mây cưỡi mưa xuống tới đàn chay.
Quay ra nhìn mọi người cùng đứng trước đàn chay, ông nói đanh thép hơn:
− Trước hương hồn ba vị tử trung, tôi xin thề noi gương trung nghĩa của ba vị, nguyện đến chết không thay lòng đổi dạ, đem hết sức tàn trong cuộc sống thừa ra cố gắng cùng mọi người đánh đuổi bọn sài lang cướp nước! Tôi nguyện đem những người cùng chí với tôi đi theo quan quân đánh giặc cứu nước. Tôi ăn ở hai lòng sẽ chịu giời tru đất diệt!
Rồi ông quay mặt nhìn khắp cả một lượt và nói như truyền lệnh:
− Bây giờ mỗi hiền hữu vào lễ vĩnh biệt ba vị anh linh, tỏ chí mình: hoặc là về làm một việc nội ứng ở trong thành, hoặc đi theo quan quân đánh đuổi giặc nước, hoặc làm một công việc gì khác có lợi cho nước lúc này, xin để tùy ý lựa chọn, tùy tài, tùy sức. Có điều lúc này, ta phải làm một việc gì, mà làm ngay tức khắc, chứ cứ nấn ná đợi thời thì muộn lắm rồi! Bọn quan tỉnh Hà Nội vô tài lại quá tin bọn kẻ cướp, nghĩ rằng nó cũng thực tâm như mình, đã ngăn cấm chúng ta, bắt chúng ta đợi quá lâu rồi! Bây giờ ta phải sốt ruột, nhanh chân, nhanh tay mới được, mới mong bù lại cái chậm ấy.
Sau đây mọi người lần lượt vào lễ trước bàn thờ, nhìn lên ba bài vị mà những vòng khói hương nghi ngút đang bốc lên quấn quít, lững lờ, là là lan tỏa như có hương hồn ba vị tiên linh về chứng giám và quyến luyến với mọi người. Mỗi người đều nói tỏ chí mình, nguyện noi gương người trước mà chiến đấu đến hơi thở cuối cùng… Lễ xong rồi, mọi người rước ba hình nhân đặt vào ba cỗ quan làm bằng giấy, khiêng ra đồng làm lễ mai táng. Cuộc lễ tiến hành giản dị nghiêm trang và cảm động càng kích thích, thôi thúc mọi người, đồng thời cổ động thêm lòng dân làng chung quanh cùng bùng lên một luồng phẫn nộ căm thù.
Mấy ngày sau cuộc lễ truy táng, các văn thân Thọ Xương họp nhau lại cùng với dân chúng lập ra một đội quân mộ nghĩa. Đội quân mộ nghĩa này cũng giống như đạo quân nghĩa sỹ trước nhưng được kén chọn kỹ hơn, vì số người đi theo đông hơn nhiều. Và như ông cử Kim Cổ thường nói với anh em:
− Chúng ta phải chọn những người thật tráng kiện dũng cảm đi xông trận giết giặc. Chứ không phải có sự kẻ khinh người trọng. Còn thì lòng trung nghĩa đều như nhau cả. Công việc còn nhiều, chúng ta sẽ mỗi người tùy tài, tùy sức mà giúp vào, chúng ta cùng người một hội, một thuyền, cùng một chí hướng “chữ đồng” cả.
Đội quân mộ nghĩa lần đầu xuất trận đã đánh lấy lại được thành phủ Hoài đem giao cho quân của quan Thống đốc Hoàng Tá Viêm để xin được đứng dưới quyền chỉ huy cho đúng phép. Hoàng Tá Viêm hiện là Bắc kỳ tổng thống quân vụ đại thần, Thống đốc Tam Tuyên, chuyên việc tiễu phạt giặc khách, mới được điều về chặn đánh giặc Pháp. Ông đang đóng quân ở làng Hương Canh, nhận được đội quân này, ông liền ra lệnh cho cùng ứng chiến phối hợp với quân của Lưu Vĩnh Phúc vừa được triều đình phong chức Đề đốc và cũng vừa được điều về đóng ở các làng ven sông Nhuệ. Nhận được lệnh rồi, toàn đội kéo lên đóng ở Chèm để tiện liên lạc với anh em bà con bên Phù Lỗ và Đông Ngàn, gây thành thanh thế bao vây thành Hà Nội cả bốn phía. Ở đây, ông cử Tam Sơn được tin đã thân dẫn đội quân mộ nghĩa của tỉnh Bắc sang họp. Nhân cuộc họp mặt cả hai đội quân Hà Nội và Bắc Ninh, ông đứng lên nói rõ tội ác và âm mưu của giặc và nhắc đến nghĩa vụ của mỗi người phải đền nợ nước, báo thù cho bạn. Cuối cùng, ông nói:
− Tất cả dân chúng trong ấy đều một lòng trung nghĩa, quyết chí cùng nhau giết giặc, phá hoại mọi công cuộc của chúng nó. Nên bọn nó lồng lộn lên đi vây xét lùng bắt, chỉ quờ liều lấy ba nghĩa sỹ của ta. Bọn nó chủ tâm tàn sát ba vị để mong tỏa triết được chí khí của dân ta. Nhưng chính lại là tưới dầu vào lửa. Nợ nước thù bạn càng thêm thôi thúc chúng ta căm thù sôi sục. Chúng ta càng cứng rắn kiên cường hơn và càng mong được mau tiến quân đi đánh đuổi giặc ngay. Vậy chúng ta cần họp bàn cùng nhau, nối tin tức ngay với trong ấy, để trong ấy vững lòng mà khéo làm nội ứng ngoại hợp, mở rộng chữ “đồng”, cho mục đích chúng ta chóng đạt. Tôi mong các vị bàn bạc với nhau cho kỹ, cho rộng mọi lẽ. Có như thế thì lúc bắt tay vào làm mới không lúng túng…
Trong văn thân tỉnh Bắc sang họp có một người trẻ tuổi đứng ra trình diện và xin nói, rồi ông ngâm ngay một bài thờ làm lễ tương kiến:
Chuột vẫn còn lẩn núi.
Kình chợt quẫy mặt sông.
Tóc đỏ không vỡ mật.
Mặt trăng khó vân lòng
Gai mật lo dân nước
Khói bụi thảm cố cung!
Quân ta mau thẳng tiến.
Uống say ở Thăng Long!
Người ấy ngâm xong rồi nói thêm:
− Đây là bài “khẩu hiệu” của tiểu đệ mà cũng là ước mong của tiểu đệ. Xin trình tất cả các vị, tiểu đệ là Hoàng Văn Hòe, người Phù Lưu, Chợ Dầu, Bắc Ninh. Con giai chợ Dầu tỉnh Bắc đều một lòng mong mỏi như thế và nguyện theo các bậc đàn anh đến cùng...
Ông cử Tam Sơn đứng ra giới thiệu thêm:
− Anh bạn Hoàng Văn Hòe đây mới đỗ Cử nhân khóa trước, năm nay vừa hai mươi nhăm tuổi, đã mộ quân giúp quan phủ Từ Sơn Trương Quang Đản, đánh xuống tận Gia Lâm, sát bến Bồ Đề, làm cho giặc Phú không dám sang sông. Chí anh muốn đánh thẳng vào Hà Nội triệt giặc ngay từ gốc mới hả lòng. Nhưng quan phủ Từ Sơn được quan trên khen thưởng rồi, liền ngăn không cho anh tiến quân nữa. Nên lần này được tin chúng ta hợp ở đây, anh hăm hở sang ngay. Bài thơ này có ý nhắc quan Phủ nhưng ngài không muốn nghe, nên mới lại có dịp đem trình với anh em chúng ta.
Mọi người được biết rõ ý nghĩa bài thơ và con người làm ra bài thơ ấy đều vui vẻ tán thưởng khen hay và cho là một lời cửa miệng nhắc khéo mọi người. Ông ấm Cầu làng Vẽ tấm tắc khen:
− Câu kết này nói hộ được ý cho cả anh em Hà Nội chúng tôi. Ta phải đánh thẳng vào Thăng Long, ăn gan uống mật quân thù cho say sưa túy lúy một mẻ! Thật chí khí hùng hơn cả quân Nhạc Phi 1 đánh đuổi quân Kim ngày xưa!
1 . Đời Nam Tống, Nhạc Phi đem quân đánh quân Kim có nói “Đến thẳng thành Hoàng Long, cùng với mọi quân uống say một mẻ”. Câu thơ trên dùng ý câu này.
Ông cử Tam Sơn vội đứng ra nói thong thả rành rọt:
− Thưa tất cả các vị, các hiền hữu, diệt thù cứu nước là lòng mong mỏi của tất cả mọi người, có kể gì Hà Nội hay Bắc Ninh. Cho nên ta không nên phân biệt ra như thế, mà càng cần góp mưu trí của mọi người lại để định ra kế đánh chung...
Giữa lúc ấy có một ông ở trong thành vừa ra đến nơi được đưa vào dự họp. Trông thấy cuộc họp đông đủ nghiêm trang, ông ta mừng quá đứng lên nói:
− Đi ra giữa ban ngày khó quá, chúng nó khám và giữ ngặt lắm, tôi phải khéo xin được cái giấy đi mua lợn, nó mới cho đi đấy. Chả là vì có cái việc cần thế này phải báo ra cho các vị: Triều đình đã cử các quan mới cho tỉnh Hà Nội, các quan đã ra đến nơi cả rồi. Quan Tổng đốc Trần Đình Túc, quan Tuần phủ Nguyễn Trọng Hợp, quan Án sát Trương Gia Hội, quan Đề đốc Hoàng Đôn Điển, các quan ra thương thuyết với Tây để chuộc lại thành trì. Thằng quan tư An Nghiệp cũng mới từ Nam Định trở về tạm ra lệnh đình chỉ mọi sự đánh nhau để gây lại tình thân thiện thuận lợi cho cả hai bên bàn bạc. Quan Tuần mới cũng đã thông sức cho dân chúng yên tâm bình tĩnh đợi triều đình khu xử, chớ nóng nẩy.
Có tiếng nhao nhao lên:
− Lại thương thuyết!
− Lại đợi!...
− Đợi cho đến nó lấy hết Bắc kỳ!
Ông cử Tam Sơn đứng lên hỏi át mọi người:
− Thế bây giờ các quan ở đâu?
Người mới đến nói:
− Bẩm ở cả trong thành với bọn Phú.
− Thế còn lính đạo?
− Thưa cụ, chúng vẫn đóng ở ngoài thành với lính khách và ở trường thi.
Ông mền Kim Liên nói:
− Hà Nội gặp khó khăn, triều đình mới cử người sở tại ra tận nơi cáng đáng công việc, có ý để khuyên bảo dân cho dễ.
Ông cử Hoàng Mai Nguyễn Tảo cũng nói theo:
− Quang nghè Kim Lũ ra phen này có thể làm xong việc đấy. Quan sang có mả, kẻ cả có dòng. Đất Kim Lũ là đất phát:
Văn chiếm khôi khoa 1 ,
Võ mang tiết phủ 1 .
Hưởng lộc nghìn chuông 2
Nước nhà cột trụ…
1 . Đỗ đầu khoa.
1 . Tiết là cờ lệnh của vua trao quyền cho tướng quân. Phủ là phủ việt, cái búa tượng trưng uy lệnh của nhà tướng.
2 . Tức là chung đỉnh, cái chuông cái vạc, nghĩa bóng là sự phú quý.
May nhờ có cái đất ấy mà nên công trạng thì thật là vừa phúc cho quan Nghè, vừa lợi cho nước nhà. Đã đỗ Tiến sỹ lại nắm tiết việt đi ra khâm mạng lúc này chả đúng vào kiểu đất một phần là gì?
Ông cử Tam Sơn nói gạt đi:
− Văn thân ta mong ngày mong đêm cho các quan giỏi ra làm trọn vẹn được sự vụ của mình đối với triều đình, đuổi được Tây, lấy lại được thành. Nhưng chúng ta cũng chớ vội tin vào dã tâm tráo trở của bọn giặc mà cứ ngồi yên đây chờ đợi. Chính ra, ta cứ đánh mạnh lại càng giúp thêm cho các quan có cái thế mà bắt bọn Tây phải theo đúng như ý ta. Vả lại ta nên nhìn rõ vào tình thế trước mắt, chứ không nên hồ đồ chỉ tin vào đất cát. Huống hồ kiểu đất Kim Lũ có đẹp thật, có phát lớn thật đấy, nhưng lại còn có thêm mấy vần ở đằng đuôi nữa cũng không đẹp gì lắm, mà hiền hữu Hoàng Mai chưa đọc hết. Đó là:
Chỉ ghét nhiều tà,
Không theo quy củ!
Cái không đẹp ấy mà lại ứng được vào người thì sẽ ra sao. Đã có một số ông Thám, ông Bảng, đã nộp thành cho giặc sờ sờ ra đấy. Ngộ nhỡ quan Nghè cũng không theo quy củ, nhường đất cho Tây như quan nghè Phan Thanh Giản ở Gia Định thì sao? Thì được việc đấy, nhưng có lợi gì cho dân chúng ta không?
Ông cử Kim Cổ cũng nói:
− Vâng, chúng ta cứ biết lúc này cái thế của chúng ta là “quốc thù bất cộng đái thiên”, bất cứ lúc nào đánh được giặc là ta đánh ngay, đánh cho bao giờ nó trả lại thành, kéo quân cút xéo khỏi đất này mới thôi!
Ông chạy ra nói riêng với người ở trong thành mới ra:
− Bác trở về bảo anh em trong ấy có làm được gì cứ làm, nhất là trong lúc ngụy quan, ngụy quân chưa rõ ý định của bọn Tây thế nào, càng dễ hở cơ cho ta vùng vẫy. Phải chú ý đến mọi cử động của bọn Gia Tô để mà ngăn chặn trước mọi âm mưu của chúng. Ở ngoài này, bất nhật nay mai, chúng tôi sẽ đánh vào, nên việc quấy rối trước là cần, để chúng nó không thể chú ý nhận ra được. Phải tìm cách thông tin luôn ra ngoài này để trù tính hai bên cùng đánh, đông tung, tây hứng, điệu hổ ly sơn, làm cho địch càng hoảng sợ...
Ý kiến này đưa ra, mọi người bàn đi tính lại, đều cho kế hoạch như thế là phải. Hội nghị chuyển sang bàn cách tiến hành, chia cắt khu vực giao cho từng đội, từng người đảm nhiệm và đôn đốc. Các đội mộ nghĩa được chỉnh đốn hàng ngũ rồi về ăn ngủ tập luyện ở địa phương mình, tuần tiễu ở đấy và đợi dịp sẵn sàng chiến đấu. Những người ở trong thành phải chia nhau dò xét tình hình bên địch thật kỹ, tìm cách nào biết được nhiều chi tiết trong quân đội địch, trong ngụy quyền để báo ra cho ngoài này. Cậu ấm Ba cũng được cử lẻn về ngay đêm hôm ấy để góp phần cùng với những người dân phố điều khiển công cuộc chung. Lúc chia tay, ông cử Kim Cổ dặn:
− Cậu quen nhiều, người ta có thể che chở cho cậu, nhưng cậu cần kín đáo và bớt nóng hơn nữa. À nhớ gặp con Xuyến xem thế nào. Nó cũng có thể giúp nhiều việc đấy, nhất là để dò la bố nó…
Cậu ấm vâng nhận tất cả rồi đi ngay. Cậu cải trang thành dân nghèo, nhưng cũng không dám về làng chỉ quanh quẩn bên tổng Thuận Mỹ, nơi những phố phường đông đúc. Có thêm người chuyên ngồi thu thập tin tức thông ra ngoài, nên bên ngoài cũng được biết tình hình rõ ràng hơn, nhất là trong lúc ngụy quân, ngụy quyền lung tung không nhất trí với nhau. Bọn ngụy quan muốn dựa vào lính Tây ngầm bắt giết các quan triều đình mới ra, hòng phá cuộc thương lượng. Tên Bang biện tỉnh vụ Phạm Quang Diệu đem vàng bạc đút lót bọn lính Tây, nhờ chúng hạ thủ ngay tại chỗ bốn lão quan kia. Bọn lính Tây đã nhận lời bao vây chặt nơi trú ngụ của bốn quan Nam, đợi đến đêm sẽ ngầm giết tất cả. Chiều hôm ấy, tên đội Tây Sa Pô, đứng đầu cả bọn, đến xem xét để đặt cách hạ thủ, thì nhận ngay ra người quen cũ: Án sát Trương Gia Hội, ông này người Bình Dương tỉnh Gia Định đã quen Sa Pô khi ông được cử vào Sài Gòn đi thăm hỏi Súy phủ Phú trong dịp nước Phú bị nước Phổ tấn công. Chuyến đi tỏ tình hòa hảo ấy được trở về quê nhà, lại được bọn Tây quý trọng. Hội đã quen thân với một số quan lính Tây. Trong số đó có Sa Pô. Lần này Sa Pô gặp lại Trương Gia Hội, nhận ra người quen cũ, liền đòi tiền lễ đánh đổi, rồi mật báo cho Hội biết âm mưa của bọn ngụy quan. Trương Gia Hội cuống sợ, một mặt đưa tiền nhờ Sa Pô che chở, một mặt cùng với Trần Đình Túc đến nói với Gác Nhi Ê xin đổi chỗ ở và thay bọn lính canh khác. Phạm Quang Diệu thấy âm mưu bị lộ, liền đến Nhà chung bàn với cố Phước xin đánh úp ám hại cả bọn quan Nam. Cố Phước ngồi tựa người vào cái ghế bành, hai tay úp lên ngực, trầm ngâm suy nghĩ, rồi nói chậm rãi:
− Điều khó khăn bây giờ là An Nghiệp lại không cùng một ý với Đồ Phổ Nghĩa. Lúc trước cả An Nghiệp và Đồ Phổ Nghĩa đều cùng muốn lập lại con cháu nhà Lê làm một nước Đàng ngoài riêng như ngày xưa. Ta đã giúp cho họ làm được như thế và đã cắt cử xong bọn quan lại ở mấy tỉnh. Binh lính cũng mộ đủ cả rồi. Đồ Phổ Nghĩa cũng đang trù tính làm lễ đăng quang 1 cho cháu vua Lê. Việc lấy các tỉnh mau như thế là do công của ta xếp đặt từ trước. Ấy thế mà bây giờ thấy bọn quan lại triều đình dễ bảo, hợp với lòng mong mỏi của Súy phủ Sài Gòn hơn, nên chi thấy có quan triều ra, là ông ta muốn vồ ngay lấy. Nay An Nghiệp đã nghĩ khác như thế, mà dân tình ở đây lại rất ương ngạnh, trừ một số dân giáo ta còn giữ được họ trong đức tin, còn thì mọi người đều ghét ta cả, nếu ta giết hết bọn quan Nam này, tất lại có bọn quan Nam khác đến, cái triều đình ấy cử quan đi đánh nhau thì khó; chứ cử quan đi xin hòa nhượng đất thì lúc nào mà họ chả cử được. Mà rồi hóa ra vạn sự lỗi tại ta cả. Mà đã phật ý ông An Nghiệp, ông ấy không giúp đỡ nữa, ta lại càng gặp nhiều khó khăn hơn. Chi bằng cứ giữ vững số quân của ta, mộ thêm quân nữa, tụ thành một khối lớn truyền bá bảo vệ nước Chúa, mở rộng đức tin, và nếu có thể đòi triều đình cho ta quyền tự cai quản nước thánh. Già néo đứt dây! Giết họ thì dễ, nhưng không có lợi gì, chỉ có hại thôi!
1 . Lên ngôi vua.
Lão ngừng lại, đưa ta lên xoa xoa chòm râu, luồn ngón tay vào vê vê những sợi xoăn xoăn, rồi vịn hai tay xuống thành ghế, ngồi ngay ngắn lên, nói:
− Thôi! Hãy tạm dừng, con ạ! Ta phải biết nhẫn nhục nhất thời để mà mở mang nước Chúa. Lúc này, ngay trong nước Chúa cũng còn lủng củng, dân giáo theo dòng Đô Mô Ni Cô của các cha Y Pha Nho không muốn chung sức cùng ta đâu. Bọn chúng cũng có thể chống đối ta mà đi theo bọn xúi giục. Các cha Y Pha Nho cũng không cấm đâu.
Bọn Phạm Quang Diệu đành vâng theo lời đức cha, không dám hành động gì khác nữa, ngoài việc cố tập hợp tay chân và mộ thêm nhiều quân đem về đóng cả ở trường thi. Chúng mở rộng khu nhà xứ ở cánh đồng làng Chân Cầm dưới giáp với đầu làng Tiến Thị, ở ngay trước cửa trường thi, và chúng gọi đấy là khu Nhà chung, cho gọi những gia đình theo đạo đến ở chung quanh để tiện đi lễ cầu nguyện, thực ra là để bảo vệ nhà thờ. Chúng lại cho lính ra mở rộng con đường từ trường thi qua Hàng Khay ra cửa ô Long Tường (tức cửa ô đi vào Tràng Tiền) thông thẳng ra bờ sông, bao nhiêu cây cối rậm rạp phá bỏ hết cho quang đãng, đình Hàng Khay bỏ hủy nát cũng bị dỡ đi, san phẳng. Cửa hàng của bác Hai Phúc bị chúng chiếm đoạt ngay từ khi bác Hai bị bắt, giao cho một tên cai đội của Phạm Quang Diệu trông coi, đến nay đã mở to thêm, làm thêm hai dãy nhà nữa, nó đã thành nơi tụ tập ăn uống chính của bọn lính ngụy và cả của bọn lính Tây ở trong thành ra chơi. Bá hộ Kim vẫn là Cai tổng tổng Đông Thọ kiêm Thương biện huyện vụ coi mọi việc trị an trong phố, nên được Đội Diệu và mọi người đi đạo kiêng nể. Con dâu lão là vợ cả Trường và con gái là cô Dung là hai tay buôn bán sành sỏi, nhờ thế lực của cha, cũng lui tới cửa hàng này để đem hàng đến cho địch và mua lại hàng của địch. Cửa hàng này tự nhiên trở thành nơi giao dịch chính của bọn địch. Những người Nam đến đây phần lớn là những người đi đạo, những con buôn tham lợi, hoặc là đem các thức ăn thịt cá, hoa quả, thường dùng để bán, hoặc là lân la đến làm thân với nhà hàng để mong bán các sản vật được đắt hơn, hoặc đi lại đấy cốt làm quen với bọn Tây, bọn lính đạo để nhờ thế lực hay mua sắm hàng Tây dương. Lại có kẻ chuyên đi các nơi nhặt những tin tức ở ngoài nhân dân đem về đấy chuyển báo lên cố Phước. Cô Xuyến cũng hay ra vào cửa hàng này, vì cô là con gái Bá Kim ai cũng biết, người lại hoạt bát vui vẻ, cũng có khi đem được những thứ hàng hiếm khó mua đến cho cửa hàng, nên cả những người bán hàng và khách đến ăn uống đều có ý kính trọng cô, coi cô như một người quen thân. Riêng cô, thì cô nghĩ khác, cô đến đây không phải với mục đích cầu lợi như mọi người. Từ khi ở quê ngoại ra, cô đã gặp cô Hiền, nối lại hoạt động với Ả Chí và cô Cúc, cô mới nhận ra là cô đã thấp cơ thua bố mình, đem mình về quê để cắt đứt mọi dính dáng với văn thân, với ảnh hưởng của ông cử Kim Cổ. Đến khi Tây đánh chiếm thành, mọi việc thay đổi đột ngột quá, ông bố lại vẫn giữ quyền hành trong huyện, bản tâm cô cũng thấy ngượng với mọi người, nhưng khi Ả Chí và cô Hiền tìm gặp, cô đã lại vui vẻ hăng hái giúp vào công việc chung và đôi khi khéo lựa chiều can ngăn được bố hoặc hỏi dò thêm được tin quan trọng. Đột nhiên, bác Phúc và chú Chí bị bắt, liên lạc bị đứt, cô không dám thò đi đâu, kế đến cửa hàng của bác Phúc bị chiếm và mở to thêm, hai chị cô tham lợi lao vào buôn bán, cô đã hết lời can ngăn, cô Dung chị gái đã không nghe, còn mắng át đi:
− Thôi im đi ranh con ạ, đừng có trứng khôn hơn rận. Thời buổi này không buôn bán kiếm lời mà ăn thì còn là chết rã họng ra ấy! Con gái lớn bằng cái bồ ấy rồi được bố chiều chẳng biết làm ăn gì cả, chỉ ngồi nói ngang thôi! Rồi tao bảo với bố cho mày!
Cô đành nghĩ ra cách khác, lân la đến đây để dò la thêm tin tức báo cho anh em bên ngoài chắc là đang luyện tập để đợi thời cơ đánh vào. Tự nhiên, cô nhớ ngay đến cậu ấm Ba Tự Tháp, con người thanh niên khảng khái ấy chắc bây giờ cũng đang lăm lăm tay cung tay kiếm, quyết chí diệt thù. Cô nhớ thấm thía nhất cái ngày ở nhà ông cử Kim Cổ, lần đầu tiên cậu chàng thanh niên ấy nói với cô những lời êm ái trìu mến khuyên nhủ cô góp phần cùng với chú Chí đi phá chặn những mưu mô lấn vượt láo xược của tên giặc Đồ Phổ Nghĩa, để giữ thanh danh thể diện cho nước và thêm tiếng tăm cho nhà. Lời nói ngọt ngào như thấm vào tận tâm can lúc nào cũng vẫn văng vẳng bên tai như thúc cô làm nên được những hành động nghĩa khái làm nức lòng mọi người. Lời nói vẫn còn đó, và con người nói ra những lời êm dịu đó nếu nay được gặp lại, thì mặt đối mặt còn biết ăn nói làm sao bây giờ? Vì cha giáo dở, cố vị tham quyền, hóa ra con phải thành ra con người phản trắc! Nhưng thôi, lòng đành tự nhủ lòng, giữ sao cho trong trắng, không phụ kẻ đang lận đận bôn ba ở ngoài kia, không làm hại đến công việc đuổi Tây cứu nước của toàn dân, cô cố tìm mọi cách dò tin để báo ra ngoài, mong nối lại được liên lạc cũ. Cho nên, có mục đích quang minh như thế, cô ra vào cửa hàng này nghiễm nhiên, đường hoàng, không rụt rè e ngại. Và do thế, cô đã làm quen được với nhiều hạng lính và có khi cô đứng bán hàng giúp, được tất cả các khách hàng yêu quý. Giữa lúc cô đang vui vẻ với công việc như thế, thì cậu ấm Ba Tự Tháp vào chắp nối và gây dựng mọi sức chiến đấu ở trong thành, vừa theo lời ông cử Kim Cổ dặn, vừa cần thiết phải tìm mọi chỗ để dựa dẫm cho mình và để lấy tin tức và cũng có phần nào có cảm tình với cô gái lanh lợi và thẳng thắn ấy, cậu Ba ngỏ ý với các bà con nắm giữ đầu mối mọi lực lượng chiến đấu ở trong thành, muốn được gặp cô Xuyến. Một ông cụ ở phố Hàng Quạt nói:
− Cô ấy tuy con nhà quan nhưng cũng khá, tính tình cũng tốt, có tham dự vào đội mộ nghĩa đấy. Nhưng xét ít lâu nay cô ấy cứ quanh quẩn ở cái cửa hàng bờ hồ ấy. Nên chúng tôi vẫn chưa dám tin hẳn. Cậu nghĩ kỹ xem có nên gặp không hay sợ bị lộ?
Rồi ông kể rõ từng chi tiết về quan hệ của cô với cửa hàng cơm rượu của Đội Diệu ở bờ hồ trong những ngày gần đây. Cậu lại hỏi một bà cụ ở phố Tân Khai, người đã giấu cậu ở trong nhà, về tính tình cô Xuyến, vì bà này quê ở làng Cựu Lâu, bà vui vẻ hỏi ngay:
− Cậu mê con bé ấy à? Con bé ấy ngoan đấy, biết kính trên nhường dưới, chứ không như các chị nó. Lấy thì được đấy, nhưng chớ có bàn chuyện cao xa gì với nó. Sợ nó giống thằng bố nó, có gì nó đem ton hót với quan trên hết thì khốn!
Thì ra mọi người đều cùng một ý nghĩ nghi ngờ dã tâm đen tối của Bá Kim, tuy không ai căm ghét lão như đối với Đội Diệu, Tú Tốn, Tú Tích, Cai Huyên. Vậy thì có nên gặp lại chăng? Ngộ nhỡ lộ hình tích hỏng hết cả công việc, hại lây đến mưu kế ngoài kia thì sao? Mình vào đây chưa làm được việc gì khả dĩ gọi là hữu ích, chỉ mới ăn bám vào bà con, mà ngộ để xảy ra vỡ lở, vạ lây đến nhiều người, há chẳng phụ lòng nhau lắm ru! Và có tội với non sông đất nước lắm thay! Nhưng nghĩ lại, đã trở vào trong này, đã không được vùng vẫy xông pha vào sinh ra tử dưới gươm đao, tên đạn, như anh em ngoài kia, thì cũng phải tìm mọi cách có thể dùng được để giúp vào công việc chung, chứ có phải vào đây để ngồi im đợi thời đâu! Thì một cô gái khéo len lỏi làm quen với địch, con một viên Trợ biện nắm quyền hành ở cả một khu vực đông đúc này, ít ra cũng biết được nhiều chuyện bí mật hơn người ngoài. Với ý nghĩ ấy, cộng với sự muốn hiểu biết thêm tính tình cô Xuyến hiện nay có thay đổi gì không, cậu Ba quyết định tìm gặp cô ngay. Nhờ ông cụ phố Hàng Quạt bố trí, cậu đã gặp được cô Xuyến, hiểu rõ cô vẫn một lòng một dạ theo đuổi việc nghĩa. Qua sự trình bày của cô, ấm Ba nắm được nhiều tình hình gửi ra ngoài và tiếp tục ở lại hoạt động bí mật trong phố…
***
Mấy hôm nay, quân ngụy chỉ tập trung canh giữ ở những nơi chúng đóng, không dám đi sục sạo, khám xét các nơi nữa. Ở các thôn, các phường, các phố đã có nhiều người đi theo mộ nghĩa, họp nhau bàn công việc mộ nghĩa. Hằng ngày có người ra vào đem tin ở trong phố ra cho ông cử Kim Cổ ở ngoài. Rồi một buổi sáng theo kế sách đã bàn định và đã báo trước, hai bên trong và ngoài cùng đánh, làm náo động để thúc cho bọn Tây phải mau mau thương lượng rút quân. Các quan ra đã sáu bảy bôm rồi mà chưa thấy quân Tây rục rịch gì cả, chỉ thấy các quan sức hiểu dụ dân và thấy bọn lính ngụy đóng đồn lại và vơ vét làm thế cố thủ. Phải đánh một trận quyết liệt cho chúng nó đi mới được. Và như kế đã vạch, một bộ phận mộ nghĩa ở trong thành, đúng từ Mão sang Thìn, trong lúc hàng phố đang đi lại đông đúc, phải nhanh nhẹn, vừa nghi vừa thực, bao vây quấy rối những khu vực quân địch đóng, làm cho chúng không dám đi cứu viện nhau được. Cánh quân ở Vũ Thạch, Tự Tháp, Kim Cổ, Tô Tịch… phải ngăn giữ vây chặt bọn lính đạo đóng giữ trường thi. Cô Xuyến mấy hôm nay thường đến bán hàng ở quán bờ hồ, hôm nay cũng ra sớm và bàn với nhà hàng bán thêm những món đặc biệt mừng ngày chúa nhật cầu nguyện đức Chúa Lời. Có cô Xuyến ở đấy lại thêm mấy cô bạn nữa, nên bọn lính rủ nhau vào ăn uống trong hàng mỗi lúc một đông. Chợt thấy ngoài phố nhốn nháo, một số lính ngụy đang đi chơi phố chạy kịp vào cả cửa hàng, có ý tập trung lại với nhau để tự vệ, chống đỡ. Chúng hò hét:
− Đóng cửa lại! Mỗi người một khí giới!
− Chúng nó đến đấy mau lên!
Bọn lính ngụy bị đuổi không có lối về trường thi cũng dồn cả vào đây. Bỗng ở bốn góc, bốn ngọn lửa cùng bốc lên cháy đùng đùng lem lém thiêu cả quán. Bọn lính cuống cuồng chạy xô cả ra ngoài, bị anh em mộ nghĩa xông vào chém giết vây bắt được khá nhiều. Mấy ngọn lửa bốc cao rầng rậc chập làm một phần phật lan tỏa ra cả một góc hồ. Các nhà ngoài phố Hàng Khay đều đã đóng kín cửa. Không một người nào nghĩ đến cứu hỏa. Nhưng ở ngoài đường, dân mộ nghĩa đang canh giữ đường phố và cố ngăn và dập tắt đám cháy không cho lan rộng ra. Cậu ấm Ba từ ngã tư Phục Cổ chạy xuống bảo:
− Anh em cố dập tắt đi. Còn người nào ở trong ấy không?
Một chiến sỹ nói:
− Không, bắt được một số, còn chúng chạy về trường thi cả.
− Trùm Tiến đâu? Trùm Thanh đâu?
− Chúng nó nhanh chân chạy trước!
Trông thấy cô Xuyến đang thấp thoáng ở trong cổng chùa Liên Trì đi ra, cậu ấm chạy lại gặp và hỏi sừng sộ:
− Ai cho cô đốt? Cô gây ra vụ cháy này phải không?
Cô Xuyến ung dung nói rắn rỏi:
− Đốt cho nó cháy hết mọi thứ cướp bóc tội lỗi đi! Ngọn lửa thiêng thiêu cháy sạch mọi oan ức của bác Hai và cũng là soi tỏ nỗi lòng của em. Không có cậu còn ngờ.
Trông nét mặt tươi vui hớn hở càng tăng thêm vẻ đẹp dịu hiền biểu lộ tấm lòng trong trắng ngay thẳng, cậu Ba vội đổi giọng ngọt ngào:
− Nói thế chứ, chính nhờ có đám cháy này, chúng nó mới hoảng đấy, bọn lính cố thủ cả ở trong trường thi, ở Nhà chung chỉ còn có dân đạo thôi, mình không giữ khéo thì các ông mộ nghĩa nhà mình đã xông vào phá trụi. Họ đang tức mà! Nhưng nói rõ lý lẽ, họ nghe ra ngay.
− Có bắt được lão trùm nào à? Cô Xuyến hỏi.
− Chúng chạy vào trường thi cả. Bây giờ ta đang canh giữ Nhà chung cho chúng.
Hai người đi thẳng đường Thập Lý ngược lên ngã tư ô Hàng Cau. Đám cháy ở đầu bờ hồ đã dập tắt, chỉ còn bốc khói. Các ngã tư không còn lính ngụy canh hỏi, nhân dân đi lại nhộp nhịp, người ở các cửa ô cũng đã kéo vào đông, mọi người đều vội vàng trong cái vẻ vừa nơm nớp lo sợ, vừa hớn hở hỏi nhau tin tức. Có nhiều người có quấn ở cánh tay mảnh giấy hay mảnh vải viết chữ “đồng”. Cô Xuyến nhìn đám người đi đông đúc hơn mọi ngày thấy vui vui hỏi:
− Sao lắm kiểu chữ “đồng” thế nhỉ?
− Vì có thứ cũ, thứ mới, có thứ vừa mới bắt chước mà viết vào chứ sao! Miễn là cứ vui chung thế cũng được!
− Tại sao lại nẩy ra chữ “đồng” nhỉ? Và chữ “đồng” cũ như thế nào? Cô Xuyến hỏi thêm.
− Thì cô cũng là chữ “đồng” cũ đấy thôi mà còn phải hỏi à?
Cậu Ba cười nhìn cô bạn, như có ý hỏi lại, nhưng rồi cũng đáp:
− Chữ “đồng” nguyên trước chỉ là dấu hiệu riêng của những người ở trong này để nhận nhau, nhất là những người phải qua lại vùng Đồng Xuân, Hà Khẩu. Chữ “đồng” ấy viết giống chữ “hợp” do một nơi làm và phát đi. Sau này nó thành dấu hiệu chung cho những người mộ nghĩa. Vì thấy rằng, trong văn hội cũng có người đi theo giặc, có những người ngồi yên không làm gì cả, thì sổ tư văn không thể dùng được nữa, mỗi nơi phải có sổ riêng để ghi những người cùng một chí hướng với nhau, không kể là nghề nghiệp gì, lập thành hội mộ nghĩa. Chữ “đồng” tự nhiên thành ra dấu hiệu chung, mỗi người mộ nghĩa đều biết cách viết chữ ấy để dễ nhận nhau và phân biệt với người ngoài. Gần đây, mọi người đều nghe nói và biết có chữ “đồng” ấy, nên bây giờ sinh sôi ra lắm chữ “đồng” như thế. Nhưng rồi, mọi người sẽ phải cùng chung một chữ “đồng” thôi chứ. Không còn chia cách. Thế mới vui.
Cậu đang vừa nói vừa cười, thì có tiếng người nói:
− Ta thắng cả ở cửa Tây rồi, to hơn ở đây nhiều, giết được cả Tây kia. Các ông ấy cừ thật, giở kế điệu hổ ly sơn, dử cho tướng giặc chạy tít ra xa mà nộp đầu…
− Ấy cũng nhờ có ở phía đằng này đánh mạnh, nên chúng nó mới bị lâm vào thế chống đông, hở tây như thế! Một người nữa nói.
Thì ra hai ông ở hai nơi, ông nào cũng tự cho trận ở nơi mình là oanh liệt hơn cả, cậu ấm nghĩ bụng thế, và tin là ở ngoài kia đã thắng to, cậu liền ghé vào tai cô Xuyến nói nhỏ:
− Cửa Tây đã thắng, tôi phải ra đằng ấy xem sao, em về đi, thử xem ông cụ đâu?
− Ngộ nhỡ có sao, cậu phải bênh thầy em một tí chứ.
− Được lắm chứ, không có công của cô, cũng còn có thể giúp nữa là. Thôi về đi. Đã bảo rồi sẽ cùng chung một chữ “đồng” cả mà. Đừng lo.
Nói rồi, cậu ngoắt đi ngay, băng thẳng lối Hàng Gai, Hàng Bông, đi tắt vào làng An Trung ra cửa Nam, vòng lên cửa Tây, xuyên vào làng Kim Mã đi ra đường cái quan, cậu thênh thang đi trên đường không rụt rè e ngại, không bị vướng mắc hỏi han gì, lẩn mình vào trong đám kẻ ra người vào tấp nập. Tây chết rồi! Tây thua rồi! Không còn những quân mèo mả gà đồng, nghênh ngang ngăn chẹn lối khám xét, hoạnh họe, hạch sách dân chúng nữa! Đời ta sướng rồi, đuổi được cái thằng Tây đáng căm ghét nguyền rủa kia là đủ sướng! Cậu ấm nghĩ vui vui trong bụng như thế và chắc rằng mọi người cũng đều một niềm vui chung như thế, ai nấy đều hớn hở, gặp nhau tươi cười vồn vã như những bạn quen nhau đã từ lâu. Trong niềm vui bồng bột ấy, mọi người sẽ cùng thấy phải chung lưng đấu cật với nhau đánh bật bọn Tây dương đi, không để cho nó cứ điềm nhiên lăng nhục người mình, giầy xéo lên đất nước mình như đã hơn một năm nay. Lan man trong những suy nghĩ cậu ấm kia đã lẫn vào dòng người cuồn cuộn chảy nhập vào chỗ ông cử Kim Cổ và Văn hội Thọ Xương đóng.
***
Ở ngoài này, từ sau khi cậu ấm Tự Tháp trở vào thành, số văn thân và nhân dân các nơi tham dự vào đoàn quân mộ nghĩa đông thêm. Các ông đội trưởng − lúc ấy các ông chỉ tự nhận là bang tá quân vụ − đã hẹn đánh phối hợp với quân của quan Thống tướng Bắc kỳ quân vụ Hoàng Tá Viêm và tự đặt dưới quyền chỉ huy, chịu mệnh lệnh dưới cột cờ của Thống tướng. Kế sách phối hợp cả trong lẫn ngoài đã được nêu ra tỉ mỉ cho mọi nơi tuân hành. Cánh quân của Thống tướng Hoàng Tá Viêm xuống đóng ở Phủ Hoài, nơi mà quân mộ nghĩa mới lấy lại mấy hôm trước. Cánh quân Cờ đen của Lãnh binh Lưu Vĩnh Phúc đóng ở Cót và Láng. Từ Chèm Vẽ xuống đến Cổ Nhuế, Nghĩa Đô, quân mộ nghĩa mới lấy tỉnh Bắc của các ông cử Tam Sơn, Phù Lưu đóng rải rác kết hợp làm một với dân tráng các làng ấy. Ông ấm Vẽ đem văn thân và thanh niên các làng Chèm, Vẽ, Nhật Tảo, Phú Gia, xuống đóng từ Cống Vị đến Vạn Phúc. Quân của Văn hội Thọ Xương đóng suốt dọc từ làng Mọc qua Thịnh Hào lên đến Giảng Võ. Còn ở các làng khác quanh thành, mỗi làng đều có một vị tư văn ở nhà tụ họp dân tráng canh giữ ở làng, để nếu khi mặt trận lan đến nơi thì kịp thời ra tiếp chiến và có khi sẽ được điều động đi ứng cứu hoặc làm các công việc vận chuyển, cứu cấp ở chiến trường. Mọi việc xếp đặt đâu ra đấy rồi, đúng giờ Mão hôm ấy khi giời đã sáng rõ, khi trong thành phố đã nổ hỏa pháo cùng một lúc bao vây, quấy rối các đồn trại của địch rồi, đội quân tiên phong của văn hội do ông mền Kim Liên dẫn đầu rầm rộ kéo vào cửa Tây bắn hỏa pháo, hò hét khiêu chiến, cốt dử cho giặc phải ra đánh. Quả nhiên địch bị trúng kế. Tên Gác Nhi Ê, đã thắng quân đội triều đình nhiều lần, trong không đầy hai mươi hôm đã lấy gọn các tỉnh đồng bằng Bắc kỳ lại đương ở thế thắng cưỡng ép bọn quan nhà Nguyễn phải theo ý định của nó, thấy tin báo, nó dương dương tự đắc, ngạo nghễ bảo bọn Trần Đình Túc:
− Các ông đợi tôi đem quân ra dẹp tan bọn chuột cáo ô hợp kia trong nháy mắt, để các ông thấy rằng các ý ta đang bàn ở đây không có gì thay đổi cả.
Rồi nó xồng xộc đi ra đem một đạo quân cùng với tên Trung úy Ban Ni cưỡi ngựa mở cửa thành xông ra đánh. Quân ta vội bỏ chạy. Nhân dân các làng ven đường đã đem tre gỗ rải khắp mặt đường từ trước, bọn giặc tưởng quân ta bày cách cản lối để chạy cho thoát, lại càng ra sức thúc nhau gạt tre gỗ, phóng ngựa đuổi gấp. Đến gần Thủ Lệ, địch đã sa vào vòng vây có quân phục kích rồi, ông ấm Vẽ tung quân từ Vạn Phúc ra chẹn đánh cắt cánh quân địch ra làm đôi, đánh giáp lá cà, nên súng của địch bắn không làm anh em nao núng. Ông ấm Vẽ đuổi dồn ngược lại. Tên Ban Ni chạy nấp vào đầu Voi Phục, bị quân phục ở đấy vây đánh phóng tên bắn chết, chặt lấy thủ cấp và giết thêm một số. Toán của tên Gác Nhi Ê chạy dạt lên đến Cầu Giấy, bị quân Cờ đen ở Láng và ở Cót hai mặt đổ ra đánh quật lại, tên Gác Nhi Ê phóng ngựa chạy vào phía Giảng Võ, đến đầu thôn Ngọc Khánh bị tướng Cờ đen Lưu Bá Anh phục kích ở cánh đồng Thủ Lệ xông lên đuổi bắn. Gác Nhi Ê bị trúng đạn ngã ngựa, quân ta ở Giảng Võ chạy ra chém lấy đầu và bắt lấy ngựa. Toán quân sót lại sau, hốt hoảng tán loạn, vội chạy quay trở về, bị nhân dân hai bên đường ngăn đuổi, nhiều người vác cả gạch đá ném, chúng bị tử thương cũng nhiều, một số ít còn giữ được súng, bắn đì đòm mấy phát bừa bãi để dọa dân, lấy lối chạy tháo thân về đến cửa Tây, trước đà thắng, đạo quân mộ nghĩa ở Giảng Võ cùng với nhân dân hăng hái đuổi giặc mãi đến chân thành. Mất chủ tướng và súng đạn còn ít, chúng càng mất tinh thần, cuống sợ, không dám khích nộ nhân dân, vội bắt ép các quan Nam phải ra hiểu dụ dân chúng lui đi. Tổng đốc Trần Đình Túc đang sốt ruột mong cuộc thương thuyết chóng xong, liền bắt ngay Đề đốc Hoàng Đôn Điển thân ra trên chòi canh cửa Tây, giơ lá cờ Khâm mạng lên và gọi loa dụ dân phải tản về làm ăn, thành này đã thuộc về Triều đình rồi. Hoàng Đôn Điển phải nhắc đi nhắc lại mấy lần:
− Hỡi dân chúng trăm họ, các quan tỉnh được triều đình cử đã bái mạng đức vua ra đến đây, thành đã do các quan ở, ai phạm vào là chống lại triều đình sẽ bị trọng tội. Dân chúng chưa được gọi đến, phải trở về làng ngay!
Trông rõ lá cờ triều đình, vả không có ai chỉ huy, nhân dân và cả toán mộ nghĩa kia đành quay trở ra, kéo ngược trở lên đi thăm lại chiến trường. Suốt trên dọc đường này, quân ta đã thu dọn xong cả rồi, dọn các xác chết lại một chỗ để sắp sửa mai táng. Còn hai thủ cấp Gác Nhi Ê và Ban Ni đã được đem vào Phủ Hoài nộp cho Thống tướng Hoàng Tá Viêm. Dân chúng kéo đến đông, không được vào xem, làm ồn ào cả ngoài cổng. Hoàng Tá Viêm phải thân ra nói chuyện với dân, khuyên ai nấy nên trở về nơi đóng quân của mình, đề phòng quân giặc phản công báo thù. Cuối cùng, ông phải giở lối phỉnh nịnh dân, phủ dụ để giải tán cho dễ:
− Trận thắng này một phần nhờ có bà con dân làng quanh đây giúp sức với quan quân. Vậy bây giờ Tây nó đang rục rịch kéo quân lên đây đánh trả thù, bà con càng nên trở về lo liệu giúp đỡ quan quân hơn nữa, để ta thắng to nữa chứ. Việc quân tối kỵ tụ tập lại đông như thế này!
Dân chúng nghe lệnh rút về hết, con đường Thủ Lệ, Cầu Giấy lại yên tĩnh như thường, khắp nẻo đường chỉ còn có quân mộ nghĩa chia nhau canh phòng. Đến chiều, dân chúng đã trở về làng hết, trên đường ít người đi lại. Thỉnh thoảng có từng bọn năm ba người trong số đi ra thăm chiến trường, phần đông đều có dấu hiệu chữ “đồng”, nói cười vui vẻ. Họ dừng lại thăm hỏi chỗ này, tiến xa xem xét chỗ kia đều được tự nhiên tùy ý. Mãi sau, có một bọn người do ông cử Hoàng Mai Nguyễn Tảo dẫn đi có một số người mặc binh phục của triều đình và năm người mộ nghĩa theo sau không dừng lại đâu cả và không hỏi han gì, đi thẳng mãi đến Cầu Giấy và vào thẳng đền Voi Phục. Cậu ấm Tự Tháp đang đứng ở sân, trông thấy đoàn người vội chạy ra, reo lên:
− A ha! Cụ lớn cũng ra đây rồi kia á?
Rồi cậu vui mừng gọi lớn:
− Anh em ơi! Quan Tuần đã ra với chúng ta!
Nhưng ông cử Hoàng Mai đã vội nói:
− Cụ lớn muốn được gặp quan Thống tướng Hoàng.
Và cái người dong dỏng đứng tuổi chít khăn nhiễu chữ nhất, mặc áo kép nhiễu tím lót đỏ, lên tiếng một cách nghiêm nghị có vẻ trách móc:
− Các cậu làm hỏng bét cả! Cuộc thương thuyết sắp xong thì đùng một cái, các cậu đánh giết mất tướng của nó, nó bỏ cuộc không nghe theo mình nữa, thế có phải là phá hỏng đại sự của triều đình không?
Cậu ấm cũng hào hứng nói:
− Thưa cụ lớn, nó bỏ thì đánh đuổi tống cổ nó đi chứ sao!
− Nói dễ nghe nhỉ, người kia lại nói. Cậu nông nổi không biết gì cả. Muốn cho đỡ nhiễu dân, triều đình mới đồng ý thương nghị cho nó rút đi. Làm cản trở công việc ấy tức là đắc tội với triều đình. Nên quan Tổng đốc phải cho tôi ra gặp Hoàng Thống tướng truyền thánh chỉ bắt hạ lệnh cho văn thân, Lưu đoàn rút quân đi hết.
− Lệnh vua chưa đến nơi, cậu ấm hỏi lại, mà ta đang thắng tại làm sao lại bắt phải rút lui? Sao không nhân đà thắng ấy mà quật ngã nó xuống.
Một người trong bọn, ý chừng là một quan hầu nói đỡ:
− Vì lão quan hai Etmê bắt giữ cụ Thượng Trần, buộc có ra lệnh cho văn thân và Lưu đoàn rút xa hẳn tỉnh Hà Nội này thì lão mới chịu tha các quan ra thương thuyết trả lại thành trì, nên cụ lớn Thượng mới phải cử cụ lớn Tuần ra gặp cụ lớn Hoàng Thống tướng.
Cậu ấm lại nói với vẻ cương quyết hơn:
− Vậy thì xin mời cụ lớn trở về bảo với Tây rút hẳn đi, trả lại thành trì trước đã. Hai là xin mời cụ lớn tạm nghỉ đợi ở đây. Trong quân theo lệnh tướng, bao giờ ở trên có lệnh xuống, chúng tôi xin đưa cụ lớn đi.
Cậu quay sang nói với ông Cử:
− Tôn huynh đưa cụ lớn vào đền trong.
Rồi cậu đi thẳng ra. Đến ngoài đường cái, gặp ông cử Tam Sơn mới t?