Chương IX
Khí thế nhân dân mỗi ngày càng bùng bùng lên mạnh, quân giặc chỉ còn một dúm người cố thủ ở trong thành không dám thò ra đến ngoài, nên mấy hôm sau, đặc phái của Súy phủ Sài Gòn là Hoắc Đạo Sinh tức Phi-lát-tơ- rơ (Philastre) và Khâm mạng của triều đình là Nguyễn Văn Tường ra đến nơi. Khi bàn đến việc giao trả lại thành trì và mọi nơi đã chiếm để đi đến ký kết một bản hiệp ước hòa hảo lâu dài Hoắc Đạo Sinh ưng thuận ngay. Bọn quân lính Pháp hoảng sợ chỉ muốn rút lui nên rất đồng ý. Chỉ còn cố Phước và nhất là cha Mỹ (Landais), người trực tiếp trông coi Nhà chung, vừa mới dựa vào quân đội đóng ở trường thi xây dựng nên khu Nhà chung này ở giữa cánh đồng hoang vắng, cố muốn chiếm giữ lại khu trường thi với cả số quân đóng trong ấy để bảo vệ đạo, liền nhờ giám mục Bình tức Bô-i-ê (Bohier ) và linh mục Đàng tức Đăng-di-ê (Dantzier ) là hai thông ngôn của Tổng đốc Trần Đình Túc đem từ Huế ra, nói giúp và tìm mọi cách lung lạc áp đảo các quan Nam. Nhưng Nguyễn Văn Tường và Trần Đình Túc nhất định đòi lại cho được trường thi để mở lại kỳ thi cho yên lòng sỹ tử. Đồ Phổ Nghĩa thấy Hoắc Đạo Sinh trao lại tất cả mọi thành đã chiếm được, không kể gì đến công lao của hắn, cũng tức tối chống lại và hết sức bênh vực cố Phước chiếm giữ lấy trường thi. Sau cùng, có cuộc gặp gỡ tay ba: Hoắc Đạo Sinh, Đồ Phổ Nghĩa và cố Phước ở ngay trong căn phòng trong điện Kính Thiên nguy nga mà Gác-nhi-ê vừa mới cho xây tường ngăn ra nham nhở như đặt một cục đất nhão lên trên một chiếc đĩa ngọc. Hoắc Đạo Sinh bảo hai người:
− Các ông còn đòi lôi thôi gì nữa. Các ông không khéo xử. Người bán than làm chủ cái tiệm than của mình. Các quan An Nam là chủ trong nhà của họ, họ không muốn các ông tự tiện đến ở nhà họ thì các ông lấy quyền gì mà cứ đến, cứ ở?
Đồ Phổ Nghĩa cáu tiết hỏi lại:
− Nếu tôi đến Bắc kỳ trái với nguyện vọng của người An Nam, thì thử hỏi nước Phú ta tới ở Nam kỳ có đúng với nguyện vọng của người An Nam không?
Hoắc Đạo Sinh nói trắng ra:
− Chúng ta đến Nam kỳ với tư cách kẻ cướp, kẻ trộm, nhưng kẻ cướp kẻ trộm khôn khéo hành động theo một kế sách chung, đối với một bọn quan lại đã nhượng bộ, nghĩa là trong trường hợp ta có thế, có lý… Còn anh và Gác- nhi-ê chỉ là kẻ cướp, kẻ trộm lẻ loi, tự ý làm càn mà thôi. Nếu Gác-nhi-ê không chết, hắn còn bị truy tố trước tòa án quân sự!
Cố Phước vặn lại:
− Mấy thành trì quan trọng đã chiếm được cả, chính quyền đã lập xong. Chia cắt thành một nửa nước riêng là hợp với nguyện vọng của những người dân ngoài Bắc này và rất có lợi cho ta, chỉ trong một thời gian nữa là toàn bộ Bắc kỳ này tách ra khỏi hẳn triều đình Huế. Thế mà dư luận ở Sài Gòn không biết đến sự thực ấy đã phần nào làm nản lòng ông Gác-nhi-ê. Rồi ông ra đây, ông lại về hùa với triều đình Huế, cái triều đình thối nát…
Hoắc Đạo Sinh cười ngắt lời:
− Thưa cha, xin cha nhớ cho rằng, chính vì cái triều đình ấy thối nát, nên chúng ta mới đến được đây, và cũng chính vì nó thối nát, ta lại càng cần nắm lấy nó, dọa nạt nó, vuốt ve nó, để có lợi cho ta, để nó giúp ta đàn áp cái dân bất trị này. Cha quá tin ở số con chiên theo đạo, nhưng thử hỏi cái số ít ỏi ấy so với dân số xứ này có đáng là bao, và họ có hoàn toàn đáng tin cậy cả không? Hay chỉ là đi đạo lấy gạo mà ăn? Vả khi ta đem đặt những người theo đạo lên nắm hết quyền chính chỉ càng tổ gây cho toàn dân ở đây chống lại mà thôi! Cho nên ta hòa hoãn với triều đình Huế, với bọn quan lại An Nam, chính là nắm giữ lấy bọn này để làm cái cọc vịn mà xâm nhập dần dần, chắc chắn, chứ không nông nổi, quá lộ liễu như các ông…
Cố Phước nói tiếp:
− Bây giờ sự thể đã xảy ra như thế, mà đại biểu toàn quyền của triều đình Huế đã ở đây rồi, đã ở trong tay ông rồi, ông thay mặt Súy phủ Sài Gòn, có quyền định đoạt lúc này, tôi yêu cầu ông, vì quyền lợi của nước Phú mở sông Hồng Hà ra buôn bán tự do như ông Gác-nhi-ê đã tuyên cáo, biến Hà Nội làm một thành phố tự do, giữ cả trong thành và trường thi làm chỗ đóng quân thường trực để bảo vệ việc buôn bán, che chở dân giáo, giúp cho giáo hội mở rộng nước Chúa.
Hoắc Đạo Sinh nói:
− Sài Gòn chủ trương phái người cùng đi với quan lại triều đình ra đây nghiên cứu dân tình, nếu lòng dân còn quá găng thì giao trả thành trì, rồi nắm lấy họ để dần dần định kế chiếm giữ sau. Giá tôi ra kịp đã cứu sống được Gác-nhi-ê. Các ông thấy chưa: Dân chúng ở đây đón tiếp chúng ta như những trận Cầu Giấy đấy! Nên việc giao trả thành trì lúc này là cần thiết cho ta, chứ không phải là thi ân cho triều đình đâu…
Cố Phước nói thêm:
− Vậy thì ông phải giữ lại trường thi để đóng quân…
Không cho cố Phước nói hết câu, Hoắc Đạo Sinh nói gạt đi ngay:
− Trường thi nhất thiết phải trao trả trước, vì chính đấy là nơi mà tất cả thanh niên, tất cả mọi người tâm huyết ở đây đều chú ý đến, đều trông mong vào đó. Chiếm giữ đấy là phạm vào một nơi thiêng liêng của họ, dễ đẩy họ vào một cuộc báo thù cuồng dại! Hơn nữa, muốn chiếm giữ lâu dài đất nước người ta, cũng cần phải tỏ ra bề ngoài văn minh hơn người ta chứ. Thế thì chiếm chỗ thi cử, là nơi hoạt động văn hóa của người ta, cũng như ngăn tường một cách ngu xuẩn một cái lâu đài tráng lệ như thế này, chỉ càng tỏ rõ chúng ta thô lỗ, dã man, kém văn minh hơn họ mà thôi!
Đồ Phổ Nghĩa lái chuyện sang hướng khác, trách Hoắc Đạo Sinh:
− Ông đã hành động như một người thiếu suy nghĩ. Quân đội Phú đã đổ máu ở đây. Thế mà ông ra đến nơi, ông không thèm bàn hỏi gì với chúng tôi cả, ông lại nhượng bộ ngay các quan An Nam. Ông đã bôi nhọ, làm mất thanh danh nước Pháp. Về phần tôi, tôi bắt buộc ông phải đòi quan lại An Nam bồi thường cho tôi ba mươi triệu quan về các thứ phí tổn…
Cố Phước cũng nói xen vào, phụ họa với Đồ Phổ Nghĩa:
− Ông giao trả trường thi, thế ra chỉ còn trơ lại khu Nhà chung vừa mới làm xong bị cô lập! Còn những người quan chức, còn gần một nghìn lính vừa mới mộ về quẳng đi đâu, để cho bọn quan lại ghen ghét và cố chấp kia nó xử tội và giết hết à? Ông làm tôi mất hết uy tín với giáo dân. Cũng chính vì thế mà ông xúc phạm đến cả thanh danh nước Đại Pháp hùng mạnh.
Hoắc Đạo Sinh cười mỉa mai, nói một cách nghiêm nghị:
− Chính tôi đây đã giữ được thanh danh cho nước Pháp, đồng thời làm lợi cả cho Giáo hội, làm lợi cho nhà buôn chúng ta sau này. Các ông không nhìn xa quá mũi các ông, các ông quá tham lam, vụ lợi, nên mới chỉ tin vào mấy kẻ đê tiện đi theo đạo vì cơm gạo mà các ông đã lừa phỉnh được, nên dễ nhầm, dễ bị chúng nó dối lừa lại. Đây này! Các ông mở mắt ra mà xem, một lối cởi mà thắt, một lối bắt họ phải dọn đường cho ta đi tới làm ông chủ…
Hoắc Đạo Sinh mở cặp đưa ra một tờ giấy cho hai người xem và nói tiếp:
− Bản cam kết có ba điều khoản mà hai bên đã thỏa thuận và cùng ký ngày hôm nay, 11-1-1874 và hẹn đến ngày 20-1 này là phải thi hành xong. Các ông thử xét kỹ xem, cả ba điều ấy có lợi cho ta cả ba. Điều thứ nhất, đình chỉ mọi xung đột và nối lại tình hòa hảo. Các ông phải biết rằng bây giờ Sài Gòn và cả Pa-ri nữa không làm gì có quân mà gửi ra đây nữa, mà lính ta ở đây thì sau khi Gác-nhi-ê chết, đã mất hết tinh thần, trở nên sợ sệt và chán nản, trong khi bên địch, dân chúng bây giờ mới thực đang bùng bùng nổi dậy. Phải đánh nhau bây giờ là bất lợi cho ta. Điều thứ hai, quân ta phải rút hết xuống đóng ở cửa Cấm Ninh Hải, các quan An Nam phải làm ngay cấp tốc doanh trại cho ta. Thế là ta vẫn được đóng quân ở Bắc kỳ một cách hợp pháp, mà lại không mất phí tổn gì về đất cát, doanh trại. Các quan chức và quân lính ta mộ và ta đặt ra vẫn được coi như quan chức của triều đình, do triều đình điều động và sử dụng, không có tội gì cả. Và một điểm phụ ở điều này nữa là các quan An Nam vào ở trong thành này chỉ được mang theo tám mươi lính không có vũ khí và một đội quân danh dự ba mươi tên có vũ khí thường. Điều thứ ba là sau khi rút quân xong ổn thỏa không xảy ra việc gì cả, thì mới bàn đến việc giao trả thành Hà Nội. Như thế là ta lùi một bước để nhờ bọn quan lại triều đình đỡ đòn và dọn đường cho ta. Ta vẫn nắm được đằng chuôi mà uy tín của nước Pháp sẽ được tăng lên ở đây. Như vậy có nghĩa là ta trả lại trường thi và đến ngày hai mươi tháng giêng này là hạn cuối cùng, phải rút hết quân ở Hà Nội xuống Ninh Hải để bảo vệ tín nghĩa và danh dự cho nước Pháp dân chủ hùng cường.
Ngừng một lát, thấy những kẻ đối thoại của mình đã đuối lý, không còn quá hung hăng như trước nữa, Hoắc Đạo Sinh nói tiếp với giọng kẻ cả an ủi họ:
− Tình thế phải như vậy, các ông cố gắng chịu khó theo quân đội ta xuống Ninh Hải, để rồi sẽ trở lại đây đàng hoàng, yên ổn hơn. Còn về phần che chở những kẻ theo ta thì điều khoản thứ hai kia đã đủ lắm rồi. Triều đình Huế vẫn ngoan ngoãn tuân hành những điều họ đã ký. Và ta thừa sức bắt họ phải làm đúng như lời cam kết, và chỉ có ta, khi cần thiết, ta thường lấn họ.
Quay lại nói riêng với cố Phước, hắn trở lại giọng dịu dàng lễ phép tỏ ý khuyến khích:
− Kính thưa đức cha, đức cha vốn là người thâm trầm, mưu trí. Nhưng lần này quá say sưa với kết quả nhất thời cả ở phần đạo và phần đời, hóa ra vội vàng, nông nổi, đức cha đã nhìn sai đại cục. Tình thế bắt buộc ta phải tòng quyền. Tôi ký kết thế này là để giữ lại miếng đất dụng võ cho đức cha đấy! Đức cha sẽ còn thi thố được nhiều tài năng ở xứ này. Và nước Pháp sẽ còn cần đến sự giúp đỡ, chỉ dẫn của đức cha nhiều lắm đấy!
Cuộc hội kiến đến đây chấm dứt, Hoắc Đạo Sinh đứng lên tiễn chân hai người ra ngoài hè, khẽ ghé vào tai nói với Đồ Phổ Nghĩa:
− Còn việc ông đòi bồi thường, theo tôi nghĩ, hãy tạm hoãn lại đã. Nợ để lâu năm, chúng ta sẽ trở lại đòi lãi nhiều hơn nữa trên đất nước này. Nhiều nữa, chứ ba mươi triệu quan mà thôi đâu!
***
Quân Pháp đã rút khỏi Hà Nội đúng như Hoắc Đạo Sinh đã ký kết. Đúng ngày 20 tháng giêng 1874 tức là ngày 18 tháng 12 năm Quý Dậu, Tự Đức năm thứ 26, tất cả đoàn thuyền của Đồ Phổ Nghĩa và mọi quân lính của nước Pháp đều đã xuống cả Ninh Hải. Và đúng tết Nguyên đán năm ấy, các quan tỉnh Hà Nội đã lại đường hoàng làm lễ tế mừng thần linh ở ngay điện Kính Thiên như thường lệ. Rồi điều vui mừng nhất cho văn thân, sỹ tử và cho cả toàn dân phố phường Hà Nội là giữa lúc xuân thủ vui tươi dưới giời chiến thắng thanh bình ấy, nhà vua đã chuẩn y lời tâu xin của các quan tỉnh Hà Nội và Nam Định, đã hạ chỉ cho mở lại khoa thi hương ở hai trường Hà Nội và Nam Định. Việc này mang theo sự tuyên truyền cho chiến thắng của triều đình bắt buộc bọn Tây dương phải cúi xin ưng thuận hoàn thân, đã được thông sức đến tận thôn xã, phường phố đã làm nức lòng mọi người và đã truyền lan cái tác dụng ấy. Học trò lại nô nức đi học. Hai trường Vũ Thạch, Kim Cổ lại khai giảng ôn tập ngay từ đầu tháng giêng. Quan Đốc Mọc đã khỏe hẳn cùng với tin đại thắng ở Cầu Giấy và tin quân giặc rút hết, cũng vui vẻ lại ra ngoài trường ở cửa ô Hàng Đậu cùng vui với sỹ tử bốn phương. Cả thành phố vui lên với không khí giảng văn, nghỉ võ, và những nỗi bực tức ngày hôm qua đã bay theo bọn Tây cuốn đi hết. Sự chiến thắng đã làm cho quan và dân gần lại nhau, mọi người không còn căm phẫn quan trên và triều đình nữa, việc cũ chỉ còn như giấc chiêm bao, bây giờ ai nấy đều náo nức lên với khoa thi, “cứ ngỡ là không còn thi cử gì được nữa”! Bất cứ người dân nào dù cùng khổ đến đâu, một chữ nhất bẻ làm đôi không biết, đi qua thấy trường thi đang sửa chữa cũng vui mừng nói một câu tương tự như thế, kể chi những kẻ có theo đòi nghiên bút, sự gắn bó với trường thi lại càng sâu sắc biết chừng nào. Ở các trường học, trong những ngày bình văn, trả quyển, ông thầy thường nói đến trường, cách xếp đặt ở trong trường thi, và những mẩu chuyện vui buồn của các nhà nho ứng thí trong các khoa thi trước. Ông cử Kim Cổ ở gần trường thi, thường thường ông hay cùng với môn đệ đi đến tận nơi, vào hẳn cái cánh ruộng bỏ không ấy giảng giải cho họ biết rõ. Đầu năm nay, nhân có ông ấm Vẽ đến rủ, ông cùng với cậu ấm Tự Tháp, ba người đi sang trường Vũ Thạch chơi thăm cụ cử Nguyễn Huy Đức. Hai ông bạn ở gần nhau, nhưng vì cách tuổi, không cùng khoa với nhau, lại mỗi người một chí hướng khác, nên cũng ít khi đến chơi với nhau. Nay nhân dịp vui chung thắng lợi của toàn dân, toàn nước, học trò lại được đi thi, hai ông gặp nhau càng vui hòa với nhau, cùng hỏi han nhau về việc ôn tập của học trò, về việc học hành, thi cử. Rồi ông Kim Cổ mời ông Vũ Thạch cùng ra chơi xem trường thi đang làm lại. Ông Vũ Thạch vui vẻ ưng ngay, liền dẫn cả hai thanh niên đang hầu trà ở đấy cùng đi, hai thanh niên vừa dự vào đội quân mộ nghĩa trở về. Đỗ Uẩn ở Thịnh Hào, Lương Văn Can ở Nhị Khê. Ông cử Kim Cổ nhường cụ Vũ Thạch đi trước, đi sát gần hai cậu, khen:
− Đánh giặc cũng hăng, đi học cũng giỏi, cố gắng quyết khoa phen này nhé! Cụ Cử khen hai cậu học khá lắm.
Cụ Nguyễn Huy Đức nghe thoáng, ngoảnh lại nói:
− Quan cử Kim Cổ đã khen là may lắm đấy, thể nào tôi cũng có đệ tử vinh quy bái khánh.
Cả bọn cùng cười vui vẻ đi ra. Đến cổng trường, sáu người đang đứng lại xem người thợ nề xây vít lỗ tường thủng ở miếu Ân bên phải, người thợ nề đang nói cho mọi người biết nó đục tường để chĩa súng ra bắn và bắn như thế nào, thì Bá hộ Kim cũng vừa đi tới. Lão cúi đầu chào hai cụ cử, rồi nói cười một cách tự nhiên, giơ tay chỉ và mời:
− Rước hai cụ và các cậu quá bộ vào trong xem quang cảnh trường thi, còn bề bộn lắm. Nó dỡ mất cả nhà thập đạo đem xây bếp. Bây giờ sở tại lại phải làm hầu các cụ đấy. Làm lại khang trang, đâu ra đấy, học trò vào thi cũng thấy sướng.
Cụ cử Vũ Thạch hỏi:
− Ông Bá có cậu nào đi thi không?
− Bẩm cụ con nhà hào dốt nát, nó không có đất, các cháu lớn cả, đã bỏ học phá ngang.
Ông cử Kim Cổ nói:
− Đất cát gì! Tại ông không khuyên giục các anh ấy học, chứ cái cháu Xuyến nó học sáng dạ đáo để.
Bá Kim lễ phép nói:
− Ấy thưa hai cụ, con bé nó giống mẹ nó, chứ giống về đằng tôi thì dốt như hũ nút, học bí rì rì có dám đưa đến ăn mày cửa các cụ đâu. May con cháu bé lại được cụ Kim Cổ chỉ bảo cho học được đôi ba chữ, nhà cháu cũng được thơm lây, các thầy đồ ở nhà cũng vẫn khen.
Ông cử Kim Cổ hỏi đổi đi:
− Sửa chữa đã gần xong chưa? Có tổn nhiều không?
− Bẩm thưa hai cụ, cũng tổn phí nhiều đấy ạ, gần như tân tạo. Phải dỡ ra làm lại tất cả. Xin rước các cụ vào xem.
Lão vừa nói vừa nhanh nhẹn tiến lên đi trước hướng dẫn. Nhưng đến chỗ nhà thập đạo đang xây dở dang, lão đứng lại chỉ bảo thợ, bỏ quên hẳn bọn khách, mặc họ muốn đi đâu thì đi. Ông ấm Vẽ lủng bủng, khẽ nói với ông cử Kim Cổ:
− Cái lão Bá đến trơ thật. Nó làm nó như là chủ ở chốn này ấy, nó không biết đến cái tội của nó!
Ông Cử ôn tồn gạt đi:
− Thôi, mọi việc xong rồi, bây giờ mình thắng thế rồi, nên dĩ hòa vi quý, người ta mới sợ. Vả có lẽ lão không nghĩ xa xôi, đằng nào lão cũng cho là làm việc dân, nên lão cũng chả có mưu mô gì hiểm độc hại ngầm ai, dân họ biết cả đấy – còn hơn là những tú những cử, khoa bảng hẳn hoi, lại quay đi theo giặc, đắc lực, làm hại đồng bào, đồng chủng.
Ông cử Vũ Thạch cũng nói:
− Lão ta ít học, hay hống hách lếu láo, nhưng được cái thạo việc, thừa hành tốt, nên các quan nào cũng phải dùng…
Rồi ông chuyển ngay sang chuyện khác, chuyện trường thi:
− Lão trông coi chỉ bảo khá đấy, san phẳng và rào giậu trông có vẻ cả. Hồi tôi đi thi, ở mấy cái vi 1 ngoài này, họ để cả đất, vũng cầy, mưa lầm lội, chõng sụt tịt xuống đất, nước thấm lên cả quyển thi đến khổ! Trong giám viện thì để dột nát, bọn lại phòng họ phải che giữ các quyển thi họ kêu kêu là, năm ấy mưa to lắm.
1 . Vi là khu đất có tường bao bọc chung quanh. Trường thi ngày xưa chia làm bốn vi.
Ông ấm Vẽ nói:
− Thưa thầy, cũng một phần là tại chỗ này trũng hơn cả. Sao trước lại đặt trường thi ở đây kia chứ.
− Ứ ừ! Ông Cử nói cướp ngay. Cậu không biết, chỗ này đất kiểu, cái nội án của tay long cái thành này đấy. Nhà Lê có thi ở đây đâu, thi ở tận dưới đàn Nam Giao kia chứ. Sang đời Nguyễn, thì dân ta phải lên thi ở tận trường Sơn Tây. Đời Minh Mạng mới mở trường thi Hà Nội, ở mãi bãi Bến đá ngoài bờ sông chỗ thôn Cổ Tân bây giờ. Cuối đời Minh Mạng, quan Tổng đốc Đặng Văn Thiêm mới cắm khu đất này làm trường thi, lấy cái gò chỗ nền nhà thập đạo kia là hợp cách hồi long cố tổ 2 , dễ phát văn học. Rồi từ đấy mỗi đời một tu bổ, giồng rào găng, rào ruối, xây nhà quan cư bằng gạch, ngày thường dùng đến để phát chẩn. Hễ có khoa thi thì chỉ cần sửa sang qua loa, rào ngăn bốn vi và ngăn thí viện với giám viện, chóng xong mà không phí tổn mấy. Chứ có phải làm lại cả như thế này đâu.
2 . Con rồng quay đầu về núi tổ.
Cậu ấm Tự Tháp phá lên cười nói:
− Vì là đất kiểu, nên Tây nó cũng thích đóng ở đây.
Ông cử Vũ Thạch thật thà, nói ngay:
− Ấy tôi cứ lo nó chiếm hẳn mất cái trường thi này thì rồi vượng khí văn học nó chiếm đoạt mất cả thật bất lợi cho dân mình...
Ông ấm Vẽ cũng cười nói đế vào:
− Thế nên phải đánh Tây đuổi đi nhỉ thầy nhỉ!
Mọi người đã bước đến một cái nhà quan cư, hai ông Cử ngồi nghỉ xuống ngưỡng cửa. Ông cử Kim Cổ không muốn để bọn trẻ có ý trêu chọc ông già, liền nói:
− Chính ở trường thi này, mười năm trước, khoa Giáp Tý đã có cuộc náo trường sỹ tử không vào thi, chống lại hòa ước Giáp Tuất để mất Gia Định đấy. Các quan tỉnh, quan trường cuống lên chia nhau đi hiểu dụ mãi, anh em mới lại chịu vào thi, một số bỏ về, tôi cũng trở lại thi và đỗ khoa ấy đấy!
Ông ấm Vẽ reo lên:
− A ha thế là quan bác bỏ mặc anh em!
Ông Cử cũng cười theo:
− Cốt ở lòng mình không bỏ thì thôi. Mọi người thi cả chứ riêng tôi à. Mấy lại có thi có đỗ khoa ấy, thì rồi mới có cái danh để ngày nay trong lúc khó khăn, nói mới có người nghe chứ. Có lòng mà không có danh, ai người ta theo một anh vô danh tiểu tốt bao giờ.
Ông cử Vũ Thạch cũng nói thêm vào:
− Chính thế thật đấy các cậu ạ, các cậu ơn nhờ ông cha có danh phận sẵn rồi, thế mà không học hành, không đỗ đạt, cũng khó được người ta coi trọng, nữa là những người khác, cá mè một lứa thế nào được. Cho nên các cậu cũng phải cố học, cố thi cho khỏi phụ tiếng ông cha.
Và ông chỉ vào hai cậu học trò cùng đi:
− … Còn các bọn hậu tiến này lại càng phải cố nữa, không học không đỗ, thì rồi sau này có muốn thi thố công việc lợi ích gì cho đời, ai người ta mượn.
Câu chuyện lại xoay quanh sang việc thi cử, mọi người đều thấy rõ sự đi học, đi thi là một điều thiết yếu ở trên đời và do đấy càng thêm gắn bó với trường thi, thấy đòi được trường thi để cho con em có chỗ thi cử là một chiến thắng cho nòi giống, cho danh giáo. Và nhìn quang cảnh sửa chữa ngăn nắp khang trang hơn trước ai nấy tự nhiên thấy có thêm thiện cảm với Bá Kim, ai nấy cũng nhận ra đúng như ông bạn già thôn Vũ Thạch:
− Chỉ tại lão ta ít học. Bất học vô thuật, thánh nhân xưa đã dậy như thế.
Và tự nhiên, cậu ấm Ba liên tưởng đến cô Xuyến, đến lời cô nói chân thành nhưng có vẻ chì chiết: “Cũng tại bọn nhà nho các anh hay khinh người, hay khinh miệt hàng hào”.
Cậu ấm Ba lẩm bẩm một mình:
− Con bé nó nói có phần đúng đấy!
Cuộc đi chơi thăm trường thi như thế đã khiến cho mọi người đều vui vẻ cả. Nó đem lại nguồn phấn khởi kích thích mọi người: Học trò cố gắng học tập để kịp ngày thi cử. Ông thầy càng vui vẻ tận tâm truyền dạy cho học trò đủ sức xông vào trường văn, trận bút. Và đây cũng là một dịp đền đáp tâm trí, dũng khí của những ai đã hăng hái lao mình vào cuộc chiến đấu thắng quân thù vừa qua. Cho nên khoa thi mở lại kỳ này đối với mọi người đều có một ý nghĩa vui vui, thinh thích.
Bỗng nhiên gần đến ngày vào thi, đúng ngày các quan tiến trường, một việc đã làm náo động cả sỹ tử Hà Nội. Triều đình ý muốn tỏ lòng quyến cố đối với cái miền đã bị bọn giặc giầy xéo và đã góp công đuổi được quân thù, nên đã cử một vị chủ khảo danh vọng lớn nhất từ trước đến nay: quan Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, người Đam Đường, Nghệ An, cùng đỗ một khoa với người cùng tổng Trung Cầu là Thám hoa Nguyễn Văn Giao, cùng tổng, cùng khoa, hai ông cùng đỗ nhất giáp cập đệ, tiếng tăm lừng lẫy một thời. Tiếng lớn ấy tưởng chừng sẽ làm nức lòng nhân dân đất Bắc và tăng thêm niềm tin cậy của học trò lều chõng vào trường. Nào ngờ, nghe đến tên quan chủ khảo, học trò trong thành Hà Nội đã xúm xít lại hỏi nhau xôn xao:
− Nguyễn Đức Đạt nào nhỉ?
− Có phải Nguyễn Đức Đạt, Tuần phủ Hưng Yên không nhỉ?
− Phải rồi, cái quan Tuần đã sai lính nhổ kè ở sông Cái cho tàu giặc Phú đi và đem lễ vật ra đón mừng, rước giặc vào thành, viết giấy hàng phục đấy!
− Ấy thế mà ông ấy được thăng Tham tri và bây giờ ra làm chủ khảo khoa thi này, đứng tiêu biểu cho sỹ lâm đấy.
− Thế thì dân Hà Nội đây không thèm thi với các anh quan hèn mạt tham sống sợ chết ấy! Hay chữ mà làm gì, tham bảng mà làm gì! Đọc sách thánh hiền mà không bằng bọn ngu phu, ngu phụ! Nhổ vào mặt lão chủ khảo ấy, không thi với thác nữa!
Cậu ấm Ba Tự Tháp hung hăng nói thế và chạy đi rủ các bạn bảo nhau đi báo rõ cho các thí sinh biết đừng vào thi nữa. Ông cử Kim Cổ biết tin vội đi can ngăn từng người:
− Làm thế không được đâu, người ta sẽ buộc tội mình chống lại triều đình người ta chặt đầu đi cho. Vả còn có nhiều người nữa chứ, có riêng ông chủ khảo đâu. Cốt ở lòng mình ấy, còn nếu lan truyền ra mà anh em không theo, lại chả hóa ra mình là kẻ hiếu sự chỉ hay sinh chuyện thôi, rồi chẳng ra gì cả.
Cậu ấm Ba đành phải nghe theo, không dám đi khua động nữa, chỉ rủ tất cả anh em trong phố và Văn hội Thọ Xương không vào thi nữa, vui lòng chờ đợi đến khoa sau.
Nhưng việc đời nào có phải như ý người ta chờ đợi – Khoa sau chưa đến. Trường thi Hà Nội đã bị biến đổi long đong. Triều đình Huế đã ký với bọn Phú, Hòa ước Giáp Tuất (ngày 15-3-1874) rồi Thương ước ngày 31-8-1874, công nhận cho người Phú được có một khu đất đóng quân và được buôn bán tự do ở Hà Nội. Tháng tư năm sau, bọn Phú lại kéo quân đến Hà Nội thi hành những điều ước trên. Các quan Hà Nội phải cắm khu đất Đồn Thủy ngoài bờ sông làm nơi nhượng địa. Và trong khi chờ đợi xây dựng doanh trại ở khu đất mới ấy, bọn chúng lại được các quan chức Hà Nội cho đóng giữ trường thi – Có quân đội Phú đến đóng ở đấy, cố Phước liền trở lại khu Nhà chung và đem thêm các cố Đông tức Giăng-đờ-rô (Gendreau), cố Thịnh (tức Chaize) mở rộng khu vực. Khi tên Đại úy Sa-pô-tô đem quân đến đóng ở trường thi theo đúng như điều ước đã ký, cố Phước đã sang thăm trại lính, làm lễ giảng khuyên răn quân lính. Rồi lão vào phòng chỉ huy dặn dò riêng Sa-pô-tô. Lão nói một cách ngọt ngào thân mật:
− Phi-lát làm hỏng hết. Ta phải làm lại tất cả. Ông phải cáng đáng mọi việc của Đuy-puy và Gác-nhi-ê đấy. Đối với bọn quan An Nam, ta cứ phải làm già. Bây giờ ta lại có thế, có lý hơn trước. Có điều bây giờ gặp lão Tuần phủ này hơi sõi, mà dân ở đây vốn phục lão và tin lão. Phải tìm mọi cách giảm giá lão ta. Vậy trước hết, ông hãy cho sao và niêm yết cả hai tờ hòa ước và thương ước cho dân họ biết đến cái lý của ta. Ông cầm cho sao bằng chữ lớn đập ngay vào mắt mọi người cái tờ ký kết mà chính lão tuần ký nhường cho ta cái khu trường thi này.
Tên Sa-pô-tô đã làm theo đúng lời cố Phước, cho sao mỗi tờ làm hai bản dán ở hai bên cổng trường thi. Hắn còn khôn khéo dặn tên thông ngôn nói lại với những ai hỏi đến những tờ hòa ước ấy:
− Anh nhắc rõ cho dân chúng biết rằng đoàn quân của người Phú chúng ta đến đóng ở đây là theo đúng những điều khoản đã ký và mong rằng dân chúng ở đây vốn biết tuân theo mệnh lệnh của triều đình, dễ tỏ tình hòa hảo với quân đội Phú và giúp đỡ chúng ta xây dựng doanh trại.
Quả nhiên mưu thâm độc của cố Phước đã thỏa được ý mong mỏi nham hiểm của lão. Luôn mấy ngày liền, dân chúng lâu nay có nghe nói đến hòa ước và thương ước, nhưng chưa rõ nội tình nó thế nào, nay mới biết được toàn bộ cả hai tờ ước đã ký kết ấy; bảo nhau ra xem cho tỏ mọi điều khoản và sau cùng, ai cũng phải ngạc nhiên về tờ hiệp định đóng quân ở trường thi. Nhất là bọn học trò và văn thân đều cố mò đến xem và sao chép lại truyền cho nhau mấy điều khoản của cái hiệp định ký ngày 30 tháng 5 năm giáng sinh 1875, tức năm Tự Đức thứ 28 tháng tư, ngày 26. Chữ to, rõ, chân phương, bản hiệp định đập vào mắt mọi người, ai cũng nhìn thấy và ghi nhớ rõ chỉ có hai điều khoản:
Điều khoản một : − Các quan chức Hà Nội tạm nhường trường thi cho quân đội Phú Lãng Sa từ ngày ký hiệp định này đến ngày 1 tháng giêng năm 1877 và nếu cần có thể lâu hơn nữa.
Điều khoản hai : − Các quan chức Hà Nội sẽ giúp đỡ mọi phương tiện để quân đội Phú Lãng Sa xây dựng doanh trại ở đấy và ở nơi nhượng địa ngoài bờ sông theo những điều đã ký ở tờ thương ước để thắt chặt thêm tình hòa hảo giữa hai nước.
Ký tên: Trần Đình Túc , Tổng đốc Hà Ninh Trần Hy Tăng , Tuần phủ Hà Nội Bờ-ri-ôn-van , đại diện Thiếu tá tư lệnh trưởng Công sứ chính trị ở Bắc kỳ Đuy-pon-li-ê , Đại úy công binh ở Bắc kỳ.
Những điều khoản ấy mà lại do chính quan Tuần phủ Hà Nội đã ký à? Quan Tuần phủ Tam nguyên, người ở Vị Xuyên, Nam Định mà văn thân và nhân dân Hà Nội đã đón rước với một lòng tin tưởng chân thành, hơn đón quan Tuần trước, người sở tại, quan nghè Kim Lũ Nguyễn Trọng Hợp? Ngài khiếp nhược chăng? Ăn tiền, ăn lễ của bọn Tây chăng? Sao lại để bọn Tây lang sói giày xéo lên mảnh đất văn chương? Hay cũng lại tuồng Thám hoa Nguyễn Đức Đạt? Chắc không phải như thế. Vốn còn giữ được lễ độ sẵn có đối với một vị Tam nguyên, Văn hội Thọ Xương liền cử một đoàn người có ông cử Kim Cổ, bạn đồng niên 1 với quan Tuần, ông mền Kim Liên, ông cử Hoàng Mai và cả cậu ấm Ba Tự Tháp lên gặp quan Tuần để hỏi cho ra lẽ. Quan Tuần tiếp đón niềm nở, mời đoàn ngồi chơi và hỏi ngay:
1 . Bạn cùng một khoa thi.
− Các vị đến đây để buộc tội tôi đã ký cho người nước ngoài đóng mất trường thi, phạm vào nơi danh giáo chứ gì? Ấy chính lối ly gián của địch đấy! Nó dán tờ giấy có chữ tôi ký cốt là làm cho dân không tin tôi nữa. Chính là mưu của đức cha đấy, vì tôi ở chỗ nào cũng bị các đức cha ghét. Ở Bình Định trước cũng vậy. Cố Hậu coi tôi như tử thù.
Ông cử Kim Cổ được dịp nói ngay vào đề:
− Bẩm cụ lớn, ấy chính văn hội chúng tôi băn khoăn vì thế đấy ạ. Bọn Ngạc Nhi đã đến đóng trường thi rồi đánh chiếm thành trì của ta, gây ra bao tội ác. Ấy thế mà lại có bọn khác đem quân đến đóng như thế, chúng tôi sợ rằng chúng nó sẽ lại lấn dần, có đằng chân chúng sẽ lân đằng đầu như lần trước, rồi biết làm sao. Sở dĩ có băn khoăn phải vào trình cụ lớn là vì lo xa như vậy.
Ông cử Hoàng Mai nói thêm:
− Vả nghe đâu chúng đóng quân những quá hai năm nữa, tức là hết năm Bính Tý, như vậy là quá khoa thi thường lệ rồi, năm ấy sẽ lấy trường đâu mà thi? Hay là lại hoãn?
Quan Tuần vội nói ngay:
− Các vị lo cho đạo Nho ta thế là chí lý. Chúng tôi cũng có nghĩ đến điều đó rồi. Nhưng xin thưa trước với các vị rằng chúng tôi cam đoan có được trường thi cho sỹ tử ứng thí chứ…
Quan Tuần ngừng lại như có ý nhìn xa về viễn ảnh tương lai. Cậu ấm Tự Tháp bạo dạn nói xen vào:
− Bẩm cụ lớn, việc thi cử là một thịnh điển của nước nhà. Nếu không thi được, hay là thi không ra gì, nơi trường thi luộm thuộm mất cả thể thống, thì tức là ta đã để cho bọn chúng nó xúc phạm đến quyền độc lập tự chủ của nước mình, như thế có khác nào cảnh nước mất, nhà tan như bà con trong lục tỉnh đang phải chịu.
Ông Tuần ngắt, giảng giải:
− Sự thể là như thế này: Thi hành Hòa ước và Thương ước Giáp Tuất, tỉnh ta phải cắm một khu đất rộng ở Hà Thành này cho bọn Phú đến xây dựng trại đồn đóng quân và mở mang việc buôn bán. Tôi đã cắm một số ruộng bãi ở chỗ Đồn Thủy cũ ngoài bờ sông, vì chỗ ấy cách biệt, không đụng chạm gì đến dân, nhưng lão quan tư La Đăng mãi nó mới chịu nhận. Hiện nay đất đã có rồi, còn phải dựng nhà cửa chứ. Nhà ở đó sẽ làm theo kiểu Tây, tường gạch lợp ngói, lại trên một khu đất trũng ngoài bờ sông, thế tất không thể nhất thời làm xong ngay. Vậy nên tỉnh đường đồng ý cho họ đóng tạm ở trường thi, rồi sẽ cố gắng làm nhà cửa ở nơi đất đã quy định kia cho chóng xong trước tháng năm, tháng sáu năm Tý. Bấy giờ ta dọn dẹp nơi trường thi cũng kịp chán. Tôi xin đoan với các vị, ta sẽ giục được họ trả lại trường thi càng sớm càng hay.
Ông cử Kim Cổ hỏi thêm:
− Thưa cụ lớn, thế sao lại ghi là nhường cho nó đến mồng một tháng giêng năm 1877 và nếu cần thì kéo dài thêm nữa.
Quan Tuần cười:
− Điều ấy là phòng xa thế, họ muốn ghi như vậy để ngộ nhỡ chưa xây dựng xong nơi ở, nơi ăn, chốn làm việc, thì họ vẫn còn có chỗ ở yên ổn, không lo bị đuổi ra khỏi nhà, hay bị quấy rầy khó dễ. Ấy những kẻ đi đồng đất nước người, lạ nước lạ cái, đều có ý nghĩ lo xa như thế. Nhưng các vị cũng nên nhớ rằng công việc làm doanh trại nhà cửa ở đây, còn cần những thợ làm và vật liệu do ta cung cấp. Vậy muốn cho mau có được trại đóng quân trên bờ sông, điều cốt yếu vẫn là do ta chứ.
Ông cử Hoàng Mai hỏi thêm:
− Thưa cụ lớn, điều mà anh em văn hội và cả toàn dân lấy làm tức tối là: tại sao hai anh đại diện bên Phú Lãng Sa chỉ là chức Đại úy như Phó lãnh binh của ta, mà lại được phép ký ngang với quan Tổng đốc và quan Tuần phủ Tam nguyên của ta. Thế thì còn đâu là thể diện quốc gia? Mà tên La Đăng đâu không ký? Mà sao ta không để Lãnh binh, Án sát ra ký? Ra mình cứ chịu lép vế à?
Quan Tuần đáp thong thả:
− Thầy cử Hoàng Mai nói đúng. Đó là một việc đáng lẽ phải đòi cho được những người ngang hàng ngang tước ký với nhau thì mới phải. Nhưng khốn nỗi, quân lính của họ đã kéo đến cả đây rồi, mà mình cứ đòi cho được người ngang chức với mình mới ký kết, như thế là cố chấp và quân lính của họ thì dồn vào đâu cho được, cứ để mãi ở dưới tàu à? Hay là để cho lên phố lang thang hoành hành như bọn Đồ Phổ Nghĩa trước kia? Mà mình cho Lãnh binh, Án sát, Bố chính ký với họ thì họ không nghe. Đến một nơi nào, một tỉnh nào, tất họ đều muốn kẻ đứng đầu ở đấy công nhận họ. Thường tình con người ta đến nơi xa lạ đều có bụng nghĩ như thế. Vả lại, khi tôi được cử trông coi việc thương chính ở đây, đức vua ân cần dặn phải giao thiệp cho khéo, phải tỏ ra là chủ hiếu khách, cương nhu cho đúng lúc, chớ để người ta trách được mình, làm sao cho họ cảm thấy lòng thành và lòng nhân của mình. Cho nên lần này là lần đầu tiếp xúc với nhau, thấy quan thượng Trần là người giao thiệp với họ lâu năm đã vui lòng, thuận ký ngay những điều khoản trên, tôi nghĩ cũng chưa phải lúc mình cứ găng quá, để phá mất vẻ hòa khí ban đầu, vì đôi bên chưa phải nhất đán đã xa bỏ nhau ngay được, nên tôi cũng buộc lòng phải ký.
Cậu ấm Tự Tháp nói:
− Bẩm cụ lớn, nhưng một bản giao kèo ký kết mà chỉ có hai khoản buộc cả một bên như thế là không đúng, bên bị các điều khoản bó buộc rõ ràng là lép vế, mà bên lép vế lại là bên ta, bên các quan tỉnh Hà Nội, cho nên dân chúng tỉnh nhà lấy làm phẫn nộ tức lắm!
Quan Tuần ngồi trầm ngâm suy nghĩ, thấy mình đuối lý, rõ ràng bản hiệp định tỏ ra ta lép vế với địch thì còn biết ăn làm sao, nói làm sao bây giờ! Cuối cùng, ông ôn tồn sẽ sàng nói một cách chua chát:
− Sự thế bắt buộc phải thế: nhà vua muốn vậy, triều đình muốn vậy, quan thượng Trần muốn mau xong việc như vậy, thì còn biết làm thế nào được! Nhưng tôi xin thề với các vị trong văn hội rằng không khi nào tôi dám nghĩ đến làm điều gì hại dân, hại nước. Có cao xanh chứng giám cho tấm lòng của tôi.
Quan Tuần ngừng lại đăm chiêu nghĩ ngợi. Mọi người đều im lặng như cùng thông cảm với nhau trong một nỗi lòng u uất chung, trước bao nỗi khó khăn mà nước nhà đang vấp phải, mà một mình mình lẻ loi thì bất lực chưa biết tìm cách nào cứu chữa được. Hồi lâu, quan Tuần mới lên tiếng, giọng trở lại bình tĩnh, đĩnh đạc:
− Các vị cứ yên tâm, nhất định bản chức sẽ đòi lại trường thi cho kịp khoa thi! Các vị về báo với bà con ý định của tỉnh đường nhất quyết là như thế. Con em cứ đọc sách học tập, bà con cứ việc cày cấy, vải sồi, làm công nghệ. Điều cần thiết là phải gắn bó lấy nhau, chớ để người ngoài ly gián, cũng chớ nên khinh động làm phật ý ai cả.
Cậu ấm Tự Tháp rụt rè hỏi thêm:
− Bẩm cụ lớn, tại sao bọn cố Tây lại ở đây đông như vậy? Lèo tèo có độ mươi gia đình đi đạo mới đến, mà ngoài cố Phước ra còn có đến bốn lão nữa. Con sợ rằng họ sẽ dựa vào sự dễ dãi của ta mà làm việc khác nữa.
Quan Tuần nói thong thả, như rằn từng miếng:
− Đúng! Nhưng nan giải là ở đó. Họ có cớ, có lý của họ, có hòa ước che chở họ, mà họ lại có ý mong mỏi ta gây sự. Nên mình lại phải cao kiến hơn. Vẫn tử tế, nhưng vẫn đề phòng, hễ họ sa cơ phạm vào điều gì hai năm rõ mười là ta chộp ngay, như lão cố Hậu trong Bình Định, tôi tóm đúng tội, tôi đuổi đi cứ ngay râu ra mà chịu thôi! Các vị là những người ở sát ngay dân chúng, hằng ngày các vị có thể biết rõ được hành tung của họ, họ có điều gì sai trái cứ nắm cho được chứng cớ đích xác, báo tôi, tôi có thể bắt ngay. Nhưng đấy cũng chỉ là ngọn thôi. Gốc là phải giữ lấy dân. Các vị là người ở gần dân lại càng cần tìm hiểu rõ dân tình hơn nữa, để một mặt tự tìm cách giúp đỡ dân, bầy công ăn việc làm cho dân, một mặt trình báo lên quan trên biết rõ nỗi u ẩn thống khổ của dân để biết lối mà hưng lợi, trừ hại. Trong tình cảnh loạn lạc này, dân ra chắc khổ lắm, các vị phải biết rõ ở xóm ngõ, ở phường phố, dân khổ đến thế nào thì rồi trên này chúng tôi mới biết được chứ. Ta phải giữ lấy dân. Dân bây giờ khổ lắm thì các cố càng dễ dụ dỗ phỉnh phờ, cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ 1 , cứ có lợi là họ theo ngay, huống chi lại còn bị mê hoặc là được lên thiên đường làm nguồn an ủi về sau này. Bọn cố đến đông là cốt tranh dân với ta đấy. Nhưng thôi, các vị đi về, yên trí bảo nhau hòa thuận…
1 . Đói rét đến thân, không nghĩ gì đến liêm sỉ nữa.
Đoàn đại biểu văn hội đứng lên lậy biệt quan Tuần ra về, đem tin tức biến báo cho khắp các tư văn trong hạt. Mọi người cùng được thấy rõ tình thế hơn và hiểu thêm rằng một mình quan Tuần không thể cưỡng được với triều đình, với quan trên, lại càng thấy rõ được lòng quan Tuần cũng đang lo âu bực bội, chưa thể nhất đán thắng vượt ngay được nổi bước khó khăn lớn lao của cả nước; anh em càng hiểu rằng lúc này chỉ còn một cách là phải mọi người như một, trên dưới một lòng, tự bảo vệ lấy nhau, không để cho người ngoài khích nộ, ly gián đánh tỉa lẻ từng người, dựa vào quan phá dân, vin vào dân để buộc quan, chung quy chỉ là thiệt hại cho dân, cho nước; rồi kẻ địch bên ngoài lại càng có thêm cớ lấn bước được ta mà thôi. Cho nên, sau một dạo xôn xao bàn tán về tờ hiệp định do quan Tuần ký, toàn dân ở đây lại vẫn tin theo lời quan, yên tâm chờ đợi thi hành thương ước, đem chân tâm đáp lại, mong thật sự giữ tình hòa hảo lâu dài. Bọn cố Phước nghe ngóng tình hình, thấy dân gian vẫn yên tĩnh và uy danh quan Tuần vẫn không giảm sút tí nào, chúng liền thay đổi cách đối xử. Chúng cố giữ vẻ hoà nhã với mọi người, tôn trọng phong tục và pháp luật sống theo tập quán của dân, cầu thân với các quan tỉnh, quan huyện sở tại và tìm mọi dịp giao thiệp rộng rãi với nhân dân. Chúng thường đến chơi thăm các nhà danh tiếng trong vùng. Cố Mỹ, người đã ở lại suốt trong thời gian gần một năm không có bóng người Pháp nào ở Hà Nội, đã sống dựa vào quan Tổng đốc Trần Đình Túc và đã cố làm quen được với nhiều bậc văn thân ở thành phố; lão lại có lần đến học thêm chữ nho cụ cử Vũ Thạch. Dân hàng phố vốn từ trước đã không hiềm thù dân đi giáo, nay lại thấy những vị cha cố Tây này có lễ độ, biết tôn trọng phong tục của dân, nên cũng quý mến họ, không ghẻ lạnh, như đối với bọn Đồ Phổ Nghĩa và An Nghiệp. Và sang đầu mùa xuân năm sau, nhân dịp làm lễ khánh thành ngôi nhà thờ gạch đầu tiên của khu Nhà chung, cố Mỹ đã tự viết thiếp chữ nho mời các quan chức trong huyện, các văn thân và thân hào, phụ lão ở các làng, phố lân cận đến dự tiệc mừng. Lời lẽ trong thiếp trang trọng mong tỏ ý đặt tình giao hiếu thân thiện. Số đông bà con nhận được thiếp mời rủ nhau mua lễ vật và làm câu đối đến mừng, coi như các làng bên lương đi mừng gia hiếu làm đình chùa. Cố Mỹ thân ra đón tự ngoài cổng. Pháo nổ ran vui mừng. Và trong khi ăn tiệc, cố Mỹ và các cố thân đi mời rượu từng người. Cố Phước đi hết một vòng, đứng lại ở giữa nhà, cười rất tươi, nói thân mật với mọi người:
− Thưa các vị, các vị đã quá bộ đến mừng chúng tôi, chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Các vị ạ, đạo nào cũng là thờ giời, thờ đấng thượng đế cả. Chỉ có lối thờ cúng khác nhau mà sinh ra ganh ghét nhau, trái cả ý đấng thượng đế. Vì thế nên, đấy các vị xem, chúng tôi làm cái Nhà chung này theo kiểu đình ở ta, hai hàng cột gỗ lim, bên trên chồng giường, chồng kẻ như thế này, là ý muốn tỏ ra học lối người bên lương, để cho giống như nhau, để hòa hợp với nhau, có phải không các vị?
Nhiều người tấm khắc khen, có ý tin lòng tử tế của các cố Tây. Cậu ấm Ba đi với đoàn đại biểu thôn Tự Tháp “để xem họ xử sự như thế nào”, thấy cần nói mấy lời để cho họ biết mình đã rõ tâm địa họ và cũng là để nhắc nhủ bà con mình:
− Bẩm quý ngài bề trên, quý ngài nghĩ được như vậy thật là phúc đức cho bàn dân chúng tôi và lương giáo được đời đời sống chung với nhau vui vẻ. Chỉ sợ rằng cái kiểu đình lại càng dễ làm cho không ai để ý đến như kiểu nhà thờ riêng…
Cố Phước vẫn cười rất tươi vui vẻ và nói như phân trần:
− Lậy đức Chúa tôi lòng lành vô cùng. Người ban phước lành cho cả những ai còn ngờ vực. Các cha đây, người hội Thánh chỉ biết làm theo ý Chúa. Công việc hằng ngày sẽ chứng tỏ cho lời nói, đấy các vị ạ.
Bữa tiệc giao hiếu đầu tiên tuy đôi bên thường có những câu nói giữ miếng, vẫn giữ được tình hòa hảo và kết thúc vui vẻ. Rồi từ đấy, các cố bên khu Nhà chung cũng thường đi lại giao du rộng rãi thêm; gặp các bậc tư văn trong các xóm, các cố thường vui vẻ đứng lại chào hỏi. Vả có khi gặp nhau ở trên bờ hồ, họ thường cùng đứng lại ngắm cảnh, hỏi nhau về phong cảnh, cổ tích, cùng nhau hỏi han về văn chương, địa lý và đôi khi tranh luận cả về triết lý của các đạo Nho, Phật, Lão, Mặc, Thiên chúa…
Thế rồi một buổi chiều đầu thu, trời trong sáng, ánh nắng vàng bảng lảng tỏa rắc khung giời một màu bàng bạc, gió thu nhè nhẹ đưa thoảng hương hoa ngâu từ trong tháp vắng vẻ bay ra, cậu Ba Tự Tháp đang ngồi chơi ở trên nền gạch bệ tháp Báo thiên bên bờ rào ruối, nói chuyện với ông ấm Vẽ vừa mới ở trường Vũ Thạch ra. Chợt từ phía Nhà chung đi lên cố Mỹ và cụ Trọng cũng đang dạo chơi mát. Hai nhà tu hành đến gần, hai người cùng đứng lên đi ra chào hỏi. Cố Mỹ đứng lại vui vẻ hỏi:
− Các thầy bàn chuyện gì mà vui thế?
Ông ấm Vẽ đang muốn gây chuyện trêu tức bọn Tây, nên nói ngay:
− Kỳ thu thí 1 sắp đến rồi, mà người Phú vẫn đóng giữ trường thi chưa giả, nên chúng tôi chỉ có ngồi bàn đến việc thi năm nay thôi.
1 . Thi mùa thu tức là thi hương.
Cậu ấm Ba cũng nói thêm:
− Quan Tuần Trần có hẹn nhất định lấy lại trường cho sỹ tử thi chậm nhất là phải vào tháng năm, tháng sáu để còn tu bổ. Thế mà nay đã sang tháng tám…
Cố Mỹ nói cướp ngay:
− Việc trao giả trường thi theo như Hiệp chính quan Tuần cũ đã ký đến hết năm nay mới có thể xét đến. Vậy có trao giả hay không là do người Phú, do quan Lãnh sự, chứ không phải do quan Tuần. Quan Tuần cũ lại càng không thể nào đòi được trường thi. Người Phú không thể nào tin cậy một ông quan có ý khinh thường người Phú như vậy, ở Bình Định thì ông ta chống đạo, bắt đức giám mục, ở đây thì ông ấy nghiệt ngã với khách buôn và không ưa gì chúng tôi. Con người bất mục cô lậu cố chấp như thế, trong nước và người ngoại quốc đều khinh…
Cậu ấm Ba cãi ngay:
− Các ông không được nói như thế. Ông là người nước ngoài chứ người trong nước mà mở miệng ra như thế là chúng tôi trị vào khuôn phép ngay tức khắc. Quan Tuần Tam nguyên là tiêu biểu cho làng nho chúng tôi, tiêu biểu cho sự trì thân 1 , xử thế. Ở Hà Nội này, cụ lớn ngài giao thiệp với mọi người đều theo lễ độ, với các người theo đạo đều giữ đúng lẽ bác ái, không ức ép lòng tin của người ta. Việc đạo của các ông có bị trở ngại gì đâu nào? Còn các ông, các ông cho hễ ai ngoan ngoãn chiều theo ý các ông muốn thì là trung nghĩa, lịch thiệp chứ gì? Như kiểu quan thượng Trần của chúng tôi là các ông thích chứ gì?
1 . Giữ mình và đối phó với việc đời.
Cụ Trọng đưa mắt và nói nhỏ một câu tiếng Pháp. Cố Mỹ vội khôn khéo tìm lời gỡ lảng:
− Cứ như ý riêng tôi thì không cứ cứng cỏi đòi lại mà người Phú trao trả trường thi. Trước hết là trông vào khu nhượng địa Đồn Thủy đã làm xong nhà cửa tươm tất chưa và cũng là do cả quan Tổng đốc và quan Tuần phủ, chứ có riêng gì trách nhiệm quan Tuần…
Ông ấm Vẽ có vẻ bực dọc nói:
− Muốn gì thì gì, người Phú mà không trao trả trường thi đúng vào kỳ mở khoa thi, chỉ tỏ rõ sự thiếu thân thiện của người Phú mà thôi. Mà đã thiếu thân thiện như thế thì làng nho chúng tôi sẽ có cách đối xử tương xứng khác hẳn bây giờ.
Cố Mỹ suy nghĩ một lát rồi hỏi lại và trình bày ý nghĩ của mình:
− Tôi lấy làm lạ rằng, sao các ông ở đây lại cố tha thiết bám lấy trường thi như vậy? Việc trao trả cố nhiên do quan Lãnh sự xét khu nhà Đồn Thủy đã tạm ở được chưa, thì giao trả lại sớm được là hay. Nhưng nếu chưa trả, nơi này còn bận chưa dùng được, thì ta thi ở nơi khác đã sao? Việc học hành thỉ cử cốt ở thực học, chứ có phải ở cái trường thi đâu mà phải sinh chuyện. Ở nước chúng tôi và trong Sài Gòn bây giờ cũng vậy, có lấy việc thi cử làm trọng lắm đâu, ấy thế mà vẫn lắm nhân tài.
Thầy Trương Vĩnh Ký, người Nam các ông đấy, có thi cử như các ông đâu, chỉ học ở trường nhà Dòng là trở thành một nhà bác học, biết hết tiếng vạn quốc, giỏi chữ nho hơn cả bậc đại khoa ở đây, hiện nay thầy làm quan chủ bút toà báo Gia Định công báo và quan Đốc học trường Thông ngôn Sài Gòn…
Ngừng một tí, thấy hai người còn mải nghe. Cố Mỹ tiếp luôn:
− Hiện thầy Trương Vĩnh Ký đang đi du lịch ngoài Bắc kỳ này, chỉ mấy hôm nữa là đến đây, các ông được gặp, các ông mới rõ tài học uyên bác của thầy, Tứ thư Ngũ kinh, bách gia chư tử thầy đều thông làu làu.
Ông ấm Vẽ hỏi:
− Ông ấy đã giỏi chữ nho như thế mà còn biết cả chữ các nước khác nữa cơ à?
Cụ Trọng đáp ngay:
− Thầy Ký giỏi lắm, hiện là một nhà thông thái của toàn thế giới. Đó là một vinh hạnh lớn cho người Nam ta, cho nước ta. Thế mà có cần thi hương, thi hội đỗ đạt gì đâu. Chỉ là nhờ ở Giáo hội Thiên chúa và nhờ ở nước Phú, nên mới được cả hoàn cầu biết đến tiếng tăm như thế chứ.
Cậu Ba Tự Tháp hỏi:
− Thế ông ấy ra đây làm gì? Hiện giờ ở đâu?
Cố Mỹ đáp với vẻ tự hào:
− Thầy Trương đi du lịch, nên có ý định đi thăm những nơi danh lam thắng cảnh, hiện thầy đang ở chơi Hải Dương, là thượng khách của quan Tổng đốc Phạm Phú Thứ. Thầy là bạn thân của quan Thượng Phạm từ khi ngài đi sang sứ bên nước Đại Phú.
− Như thế thì ông ấy sắp đến đây rồi, cậu ấm Ba nói. Liệu chúng tôi có được gặp không?
Cố Mỹ lấy làm thỏa thích, tươi cười nói:
− Thầy Ký sẽ đến thăm quan Tổng đốc, quan Tuần phủ, rồi đi thăm phố xá dân tình, tất nhiên thầy muốn gặp các thân hòa danh sỹ vùng này. Các ông muốn gặp riêng, khi nào thầy tới đây, chúng tôi sẽ mời các ông đến trước.
Ông ấm Vẽ hỏi một câu hóm hỉnh:
− Vậy ông ấy ra đây là người nhà, là anh em hay là khách nhỉ?
Cố Mỹ thật thà nói:
− Thầy Ký hiện là quan cao của Súy phủ Sài Gòn, thầy ra ngoài này tất nhiên là khách của các quan chức ở đây.
− Và tất nhiên là người nhà của các cha, các cố, cậu ấm Ba nói, vì thầy là con nuôi và học trò của nhà Dòng.
Thấy lời nói của ông cố Tây có vẻ hớ, cụ Trọng, linh mục người Nam, liền nói chữa:
− Đã là người Nam, ra thăm đất nước mình, đều là người nhà cả, nào có khách khứa gì. Chẳng qua vì thầy giỏi, thông thái, học rộng, biết nhiều, nên đi đến đâu cũng được nhiều người đón tiếp trọng vọng. Tôi chắc rồi đến đây cũng thế. Ai cũng mừng cho một người Nam mình tài giỏi lừng lẫy ngang với danh nhân thế giới.
Câu chuyện chuyển sang hướng xã giao rồi chia tay, hai vị tu hành trở về Nhà chung. Hai cậu ấm cũng trở về phường Kim Cổ thuật chuyện lại cho ông cử Kim Cổ biết và bàn cách đi gặp lão khách Sài Gòn ấy. Cậu ấm Ba nói:
− Đúng là nó đi một công hai ba việc, vừa đi dò la, vừa đi dụ dỗ, phỉnh lừa bọn ngu phu, ngu phụ, khoe khoang là đi theo người Phú thì được tài giỏi vẻ vang như thế. Cho nên tụi chúng nó có vẻ tâng bốc lão kia lắm. Ta nên đón nó thế nào cho nó biết rõ rằng tài ba lỗi lạc, học rộng biết nhiều mà không làm lợi gì cho dân cho nước thì cũng là đồ bỏ đi, cho nó biết rõ đã bán nước theo giặc thì chẳng ai ưa và cho nó thấy rằng dân cố đô này không bao giờ phục cái tài ba tôi tớ của nó.
Ông Cử và ông ấm Vẽ cùng chung một ý nghĩ như thế, liền chia cắt nhau đi xếp đặt công việc đón tiếp vị “khách quý” ấy. Cậu ấm Ba được giao cho giao thiệp thẳng với cố Mỹ bên Nhà chung để biết tin tức hành trình của Trương Vĩnh Ký và nghĩ thêm cách thức đón tiếp ở mỗi chỗ, mỗi nơi sao cho linh hoạt. Cuộc họp tan, ở nhà ông Cử ra, với ý định sẵn sàng, cậu ấm Ba chia tay ông ấm Vẽ rồi đi thẳng lên phố Đông Thành vào chơi nhà thầy bói Ba Thịnh. Giời vừa chập tối, trong nhà vừa lên đèn, Ba Thịnh nghe tiếng hỏi, nhận ngay ra cậu ấm, mừng quá reo lên nói:
− Thật là phượng hoàng đáo gia 1 ! Nhưng sao rồng đến nhà tôm tối thế?
1 . Chim phượng hoàng đến nhà.
Cậu ấm cười hỏi lại:
− Có bấm được quẻ gì biết trước rằng tôi đến vào giờ này không?
Ba Thịnh nói chữa:
− Ấy thưa cậu, nếu bấm mà biết trước rồi lại không quý. Đến giữa lúc người ta biết mà đang chờ đón lại hóa ra không hay nữa.
Cậu ấm vồn vã khen:
− Chịu thầy! Nay đệ đến đây, chính là cũng muốn bàn với thầy một việc. Mấy hôm nữa có một lão thông ký gì ở Sài Gòn ra đây, bọn Phú và bọn đạo khoe khoang nó là một bậc kỳ tài, thông thái nhất thế giới. Chúng nó ra sức ca tụng, tâng bốc lão ấy để tuyên truyền dụ dỗ chúng ta. Mà nó ra đây lại như là người nhà chúng nó mà là khách của chúng ta. Tôi nghĩ rằng cùng một giống nòi, cùng một đất nước mà làm như hai nước khác nhau như thế là đồ mất gốc, tài giỏi bằng giời cũng vất đi có phải không thầy? Vậy anh em cử tôi đến bàn với thầy ra ngồi bói ở chùa Quan Thượng hay ở đền Ngọc Sơn, hễ thấy nó đến cứ lựa thế nào chửi thẳng vào mặt nó thật đau, thật nhục cho nó biết thân. Thầy có bằng lòng, thì khi nào nó đến, nó đi chơi đâu, tôi sẽ báo thầy biết. Còn mặc ý thầy tùy cơ ứng biến. Thầy nghĩ thế nào?
Ba Thịnh tươi hẳn lên, không nghĩ ngợi gì cả, nói ngay:
− Tưởng việc gì, chứ việc ấy nhà cháu xin làm được đến nơi đến chốn. Có bị đánh quăng tráp xuống hồ, nhà cháu cũng cam!
Cậu ấm nói khích lệ thêm:
− Công việc chỉ có thế. Anh em tin ở tài ba của thầy đấy. Chả đến nỗi phải vất tráp xuống hồ đâu! Còn có các nơi khác phụ họa chứ. Thôi bây giờ ta nói chuyện phiếm chơi.
***
Cách một hôm sau, Trương Vĩnh Ký đi tàu thủy của Pháp đến Hà Nội. Hắn đến thẳng trường thi chào hầu Lãnh sự Kê-la-đích, rồi sang Nhà chung chào giám mục Phước (Puginier ), các linh mục Mỹ (Landais), Phúc (Bonfils), Đông (Gendreau). Hai nơi này đều mở tiệc mừng hắn, và cùng căn dặn hắn mọi lẽ. Cha Mỹ có cho người đi mời riêng cậu ấm Tự Tháp, nhưng cậu lẩn mặt, bảo người nhà ra thoái thác là đi vắng, không đến kịp. Ngày thứ hai, Trương Vĩnh Ký vào thành chào quan Tổng đốc và quan Tuần phủ. Tổng đốc Trần Đình Túc thân dẫn hắn đi thăm khắp mọi nơi trong thành nói cho hắn rõ lai lịch thành, công việc xây dựng công việc trùng tu, chu vi kích thước và mọi chi tiết về thành Hà Nội. Rồi các quan tỉnh họp lại ở dinh Tổng đốc, đặt tiệc chào mừng hắn như một phái viên đặc biệt của Súy phủ Phú ở Sài Gòn. Trần Đình Túc còn vui vẻ tâng bốc:
− Chúng tôi ở đây lấy làm sung sướng được nghinh tiếp một vị người Nam được làm phái viên của Súy phủ Đại Phú Lãng Sa. Điều sung sướng hơn nữa là giao thiệp với nhau không phải nhờ đến thông ngôn.
Mọi người dự tiệc đều vui vẻ chúc mừng “vị khách quý quốc” thăng quan tiến chức. Trương Vĩnh Ký càng thêm sung sướng phấn khởi. Ngày thứ ba, cố Phước cho người đưa Trương Vĩnh Ký ra chơi nhà Bá Kim và nhờ lão này đưa đi thăm mọi nơi thắng cảnh, đi như người thường, để tránh mọi sự đón tiếp phiền phức theo như ý Trương Vĩnh Ký đã nói với quan Tổng đốc hôm trước. Thời gian và hành trình đã được quy định sẵn: Buổi sáng đ