Chương II ĐƯỜNG VÀO LÝ TƯỞNG ?
Sau một lúc hoang mang, buồn đau đến cực độ, tôi thấy rằng bổn phận của tôi đối với cuộc kháng chiến chống Pháp, giành lại độc lập cho đất nước đến đây là hết.
Tôi đã làm tròn nhiệm vụ của một công dân.
Bấy giờ, mục đích đã đạt, người ta thải hồi, vất bỏ những kẻ đã góp công sức, góp xương máu vào cuộc kháng chiến, chiếm đoạt công lao của mọi người biến thành công lao của một nhóm, công lao của Đảng. Biết sao giờ?
Ngay trong đêm đó, tôi chèo xuồng suốt sáng về đến chợ Ngang Dừa thuộc quận Gò Quao, Rạch Giá, ở tại nhà một người bạn cũ, từng công tác chung với tôi trước đây. Tại đây nhờ sự giúp đỡ của gia đình bạn, tôi chuẩn bị một cuộc trở về Saigòn, tạo lập lại cuộc đời mới mà tôi biết chắc là tôi còn nguyên vẹn thuộc về tôi.
Mấy hôm sau, tôi đón đò máy từ chợ Ngang Dừa ra Rạch Giá rồi quá giang xe hàng về Saigòn. Tôi lại đến ở nhờ nhà của một người anh bà con và báo tin về Vĩnh Kim cho ba má tôi hay.
Từ đó, tôi sống lại cuộc đời học sinh, tiếp tục ngày hai buổi cắp sách vào trường, học với “tốc độ bù” để đền lại những năm đã mất.
Đậu Tú tài toàn phần xong, tôi đến ghi tên ở Đại học Luật Khoa.
Tôi đã lớn lên trong kháng chiến, nếp sống nay đây mai đó, gót chân của tôi gần như đi cùng khắp các tỉnh miền Trung và miền Tây Nam bộ. Nó đã tạo cho tôi, trong tiềm thức, một ước muốn mãnh liệt về nếp sống giang hồ, bay nhảy đi khắp đó đây.
Tôi ghi tên vào Luật khoa cũng vì muốn thỏa mãn ao ước đó. Vì rằng, xong phần cử nhân Luật, tôi sẽ xin xuất dương sang Pháp học về khoa chính trị ngoại giao. Rồi tôi sẽ cố cậy cục xin một cái chân nhân viên của Tòa đại sứ Việt Nam tại ngoại quốc. Thế là tôi thỏa được cái mộng giang hồ, được ngao du nhiều nước trên thế giới.
Ước muốn của tôi chỉ là một ước muốn khiêm nhường, hết sức tầm thường, nó không là một hoài bảo nhằm vào một mục đích chính trị nào cao xa. Danh vọng, địa vị làm sao thích hợp được cái mộng sông hồ có tính cách riêng tư của một cá nhân đi tìm những niềm vui nho nhỏ.
Những tưởng cuộc đời tôi sẽ êm ả trôi đi theo thời gian với cái nguyện vọng nhỏ nhoi, ghép mình trong cái sinh hoạt bình thường và khung cảnh chính trị đặc biệt của Việt Nam bị Hiệp dịnh Genève 1954 phân cách làm đôi.
Tôi cũng đã nghĩ đến, nhớ đến sách lược đấu tranh chính trị và những công tác chính trị cho miền Nam, chuẩn bị Tổng tuyển cử 1956 theo kế hoạch Trung Ương Cục miền Nam đề ra mà tôi đã được học tập nhiều lần trong những ngày đầu sau đình chiến.
Tôi vẫn biết miền Nam sẽ còn đấu tranh, máu lửa và hỗn loạn rối bời cho đến khi nào đảng Lao Động thống nhất được cả miền Nam trở thành nguyên vẹn một quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như miền Bắc. Chưa giải phóng được miền Nam trở thành vùng đất xã hội chủ nghĩa, thuộc nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” là nhất định “cách mạng” còn tiếp tục, còn có chiến tranh xảy ra, còn có cướp chánh quyền do Đảng lãnh đạo thực hiện bằng mọi cách. Không một người tham gia kháng chiến chống Pháp nào là không được học, không biết điều sơ đẳng đó qua những tài liệu chính trị học tập ở cơ quan.
Nhưng 1956 trôi qua một cách nhẹ nhàng, êm xuôi. Việc Tổng tuyển cử không thành. Các cơ sở đấu tranh chính trị được Trung Uơng Cục cài lại ở khắp miền Nam bị chính quyền Quốc Gia phá vỡ, dẹp tan gần như chẳng còn gì. Muốn thực hiện một cuộc đấu tranh phải gây dựng cho được một hệ thống cơ sở, tổ chức vận động sâu rộng khắp nhân dân quần chúng, với một hàng ngũ cán bộ lãnh đạo thật đông đảo từ trên xuống dưới.
Bây giờ cả cái hệ thống cơ sở, cả cái hàng ngũ cán bộ được Đảng phân công cài lại ở miền Nam đã bị phá vỡ, tóm sạch, gần như tan nát hết chẳng còn gì thì làm sao thực hiện nổi kế hoạch đề ra trước đây?
Mặt khác, kinh nghiệm Triều Tiên cho tôi biết khối Tư Bản, khối Đồng Minh của Thế giới Tự Do nhất định không khi nào để miền Nam tái diễn được cuộc chiến tranh giống như Triều Tiên ở miền Nam Việt Nam này. Bài học Triều Tiên là bài học đắt giá mà chánh quyền miền Nam cũng như Mỹ và khối Đồng Minh không thể nào không học, không rút kinh nghiệm, không có một kế hoạch đề phòng hữu hiệu.
Qua sự hiểu biết nông cạn về chính trị của tôi như trên nên sau năm 1956, tôi không bao giờ vướng mắc chút nghi ngờ nào về tương lai đen tối của vùng đất tự do ở miền Nam. Tôi ngây thơ mà tin như vậy.
Tôi vui vẻ xây rất nhiều mộng đẹp cho tương lai của riêng tôi. Cứ ngày hai buổi, cắp sách đến trường.
Đùng một cái, năm 1959, cuộc Đồng Khởi mở màn cho chiến tranh ở miền Nam bắt đầu lan rộng. Kinh nghiệm của chiến tranh Triều Tiên không được ai quan tâm nữa rồi!
Chính quyền và cả các đảng phái cũng như những nhân vật được gọi là chính trị gia, chính khách của miền Nam tự do này chống Cộng nhưng không biết Cộng ra sao nữa rồi!
Trời ơi, sao họ dốt, họ ngây thơ quá vậy? Tôi buồn. Tôi không sao không đánh giá họ thấp qua những điều đã nghĩ. Tôi ngây thơ thì là chuyện thường, nhưng họ, những người nắm vận mạng miền Nam, mang danh là chính trị gia, chính khách, nếu họ cũng ngây thơ như tôi thì… dep họ cho rồi! Tôi ức lắm.
Thế là chiến cuộc đau thương, tang tóc và tàn bạo càng ngày càng lan rộng mãi trên mảnh đất thân yêu miền Nam. Cuối tháng 12 năm 1962, một chiều, tôi ở giảng đường Luật khoa về nhà muộn hơn mọi hôm thì gặp má tôi từ Vĩnh Kim lên thăm chúng tôi, cũng vừa xuống xe xích-lô trước cửa. Nguyên từ ngày tôi trở về Sàigòn, ba má tôi mua cho mấy anh em tôi một căn nhà ở để đi học.
Cúc, em gái tôi chường mặt ra cửa, reo lên:
– Má lên! Má lên! Má mạnh hả má?
Má tôi cười, nếp nhăn ở đuôi mắt chạy dài ra thái dương:
– Con chó con! Làm gì la om sòm lên vậy? Hổng biết mắc cỡ à! Xung quanh phố người ta cười cho.
– Người ta mừng má mà! Má đưa giỏ xách đây cho con!
Tôi cũng nhoẻn miệng cười:
– Má!
– Ờ! Sao bữa nay về trễ dữ vậy con?
– Dạ, khi nào nghe thuyết trình ở giảng đường thì thường về muộn đó má!
Em gái tôi nhao nhao lên:
– Hổng phải đâu má! Má đừng có tin anh Tư. Ảnh dám chở đào đi chơi lắm đó má!
– Đào lộn hột hả? – Má tôi vừa nói vừa cười.
Cả ba má con tôi vui vẻ kéo vào nhà. Thằng Dũng em trai út của tôi lúc đó mới hay, đâm đầu nhảy hai bậc một đùng đùng chạy xuống thang gác. Tay nó còn cầm cái cọ hàn điện, dây nhợ lòng thòng.
Má tôi hỏi:
– Làm gì chạy đùng đùng dữ vậy con?
Dũng chưa kịp trả lời, miệng còn đang cười toét ra, Cúc đã nói ngay:
– Nó mừng má mà như vậy đó. Má biết hông, lúc này nó thành thợ điện, thợ sửa radio rồi! Ngày nào cũng vậy hễ đi học về quăng sách ra là y như chúi mũi với cái cọ hàn. Nó tháo, nó ráp, nó hàn, nó chế tạo radio. Vậy mà cả nửa tháng nay chẳng nghe cái radio của nó ọ ẹ được tiếng nào.
Dũng cười nói:
– Bữa nay xong rồi! Chút nữa em vặn nó la ầm nhà cho chị coi.
Sau bữa cơm tối, ba anh em tôi ngồi quây quần quanh chiếc pan trên gác. Má tôi nằm ở giữa. Tôi cất tiếng hỏi:
– Sao bữa nay má lên tối vậy má?
Trầm ngâm một lúc, má tôi chậm rãi trả lời:
– Thì cũng có chuyện tao mới đi tối vầy chớ!
Cúc chồm lên hỏi:
– Chuyện gì vậy má?
– Chuyện của mấy đứa bây! Khổ lắm! Mấy bữa rày ba bây ổng bỏ ăn bỏ ngủ, lo rầu. Tao cũng vậy. Tao tính lên cho bây hay mà ổng cản mấy bữa nay không đi được.
Tôi sửng sốt, không hiểu. Chuyện của ba anh em tôi? Ba anh em tôi lo học hành, nào đã làm chuyện gì nên nỗi? Lạ thực. Tôi ngơ ngác hỏi:
– Tụi con đã làm điều gì để ba má lo rầu đến nỗi…
– Không! Tụi bây giờ có gì đâu! Người ta kìa!
– Ai? Ai vậy má? Cúc hỏi.
– Mấy ông “tối trời” chớ ai! Tối bữa trước, cách nay bốn năm bữa, mấy ông “tối trời ” đến nhà mình biểu ba bây với tao phải kêu tụi bây về cho họ gặp mặt. Nếu không họ sẽ “mời” đi học tập vì có tội với nhân dân là để cho con cái làm việc với Quốc Gia.
– Trời đất! Má coi tụi con có đứa nào là làm việc cho Quốc Gia? Anh Tư thì sửa soạn thi nốt cái chứng chỉ cử nhân Luật cuối cùng. Con thì đang học đại học sư phạm. Còn thằng Dũng đang học đệ nhất. Sao má không chịu nói cho họ biết là tụi con còn đương đi học.
Đang nằm, má tôi ngồi ngay dậy:
– Tao nói cả chục lần chớ không nói! Có một thằng nó thắc mắc với tao, biểu ” Cử nhân là phản động gắt rồi chớ còn gì nữa”. Nó còn hỏi sư phạm là cái gì?
Cúc trố mắt lên: ·
– Trời đất ơi! Dốt đâu lại dốt đến lạ lùng! Ăn nói ngớ ngẩn, con tức muốn bể bụng ra.
– Cái thằng tự giới thiệu là ủy viên gì đó thì coi bộ khá hơn. Nó nạt thằng kia biểu đừng nói bậy mất chánh sách. Sau hết thì thằng đó yêu cầu tao cho bây hay là nó mời về nói chuyện. Nếu bây không về thì nó mời tao với ba bây đi.
Cúc đột ngột đập vào tôi một cái thực mạnh:
– Anh Tư, nghe coi chịu nổi không anh Tư?
Tôi nhìn Cúc một thoáng, lặng yên không trả lời. Chịu nổi hay không chịu nổi gì cũng phải chịu. Vì nó là một thực thể, một hiện hữu đang xảy ra trên đất nước này đây. Dù hành động này phi lý, không có môt thứ luật pháp nào quái gở như vậy, nhưng nó hiệu nghiệm, thỏa mãn được điều họ muốn.
Đường lối của Cách mạng, của Đảng không hiểu giai đoạn này ra sao nhỉ? Hoàn cảnh cuộc kháng chiến năm trước đây khác biệt với ngày nay quá xa, tôi không thể nào hiểu được.
Tôi không ngăn dược tiếng thở dài. Cúc buột miệng
– Con hổng thèm đi đâu hết! Anh Tư với thằng Dũng có muốn về gặp họ thì về!
Dũng vốn ít nói, nó buông một câu trách móc:
– Chị thì nghĩ gì đến ai? Ba má khổ sở ra sao mặc ba má, miễn chị cứ sống đầy đủ, ăn no ngủ kỹ thì thôi chứ gì!
Không thể dừng được, tôi lên tiếng rầy Dũng:
– Để tao về! Chuyện đó là chuyện của tao. Hai đứa bây đừng có lộn xộn càng làm má buồn thêm thôi.
Không khí lúc ấy đột nhiên nghiêm trang, không ai nói với ai câu nào, im phăng phắc, ngột ngạt hết sức. Một chốc sau, má tôi đưa mắt lo lắng nhìn tôi:
– Hùng… Con về rồi có sao không con? Liệu có gì không?… không lên cho bây hay thì cũng khổ, mà bây về thì….
– Cũng không đến nỗi nào đâu má! Con sẽ tìm cách giải quyết ổn thỏa với họ, không sao đâu.
– Ba con trưa nay biểu má lên cho con hay, hỏi con nên tính cách nào chớ ổng dặn má là con khoan về đã. Khổ lắm! Mà con không về thì.. cũng khổ, Má sợ…
Tôi cười để má tôi được yên lòng:
– Không có chuyện gì đâu má! Họ mời con về để điều tra, để rủ con tham gia làm việc với họ chớ không có chuyện gì đâu. Cái chuyện của họ là rún ép gia đình, dọa nạt gia đình để tạo áp lực đó thôi. Hồi 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhiều nơi người ta cũng đã dùng hình thức này rồi. Chuyện này con hiểu lắm. Không có gì nguy hiểm đâu, má đừng sợ.
Má tôi thở dài, hạ thấp giọng xuống, bắt đầu kể cho chúng tôi nghe:
– Lâu nay tao giấu bây, không cho bây hay sợ bây không yên tâm học hành. Suốt ba tháng rồi, tối nào mấy ông “tối trời ” cũng vác loa thiếc đứng xế cửa ngõ nhà mình, bới móc, nói nặng nói nhẹ, nói xiên nói xéo tao với ba bây đủ điều. Ho không kêu đích danh tên tuổi ai ra. Họ chỉ nói là bọn ăn bơ thừa, sữa cặn, bọn có đầu óc phản động, có con em đi làm tay sai cho Mỹ Diệm, bọn cầu an lưng chừng, nối dáo cho Quốc Gia chống lại nhân dân. cách mạng. Rồi họ nói đến bọn kháng chiến cũ mất gốc, đầu hàng nhục nhã, đủ thứ. Đêm nào cũng vậy, họ nói mắc mỏ, nói hành nói tỏi, nhục mạ đến điều độn thổ mà chết luôn. Thiệt tao với ba bây nhức mình không chịu nỗi. Mình vậy còn khá, vợ chồng anh chín Khoa thì thảm thương làm sao! Tội nghiệp… Ảnh chỉ chất phác thiệt thà, cả làng ai cũng chắc lưỡi kêu trời.
Tôi ngạc nhiên, sửng sốt: ·
– Ủa, vợ chồng bác Chín chết rồi sao má?
– Ảnh thì họ chặt đầu rồi. Còn chỉ thì họ dẫn đi biệt cả tháng nay chưa về.
Cúc cũng thảng thốt không kém:
– Trời đất! Bác Chín làm gì mà họ chặt đầu, má?
– Có gì đâu! Thằng Mười trước đây được đi học nhờ ảnh chỉ tiện tặn, chắt mót từ đồng nuôi nó đi học bò lên được cái tú tài một. Rồi nó nghỉ, nhảy qua học sư phạm. Ra trường dạy đâu được vài năm ở Chợ Gạo. Hôm Tết bị kêu quân dịch, đi Thủ Đức học sĩ quan. Tháng trước họ cũng vác loa đứng ngoài lộ, chửi xiên chửi xéo như vậy.
– Vậy sao họ chặt cổ, kỳ vậy má? – Cúc nóng nảy hỏi.
– Thủng thẳng đã chớ! Anh Chín, ảnh tức, nhịn không được nên mới nói đổng ra ngoài: ” Mấy ông muốn nói gì thì lên Thủ Đức kiếm thằng Mười mà nói với nó. Còn tui là nông dân cày ruộng ăn còn chưa đủ, tui có động chạm tới ai, tui cũng hổng có tội lỗi gì sao tới đây nói mắc mỏ, mắng nhiếc tui”
– Vậy rồi họ bắt chặt đầu?
– Ờ! Tối hôm đó họ xông vô nhà anh Chín, khép tội ảnh để con đi lính Mỹ Diệm chống lại cách mạng, không biết ăn năn hối lỗi còn thách thức cách mạng lên Thủ Đức. Họ kéo ảnh ra ngoài lộ chặt đầu rồi dẫn chỉ đi biệt tới nay. Thiên hạ kêu trời như bộng nhưng đâu có dám hở môi nói điều gì. Tao với ba bây hết hồn hết vía, cứ tối là đóng chặt cửa, tắt đèn.
Sáng hôm sau, tôi theo má tôi về nhà ở Vĩnh Kim để gặp họ. Tôi nghĩ rằng anh em chúng tôi không đứa nào là công chức hay lính tráng gì thì họ cũng chẳng bắt tròn bắt méo vào đâu được. Bất quá, tuyên truyền “giáo dục ý thức cách mạng”, điều tra sơ sơ một chút rồi thôi. Quá nữa thì người ta “đặt vấn đề”, mời tôi tham gia cách mạng đi theo họ là cùng.
Việc gặp họ chưa phải là một vấn đề nguy hiểm, sinh tử gì. Chứ nếu tôi không về thì dĩ nhiên ba má tôi chắc không sao tránh được tai ách. Cái chết của bác chín Khoa dù sao cũng là một ám ảnh, lo sợ đối với tôi.
Tôi đã nghĩ đến chuyện bỏ nhà cửa, quê hương, đưa ba má tôi về Sàigòn, nhưng trước đây, ướm thử một lần, ba tôi nhất định khăng khăng không chịu. Vì như vậy thì ai sẽ trông nom mồ mả ông bà nội tôi, ai sẽ săn sóc vườn tược và thu hoa lợi? Nhất là mảnh vườn năm mẫu rưỡi đó đã nuôi sống gia đình tôi, đã giúp cho anh em tôi được học hành đến nơi đến chốn ở Sàigòn. Chưa chi, người ta đã úp mở cho ba tôi biết rằng, nếu gia đình tôi rời bỏ mảnh vườn này thì coi như tự ý giao cho cách mạng. Vậy là mất hẳn, bị tịch thu. Gia đình tôi sẽ sống bằng cách nào đây? Ba tôi khăng khăng không chịu về Sàigòn là như vậy.
Bây giờ, chỉ có mỗi một cách là tôi phải về. Ít ra nó cũng giúp cho tôi tìm ra một biện pháp giải quyết để ba má tôi được yên vui. Tôi chỉ cần ba má tôi được sống bình thản, yên lành, vui với tuổi già, không bị bất cứ một điều phiền muộn nào làm trắng thêm mái tóc đã bạc và nhăn nheo thêm đôi má hóp gầy, chứng cớ của một đời hy sinh lo lắng chăm sóc cho các con.
Đó là niềm mong ước lớn nhất của bất cứ một người con nào yêu thương cha mẹ.
Nhà tôi nằm bên bờ sông Cửu Long Giang, thuộc xã Vinh Kim. Từ chợ về đến nhà gần 3 cây số. Xóm tôi ít nhà, vườn rộng nên tối đến là không khí yên lặng, quạnh hiu và vắng vẻ vô cùng. Ngoài tiếng sóng vỗ rì rầm trên sông và tiếng gió xào xạc khua động mấy tàu dừa, không còn thứ tiếng gì khác. Cái vắng lặng đến dễ sợ cho những người không quen sống trong cảnh cô tịch này.
Nếu còn, chỉ có tiếng chó sủa, tiếng gà gáy xa xa. Nhưng chó thì bị người ta ra lệnh bắt buộc bà con phải “thủ tiêu” từ 1959-1960. Người ta bảo rằng chó sẽ báo động cho Quốc Gia biết sự di chuyển, đi lại của lực lượng cách mạng. Nhà nào không thủ tiêu chó, là phản động, là “điệp” của Mỹ-Diệm. Cách mạng sẽ thẳng tay trừng trị, chừng đó đừng có than van.
Nhà nào nuôi chó, có tiếng chó sủa sẽ bị cách mạng chặt đầu thì ai còn dám nuôi?
Còn gà, dường như trong cảnh u buồn đó, cũng chẳng buồn gáy. Cho nên, chỉ có tiếng gió lồng lộng trên mặt sông, vi vút qua mấy tàu dừa hòa với tiếng sóng rì rầm của sông Cửu Long là âm thanh muôn thuở, điệu nhạc buồn cho thế giới ở đây.
Theo thói quen, gia đình tôi thường ăn cơm tối. Mặt trời lặn đã lâu, tôi và ba má tôi mới vào bàn ăn, bên ngọn đèn Hoa Kỳ cháy sáng. Bữa ăn thực im lìm. Tôi lên tiếng hỏi ba tôi:
– Ba, lâu nay ở nhà họ làm tình làm tội nhà mình nhiều lắm phải hông ba?
Nét mặt ba tôi bỗng nhiên cau lại suỵt khẽ:
– Nói nho nhỏ vậy con! Họ nghe thì khốn!
– Ai rình nhà mình làm gì ba!
– Biết đâu được con! Ở dưới này, từ hôm anh chín Khoa chết tới nay, ai cũng sợ hết hồn. Không ai dám hé môi, nói động gì đến họ hết. Tai vách mạch rừng mà! Rủi họ nghe được chỉ có nước bỏ xứ mà đi. Họ không từ đâu!
Tôi hồi tưởng lại những năm dài theo kháng chiến chống Pháp. Ngoại trừ cái thời hỗn độn 45-46, tôi chưa hề gặp và nghe thấy một áp lực nặng nề khó thở, kinh hoàng trong nhân dân đến thế này. Tôi không thể không nói cho ba tôi biết cái ý nghĩ đó:
– Hồi kháng chiến 9 năm có tàn bạo, kinh khủng đến mức này đâu ba. Phải chi ở cái thời hỗn loạn năm 1945- 1946 thì không nói làm gì. Trong buổi giao thời, hỗn quan hỗn quân, thù vơ oán chạ, chính tà khó phân biệt không ai kiểm soát, còn bây giờ… chính nghĩa gì, nhân đạo gì vậy ba?
Ba tôi hốt hoảng:
– Đừng! Đừng! Thôi con! Để mai hãy nói. Ban ngày ban mặt dễ hơn. Thời kỳ này là thời kỳ đảo điên, mạng con người như cỏ rác.
Tôi đành ngậm miệng. Nhưng một lúc, tôi không chịu nổi sự im lặng cũng như không nén được những ý nghĩ của mình, tôi lại thì thầm với ba tôi:
– Theo như con biết, hồi năm 1954, chủ trương chính sách của họ về công tác cơ sở là lấy dân làm gốc, dựa vào dân mà sống. Bám vào dân, sống chết với dân để gây cảm tình, phát triển cơ sở, tuyên truyền, giáo dục nhân dân thấm nhuần tư tưởng cách mạng, giác ngộ cách mạng. Chớ như vầy thì làm sao tuyên truyền, lôi kéo được ai?
Như khơi đúng niềm u uất bị dồn nén lâu ngày, ba tôi quên mất những điều đã can ngăn tôi. Ba tôi buông đũa xuống, khom mình về phía trước:
– Mấy thằng con nít chưa ráo máu đầu, đáng tuổi cháu nội ba mà nó nói với ba thế này thì con coi còn trời đất gì nữa. Nó nói, đối với cách mạng con người như cây mía. Khúc gốc già, cứng như củi bửa ăn không được. Khúc ngọn thì non, lạt nhách ăn cũng không được. Gốc, ngọn phải liệng hết xuống mương. Chỉ có khúc giữa ăn được mới giữ lại thôi. Nó muốn nói những người già như ba thì liệng đi. Nó còn nói bọn kháng chiến cũ “mất gốc” tức là mấy người tham gia kháng chiến trước đây, giờ không liên lạc với tụi nó nữa là cầu an, đầu hàng, phản động cũng chẳng khác gốc cây mía không dùng được nữa. Trước khác, giờ khác.
Tôi nghe chướng tai hết sức. Sao người ta lại có thể lý luận một cách vô luân thường, đạo lý? Tôi muốn biết rõ hơn:
– Bộ có ai đến đây nói với ba như vậy, hả ba?
– Không! Nó không vô nhà chạm mặt ba. Tối tối nó vác loa đứng ngoài lộ, la ong óng cái họng như vậy đó. Vậy chớ ba cũng biết thằng nói là đứa nào rồi.
Ngưng một lát ba tôi tiếp:
– Ba vì miếng vườn này, vì sự học hành của mấy con, ba phải giả mù, giả câm, giả điếc chớ đâu phải ba không biết gì? Nghĩ tới của cải, sản nghiệp này ba phải đồ mồ hôi nước mắt suốt đời ba mới tạo nên nó. Vì vậy mà ba cứ núm níu, bám giữ lấy nó, đi không đành…
Thấy hai cha con tôi càng ngày càng đi sâu vào chuyện nguy hiểm nên má tôi ngắt ngang:
– Thôi ông! Ban đêm ban hôm… Rầu cha con ông quá. Khổ lắm đa, ông!
Hai cha con tôi không nói gì nữa, lặng yên trở lại, tiếp tục ăn cơm. Cái cảnh có miệng mà không được nói này làm tôi thấy ngột ngạt, khó chịu vô cùng. Đã quen với không khí ăn nói bừa bãi nó quen rồi.
Từ xa vang lại văng vẳng tiếng mõ đánh hồi một. Mấy giây sau, càng nhiều tiếng mõ nổi lên gần hơn. Rồi có cả những hồi trống chầu. Khắp xóm tôi, từ lúc lên đèn đến giờ lặng trang, cũng đột nhiên tiếng mõ u, tiếng phèng la, đập thùng thiếc, đủ thứ mọi tiếng động nổi lên khắp đầu trên xóm dưới. Phía trong, phía ngoài, đông, tây, nam, bắc đủ cả. Ngoài đồn Vĩnh Kim vài loạt súng máy nổ dòn. Và phía trên Xoài Hột bắt đầu có tiếng đại bác nổ “oành oành” rung rinh mái ngói.
Tôi cảm thấy sợ hãi bâng quơ. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra, tôi ngơ ngác, hoang mang:
– Ba! Cái gì vậy ba? Bộ có ăn cướp hả ba? Mõ hồi một, chắc mõ ăn cướp quá!
Trái với thái độ ngơ ngác, kinh mang của tôi, ba tôi vẫn thản nhiên như không:
– Ối! Có gì mà sợ con! Đêm nào mõ ống cũng nổi lên như nhái đầu mùa mưa. Đánh mõ, đánh trống, khua thùng để “phát động” đó.
– Phát động cái gì kỳ cục vậy! Giống mõ trống ăn cướp hồi cái thời 45, 46 quá ba.
– Đợt phát động là vậy đó. Tối nào họ cũng bắt bà con trong xóm, ấp, trong xã, bất kể già trẻ, bé lớn gì hết, phải xách mõ, xách thùng thiếc ra trước nhà đập lên. Không mõ không thùng thiếc thì đập phên đập vách. Họ bảo làm như vậy là “phát động”, làm cho lính Quốc Gia đóng trong đồn mất tinh thần, sợ sệt.
– Có thể lúc đầu, ngày đầu không hiểu chuyện như con đây thì sợ thiệt. Nhưng khi biết rồi, đêm nào cũng nghe, ai mà sợ nữa? Chỉ có làm ồn ào, phá làng xóm không ai ngủ nghê gì được chứ ích gì? Kỳ cục quá ba! Súng nổ nữa…
– Lính ở đồn Vĩnh Kim bắn đó đa! Cà-nông thụt nữa đó.
– Xúi dân làm vậy, đồn bót bắn đại vô làng, vô vườn chết dân thì ai chịu trách nhiệm đây?
Má tôi nhìn tôi:
– Thôi, Hùng ăn cơm đi con! Thây kệ thiên hạ làm gì họ làm, cứ giả đui giả điếc như ba má đây mới yên thân đa con!
Tôi chưa kịp nói môt câu để má tôi hiểu tôi đang nghĩ gì thì ở ngoài cửa nhà trước, hình như có tiếng gõ cửa nhè nhẹ:
– Cộp! Cộp!
Đúng rồi! Có tiếng gõ cửa thật. Cả nhà tôi im phăng phắc. Má tôi lo lắng, bối rối ra mặt. Và ba tôi vặn nhỏ ngọn đèn thấp xuống.
– Cộp! Cộp! Cộp!
Lần nầy tiếng gõ cửa lớn hẳn lên, rõ mồn một, nặng hơn trước nhiều. Hai mắt má tôi mấp máy, môi run run. Má tôi dậm chân, thì thào trách móc ba tôi:
– Khổ lắm! Tôi đã nói ban đêm ban hôm… Cha con ông nhiều chuyện. Khổ lắm! Làm sao bây giờ ông?
Mặt ba tôi hơi tái đi, nhưng cũng suỵt khẽ:
– Gì mà bà quýnh quáng vậy? Đâu bà lên tiếng thử coi.
Cửa nhà trên lại “cộp, cộp!” rồi từ bên ngoài một giọng nói đàn ông vọng vào:
– Bác Hai ơi! Bác Hai!
Má tôi bước chầm chậm lên phía nhà trên, tay bưng chiếc đèn chong nhỏ, ngập ngừng, lạc giọng:
– Ai… đó? Ai kêu cửa đó?