← Quay lại trang sách

Chương II (2)

Tôi hồi hộp, ngồi sững trên ghế. Không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra cho gia đình tôi đêm nay? Tôi đứng dậy rón rén chân bước lại gỡ chốt cửa sau. Có gì, tôi sẽ tông ra đó, men theo nhà kho chứa lúa, lần vào đám vạn thọ với mồng gà cao tới ngực là yên thân.

Má tôi lập lại câu hỏi:

– Ai đó?

Lần nầy, tiếng phía bên ngoài vọng vào, nhỏ hơn:

– Cháu đây! Cháu là Năm đây! Bác mở cửa cho cháu vô với!

– Xin lỗi!… Chú Năm nào vậy… cà…

– Dạ, cháu là Năm. Hôm trước đến thăm hai bác và nhờ bác mời mấy anh chị về chơi đó!

– Ờ! Tệ quá! Chú Năm mà lại tưởng ai. Già cả rồi, tai nghễnh ngãng vậy đó.

– Dạ, cháu nghe có anh Hùng về nên cháu tới thăm chơi!

– Ờ! Ờ! Cám ơn chú Năm!

Má tôi mở khóa, rút cây thanh gài cửa và mấy chốt ngang. Ba tôi thở phào, nhẹ nhõm, thì thầm cho tôi biết:

– Thằng Năm! Thằng ủy viên huyện ủy, tỉnh ủy gì đó! Nó đến đây gặp ba bữa hỗm, biểu mời mấy con về chơi đó!..

Tôi đóng chốt cửa sau và trở lại bàn ăn ngồi xuống, vặn cao đèn lên.

Má tôi kéo cửa ra:

– Mời chú Năm vô chơi!

Lần này tiếng nói bên ngoài rõ và lớn hơn:

– Dạ, chào bác! Anh Hùng về rồi bả bác? Hai bác mạnh chớ?

– Ờ, cảm ơn chú! Nó về rồi chú! Về hồi trưa này nè

– Dạ, cháu có nghe anh em báo cáo. Cho nên tối nay cháu đến thăm anh Hùng, nói chuyện chơi cho vui!

Ngưng một chút, giọng nói ở ngoài cửa cao lên:

– Các đồng chí án ngữ ở mặt sông và mặt lộ nghe! Có gì cứ nổ súng báo động cho tôi biết. Tôi vào một mình được rồi.

Tôi nghe có tiếng xì xào ngoài sân trước một thoáng rồi có tiếng chân bước xa dần về phía cổng.

Thì ra họ biết tôi đã về nên họ đến “thăm “. Chà người ta tử tế quá! Thương tôi quá! Như vậy, câu chuyện cha con tôi nói trong bữa ăn họ không nghe. May thực. Tôi nói khẽ với ba tôi:

– Thế là yên! Họ không nghe đâu ba à!

Ba tôi cầm đũa trở lại, nâng chén cơm lên, nói một câu bâng quơ, không ăn nhập vào đâu hết:

– Cha! Trời độ này trở lạnh. Đúng là tiết đông thiên.

Bóng một người đàn ông mặc đồ bà ba đen từ ngoài bước vào cửa trước. Má tôi đóng cửa, bưng đèn bước xuống.

Người đàn ông bước theo sau.

Má tôi nói:

– Ông à! Có chú Năm bữa hỗm tới chơi nè ông!

Đó là một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi. Tóc hớt thấp, nước da trắng xanh. Chiếc khăn rằn quấn cổ. Đôi mắt lá răm, nhỏ và dài dưới hai hàng chân mày đậm nét. Khuôn mặt xương với đôi má nổi cao.

Chiếc áo bà ba được anh ta xắn tay lên gần đến cùi chỏ. Hai túi áo lớn và phồng lên, không biết chứa gì mà đầy thế. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là như vậy, khi anh ta từ phía sau lưng má tôi tiến ra trước vùng ánh sáng của chiếc đèn Hoa Kỳ để ở đầu bàn.

Tôi chưa kịp nhìn kỹ hơn và có phản ứng gì thì anh ta đã nhếch miệng cười, óng ánh mấy chiếc răng vàng:

– Dạ, chào bác Hai! Chào anh Hùng! Bác mạnh chớ bác Hai?

Ba tôi cũng cười đáp lễ:

– Chào chú! Cám ơn chú! Tôi cũng mạnh thôi.

Anh ta đảo mắt nhìn chung quanh một thoáng rất nhanh. Rồi ánh mắt đó ngừng lại trên mắt tôi:

– Anh mạnh giỏi chớ anh Hùng! Tôi rất vui được gặp anh hôm nay đó! Bắt tay anh cái đi!

Tôi đứng dậy, chìa tay ra. Anh ta siết thật mạnh. Tôi cười:

– Cảm ơn anh? Tôi vẫn mạnh!

Anh ta nói thật nhẹ nhàng. Giọng ấm áp làm sao:

– Đáng lẽ, tôi đến thăm anh sớm hơn nhưng thấy anh mới về, chắc có lẽ mệt nhiều cần phải nghỉ ngơi nên chưa dám đến làm rộn. Vả lại tôi cũng bận vài công tác khác. Anh về hồi trưa mà! Anh mặc cái áo sơ-mi trắng cụt tay, cái quần tây mầu xám tro, đi đôi giày đen, tay xách giỏ ni-lông cho bác gái mà!

Tôi hết sức ngạc nhiên. Má tôi cũng ngạc nhiên hỏi:

– Ủa, sao chú Năm biết rõ vậy? Bộ chú Năm thấy tui với thằng Hùng về ở dọc đường hả?

Anh ta cười nhẹ:

– Dạ không, bác! Cháu đâu có thấy nhưng cháu biết Bác với anh Hùng đi ngang cầu đá về tới xóm ngoài đã có anh em cho cháu hay rồi.

Ba tôi mời anh ta:

– Sẵn dịp mời chú Năm dùng cơm với tôi một bữa chú Năm! Mời chú ngồi!

– Dạ cháu ăn rồi! Bác để mặc cháu mà!

Anh ta đưa tay kéo ghế ngồi bên tôi. Vạt áo nặng chồm tới trước, để lộ ra một súng lục có dây cột tòn ten ở cán, đang nằm trong bao lủng lẳng dưới hông trái. Tôi đưa mắt quan sát anh ta lần nữa và thầm đánh giá con người đang đối thoại với mình.

Ngồi chưa yên chỗ, Năm đã hỏi ngay:

– Chà! Nhà sao ăn cơm tối dữ, bác?

Ba tôi trả lời:

– Bữa nay thằng nhỏ tôi nó mới về nên ăn trễ hơn mọi bữa đó chú!

Năm liếc nhẹ về phía tôi, mỉm cười:

– Dân trí thức, dân thành thì chắc khác nông dân tụi tui tôi nhiều chớ anh Hùng? Người ta ăn ba bữa, sáng sớm đã có bánh mì, hủ tiếu, cà-phê nên một hai giờ mới ăn cơm trưa. Buổi chiều phải để bảy, tám giờ chớ đâu như nông dân mình dưới ruộng hả bác?

Tôi cũng mỉm miệng cười. Giọng nói của anh ta cho tôi hiểu rằng tính chất của cuộc viếng thăm này, không phải là một cuộc viếng thăm thường tình, vui vẻ như anh ta nói. Gay cấn sắp bắt đầu xảy ra rồi đấy..

Chưa chi anh ta đã cố ý “động” đến lập trường giai cấp, đặt “đối tượng” và đã chọn thế đứng rồi. Linh cảm của tôi, dựa vào kinh nghiệm kháng chiến 9 năm, nó báo cho tôi biết. Tôi vờ như không hiểu cái chiều sâu của câu nói đó, đứng dậy vui vẻ mời anh ta:

– Dạ, xin mời anh Năm lên nhà trên uống nước!

Anh ta nắm lấy tay tôi, săn đón:

– Được, được anh! Anh cứ tự nhiên! Gấp gì, anh! Cứ ăn cho xong bữa đi. Anh em với nhau cả. Anh cứ coi tôi như người trong nhà có phải khách khứa gì đâu!

– Tôi ăn xong rồi, anh!

Anh ta theo tôi bước lên nhà trên, ngồi đối diện nhau ở chiếc bàn dài. Trên bàn đã sẵn bộ chung trà, ly, tách, mấy trái quýt đường, dĩa bánh ngọt. Tôi rót nước và mời anh ta.

Tôi bắt đầu vào chuyện:

– Tối hôm qua, má tôi lên Sàigòn thăm tụi tôi, có cho mấy anh em tôi biết là anh có ý muốn gặp tụi tôi nên hôm nay tôi về. Chắc anh cũng hơi trông?

– Dạ, cũng sốt ruột chút chút thôi!

– Có việc chi quan trọng lắm không anh?

– Cũng… không quan hệ gì lắm! Trước tiên, để tôi xin tự giới thiệu, anh được biết là… tôi tên là…

Anh ta ngập ngừng, nhấp nháy đôi mắt rồi đằng hắng mấy tiếng:

– Tôi thứ năm. Anh gọi tôi là anh Năm cho nó thân mật. Tôi là Huyện ủy viên của quận Châu Thành. Xin lỗi, anh thứ mấy, anh Hùng?

– Dạ thứ tư.

– Thay mặt và thừa lệnh Tỉnh ủy, trước là đến thăm anh và hai bác, sau tôi muốn được trình bày cùng anh vài vấn đề công tác cách mạng.

– Cảm ơn anh. Tôi xin nghe!

Tôi đưa gói thuốc Ruby, rút một điếu mời anh ta nhưng anh ta lấy tay ngăn lại, đoạn cho tay vào túi áo mình lấy ra một cái hộp to bằng mủ, loại hộp đựng âu dược, dựng đầy thuốc rê và giấy quyến. Anh ta vừa vấn thuốc, vừa hỏi:

– Năm nay anh Tư còn đi học, chưa làm gì chớ?

– Dạ, còn đang học.

– Anh học gì vậy? Lớp mấy?

– Tôi học Luật. Năm nay là năm thứ ba, cũng là năm cuối cùng của cử nhân Luật khoa. Vài tháng nữa tôi bắt đầu thi lấy chứng chỉ cuối cùng đó.

– Anh cũng chịu khó và học giỏi thiệt! Bỏ học một thời gian khá lâu, đi kháng chiến vậy mà trở về Sàigon là lo chăm chỉ học hành. Phục anh! Còn mấy em của anh?

Tôi không biết anh ta khen tôi thật tình, phục tôi thật tình hay đó là một câu nói mỉa. Tôi không đủ thì giờ để suy nghĩ. Tôi trả lời tiếp:

– Hai đứa em tôi cũng còn đang đi học. Con em gái kế tôi thì học ở đại học sư phạm và thằng Dũng, út hết thì nó đang học đệ nhất, sang năm thi tú tài toàn phần.

Năm uống ngụm nước rồi bật lửa đốt thuốc bập bập. Khói lên như một đống un. Điếu thuốc to quá, gần bằng ngón chân cái:

– Hai bác cứ đều đều mỗi tháng mang tiền lên cung cấp cho mấy anh chớ?

– Dạ! Ngoài ra, riêng tôi, tôi còn đi dạy học thêm ở mấy trường tư để phụ vào mới đủ đó anh!

Anh ta cười:

– Sao? Dễ chịu chớ anh Tư?

– Dạ, cũng tàm tạm. Này anh, mời anh ăn bánh ngọt uống nước, anh Năm!

Anh ta lấy một chiếc bánh, hững hờ đưa lên miệng, hỏi tiếp:

– Tình hình Sàigòn độ này thế nào anh? Phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị chống bọn Mỹ Diệm lên cao lắm phải không? Nhất là giới sinh viên học sinh và Phật giáo thì thật là phấn khởi hết sức. Xin anh kể cho nghe với?

Tôi đưa tay rót nước, băn khoăn suy tính không biết phải trả lời thế nào? Cái phong trào đấu tranh của nhân dân đô thị, anh ta hiểu theo một cách khác, được nghe theo một cách khác. Cách đó không phải là cách thông thường như mọi người hiểu. Đối diện đàm thoại với “cán bộ cách mạng “, cán bộ của đảng bao giờ cũng phải có lý luận đề cao cách mạng, phải “giác ngộ cách mạng “, nhìn thấy đà thắng lợi cũng như ảnh hưởng lãnh đạo của đảng trước mắt. Vì rằng nơi nào cũng có mặt đảng, có sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt của đảng mà! Chỉ có những phần tử chẳng ra gì, cầu an, lưng chừng hay phản động mới không thấy sự thắng lợi, ảnh hưởng lãnh đạo của đảng.

Nếu phủ nhận cái gọi là cao trào cách mạng đang lên tức là phản động. Chỉ có phản động mới phủ nhận, xuyên tạc sự có mặt và sự lãnh đạo sáng suốt, tất thắng của đảng bất cứ ở vị trí nào, nơi nào, thời gian, không gian nào trên trái đất này.

Vấn đề này trở thành một nguyên tắc từ lâu mà đảng đã giáo dục cho đảng viên, cho cán bộ tuyên vận xem nó như là một chân lý, một định lý cố định. Bây giờ nghe anh ta hỏi, tôi bối rối, thực không biết phải trả lời sao.

Nếu bảo tôi không biết gì, không thấy gì thì bất lợi cho tôi nhiều lắm. Mà trả lời theo kiểu mắt thấy tai nghe, không có dính dáng gì đến sự lãnh đạo cũng như uy danh của Đảng thì dễ bị chụp mũ “Quốc Gia phản động” hơn bao giờ. Như vậy, chưa biết tôi có còn nguyên vẹn để trở về Sàigòn?

Nhưng nếu nói láo, đặt điều, thêu dệt đúng với ý muốn của anh ta, tưởng tượng ra một thứ “cao trào cách mạng”, “phong trào nổi dậy của nhân dân đô thị”, “giác ngộ cách mạng” mà tôi chưa hề thấy có một sự kiện cụ thể, một hình ảnh nào để chứngg minh thì tôi không nói được.

Lòng tự ái và tự trọng không cho phép tôi hèn hạ láo lếu như thế. Đồng tình cho người khác nói láo là điều nhục. Tự mình đặt điều nói láo càng nhục hơn, không thể tha thứ được. Nhân cách, phẩm giá của con người một phần lớn do ở chữ tín mà ra.

Phải trả lời thế nào đây cho ổn? Tôi băn khoăn vậy. Thôi thì đành… Tôi thở dài nhè nhẹ nói với anh ta:

– Riêng tôi, tôi không được rõ lắm. Vì mãi bận học hành với đi dạy học kiếm tiền thêm sinh sống, tôi ít đi đâu. Cũng không tiếp xúc với nhiều người nên… thú thật anh tôi dốt tình hình lắm, không rõ những sự việc xảy ra..

– Anh vừa là sinh viên, vừa là giáo sư đi dạy mà anh bảo ít đi, ít tiếp xúc với nhiều người khác? Vậy thì ai tiếp xúc nhiều bây giờ, anh Tư? Huống hồ phong trào sinh viên, học sinh đấu tranh cách mạng trong đó có anh mà.

– Thực tôi cũng dở qua anh ạ! Tôi không được rõ về phong trào đó. Tôi chỉ được biết một điều là gia đình Ngô Đình Diệm càng ngày càng độc tài. Ai ai cũng oán ghét, bất bình về chỗ anh em ông Diệm xem quốc gia là của gia đình, quyền lợi của mọi người dân là của riêng anh em ông ta và bè đảng, phe nhóm của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Ngoài ra còn có chuyện kỳ thị tôn giáo… anh em ông Nhu ông Diệm ngược đãi Phật giáo, đàn áp Phật giáo cho nên mọi người đều tức giận. Các chùa chiền, các sư sãi đang vận động xóa bỏ những bất công. Sau này không biết sẽ ra sao. Trước đây, vụ ném bom xuống dinh Độc lập, vụ đảo chánh năm 1960, anh em ông Diệm…

– Thằng Diệm chớ! – Anh ta ngắt ngang câu nói của tôi. – Ông cái gì anh Tư? Anh em thằng Diệm bán đứng miền Nam, làm tay sai cho Mỹ mà! Những vụ đảo chánh hụt, ném bom xuống dinh Đọc Lập là cao trào cách mạng của nhân dân đô thị đó chớ! Vậy là dốt thật sự rồi.

– Vâng, thú thật với anh, tôi dốt thật mà!

Anh ta uống thêm một ngụm nước, hút một hơi thuốc dài:

– Anh Tư nè! Anh biết không, tất cả mọi người đều hướng về Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng để đấu tranh chống bọn đế quốc Mỹ và bọn tay sai phản động. Nào là những phong trào chống bắt lính, phong trào đuổi Mỹ về nước thống nhất Nam Bắc, đòi Tuyển cử Tự do, đòi lên án Mỹ Diệm. Hàng trăm, hàng ngàn người nhào ra đường vây chặt những xe chở lính quân dịch, đánh lộn với bọn lính ngụy để giải thoát cho con em, chồng con họ. Rồi những phong trào đuổi Mỹ về nước với sự ủng hộ rầm rộ của anh em ngụy quân. Họ bảo tại Mỹ cho nên họ mới bị bắt linh mới bị đi đánh giặc, chết chóc vì chiến tranh.

Mới đây có một cuộc biểu tình của nhân dân, căng biểu ngữ thật lớn tại chợ Sàigòn với hàng chữ: ” Hoan hô Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đả đảo đế quốc Mỹ xâm lược, đế quốc Mỹ cút đi “. Cảnh sát được lịnh đàn áp nhưng bị nhân dân tuyên truyền lôi kéo thành ra cảnh sát làm lơ, còn vỗ tay hoan nghinh nữa chớ! Người ta còn thấy trong hàng ngũ biểu tình còn có sĩ quan ngụy quân nữa. Kìa! Phong trào đấu tranh chống Mỹ Diệm của thanh niên, sinh viên, học sinh hiện giờ có thể nói là lên cao chưa từng thấy. Họ đang vận đổng quy mô, rầm rộ chuẩn bị một cuộc tổng bãi khóa để phối hợp với nhân dân, thợ thuyền tổng đình công, tổng bãi thị. Những chuyện động trời như vậy xảy ra giữa Sàigòn. Anh ở tại Sàigòn mà anh bảo anh không hay biết, anh dốt tình hình? Lạ! Lạ thiệt! Trong khi đó, tôi ở tận nông thôn hẻo lánh, không đọc báo, cũng không nghe radio tôi lại biết rất rõ từng chi tiết một. Sao lạ vậy anh?

Tôi thấy nóng mặt. Tại sao anh ta lại có thể bịa ra đươc những sự kiện động trời, dựng đứng lên cái gọi là Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân đô thị? Tôi là sinh viên và cũng là một giáo sư dạy ở trường Nguyễn Bá Tòng, ở Nguyễn Văn Khuê, sao tôi không nghe không thấy các bạn tôi, các học trò tôi ai nói gì. Nơi nào tôi cũng thấy một bộ mặt bình thản, một sự chăm chỉ học hành.

Còn cái chuyện biểu tình ở chợ Saigon, căng biểu ngữ với những câu ủng bộ, đả đảo thế kia, có sự tham gia của binh sĩ… Lần đầu tiên tôi được nghe anh ta nói.

Mãi cho đến sau này, từ tháng 5 năm 1963 trở đi mới có cái chuyện biểu tình và tình hình rối rắm, nhưng rối rắm theo cái kiểu khác đâu phải là kiểu binh lính sĩ quan xuống đường tham gia biểu tình ủng hộ Mặt Trận?

Đành phải giả dại qua ải, tôi ngượng ngập nói với anh ta:

– Thì tôi đã nói trước với anh là tôi dốt thực sự mà! Cứ lo học hành và đi dạy kiếm thêm tiền cho đủ sống, tối ngày ở một xó, anh xem tôi phải làm sao theo kịp tình hình được?

Anh ta xoa xoa hai tay:

– Anh thấy chưa! Anh là người của Sàigòn mà anh còn không rõ tình hình chung thì trên toàn quốc anh không thể nào hiểu được. Anh biết không, trên khắp các chiến trường, giải phóng quân đang làm chủ tình thế, thắng như chẻ tre. Bọn Mỹ Diệm cụp đuôi chạy dài. Từ kế hoạch “Xít ta lây” đến “quốc sách ấp chiến lược” rồi những chiến thuật “Phượng hoàng bay”, “Mãnh hổ vồ mồi” hoàn toàn bị phá sản. Ta kiểm soát ba phần tư đất đai, hai phần ba dân số. Đấy, tình hình phấn khởi như vậy đó. Ở Sàigòn anh bị Mỹ Diệm bịt mắt lại, làm sao anh biết rõ được. Anh có nhứt trí ý kiến tôi không?

– Dạ, anh nói thì tôi xin nghe!

– Không! Tôi muốn anh nhứt trí kia! Anh nhứt trí với tôi kia!

– Dạ, thì cũng… nhứt trí!

Anh ta cười khẩy:

– Sao lại cũng? Yếu xịu vậy! Nhứt trí mạnh chớ!

Anh ta bắt sang vấn đề khác:

– Vấn đề động viên thế nào anh? Tôi được báo cáo là hiện tại ở Sàigòn tụi nó bắt lính dữ lắm. Nửa đêm đang ngủ, Cảnh sát, hiến binh đến vây nguyên cả khu phố. Xét từng nhà, hễ gặp thanh niên là bắt lùa hết lên xe, chở lên trại quân dịch Quang Trung. Còn cái chuyện đi vào rạp hát hay đón đường vào những giờ đi làm, giờ tan sở để lùa đi không ngày nào không có. Mấy năm trước thì xét giấy lựa hạn tuổi, bây giờ khộng cần biết tới giấy tờ luật lệ gì cả. Tôi không hiểu sao mấy anh lọt lưới được những cuộc chận đường, những đêm làm ráp xét nhà? Bộ đường anh ở, chỗ nhà anh ở không có xét hỏi sao?

Mắt anh ta nheo lại, nhìn tôi xoi bói nghi ngờ. Quả tình tôi bực dọc và khó chịu về cái hiểu biết hàm hồ vô căn cứ, chỉ chực rình chụp mũ, tấn công tôi. Tôi phải giải thích cho anh ta biết:

– Việc xét tờ khai gia đình là việc kiểm soát dân số, nhà tôi cũng bị xét luôn. Nhưng xét đâu phải hễ gặp thanh niên là lùa đi. Việc chận đường, đón ngõ để lùa thanh niên đi lính, chà… điều đó tôi e không được đúng lắm. Anh nghĩ thế nào mà cho là tôi may mắn, lọt lưới? Còn có luật lệ chứ, anh Năm!

– Anh cho là tôi nói thêm à? Anh tưởng tụi nó tốt lắm sao? Đế quốc, phản động càng thua đau càng lồng lộn. Chúng nó có từ chối một hành động gian manh, đàn áp tàn nhẫn nào đâu? Chuyện đó ai mà không biết! Luật lệ gì cái bọn đó! Nói cho ngay…tôi cũng hơi thắc mắc, tại sao anh chưa bị tụi nó bắt lính? Ngoại trừ anh là…

Tôi tức đến muốn nổi đom đóm mắt. Tôi chận lời anh ta:

– Không! Chuyện thật dễ hiểu anh à! Một lần nữa tôi lập lại với anh là sinh viên theo luật lệ tôi được hoãn dịch cho đến khi nào tôi học xong mới phải đi lính.

Tôi cho tay vào túi móc bóp, lấy thẻ trưng binh, giấy hoãn dịch ra, đưa vào mặt anh ta. Tôi nói với tất cả bực dọc:

– Đây, giấy tờ quân dịch của tôi nè. Anh xem đi để biết tại sao? Anh nghi ngờ, anh nói tôi láo với anh sao?

Anh ta lạnh lùng, không nói năng gì cả, cầm lấy giấy tờ, đưa ra trước đèn xem xét rất lâu, dường như muốn tìm ở đó, một kẽ hở mới nào.

Tôi nói với anh ta:

– Đấy, anh hiểu rõ tại sao rồi chứ?

Anh ta lúng túng gấp giấy tờ, trả tôi. Trên môi anh ta cũng nở được nụ cười, xem như không có việc gì xảy ra. Bất chợt, anh ta nói lảng đi:

– Này… anh Hùng! Có bao giờ anh thấy tiếc không?

– Tiếc gì anh? -Tôi hỏi-. Tôi chưa hiểu anh định nói gì?

– Tôi tiếc cái sự nghiệp chính trị của anh đó! Công lao 9 năm tham gia kháng chiến chống Pháp giờ anh bỏ không tiếp tục nữa sao?

Châm một điếu thuốc lá, tôi thở phì ra:

– Anh Năm! Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ công dân đối với đất nước tôi đã làm tròn. Tôi tự hào chớ sao tôi lại tiếc? Kháng chiến chống Pháp 9 năm, Pháp đã phải cuốn gói về Pháp. Nhiệm vụ của tôi đương nhiên hoàn tất, tôi hãnh diện với mọi người về sự đóng góp công lao đó chớ!

– Nhưng anh quên rằng cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp chỉ mới thành công phân nửa. Vì đất nước ta hãy còn bị chia đôi. Độc lập chỉ có phân nửa nước thuộc miền Bắc. Còn miền Nam. Mỹ hất chân Pháp nhảy vào xâm lược, thực hiện thủ đoạn thực dân kiểu mới để rồi thôn tính nốt miền Bắc bằng âm mưu gây chiến tranh đặc biệt. Do đó, cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc chưa kết thúc khi đế quốc Mỹ còn trên vùng đất này. Anh chỉ mới chống Pháp chớ anh chưa có đánh Mỹ. Vậy có nghĩa là anh bỏ cuộc nửa chừng thì làm sao có thể bảo là đã làm tròn bổn phận đối với Tổ quốc?

Tôi bối rối trong một thoáng vì lập luận của anh ta. Nếu tôi cứ tranh luận theo kiểu thẳng thừng, không phải sợ hãi, không kiêng dè, theo quan điểm của tôi thì anh ta sẽ phản ứng ra sao đây? Và những gì sẽ chờ đợi tôi và gia đình tôi? Nếu không tranh luận cho ngã ngũ thì tôi là người có tội, một người bị kết án, luôn luôn phải cúi đầu không được ngẩng mặt lên, chịu sự sai khiến, phán quyết của anh ta. Nhưng làm thế nào bây giờ?…

Ra vẻ thành khẩn, thật thà, tôi hỏi anh ta:

– Riêng tôi, tôi có thắc mắc này… Tôi nghĩ câu trả lời của anh nó sẽ xác định việc tôi đã làm tròn hay chưa tròn đối với Tổ quốc đó!

– Ờ! Ờ! Anh cứ hỏi tôi vui lòng giải thích cho anh được thông suốt.

– Mục đích, ý nghĩa của cuộc kháng chiến 9 năm trước đây là gì, anh Năm?

Anh ta xếch mắt lên, tỏ vẻ bất mãn, khó chịu vì câu hỏi của tôi. Hỏi như vậy khác nào tôi xem anh ta tầm thường… Giọng anh ta gắt lên, thiếu bình tĩnh rõ rệt:

– Là làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, chủ quyền cơm no áo ấm, người cày có ruộng, dep bỏ mọi bất công…

Tôi chen vào, xoa dịu sự phẫn nộ của anh ta:

– Xin anh đừng giận. Tôi không dám có ý nghĩ chất vấn hay xem thường anh đâu, nhưng vì có một thắc mắc nên tôi thành thực nói ra để anh giải thích dùm… Điều tôi muốn nói là mục đích kháng chiến 9 năm để chống Pháp thì khi Pháp bị đuổi về nước, mục đích của chúng ta đã hoàn thành…

Anh ta cũng dịu giọng xuống, cướp lời tôi:

– Chưa! Còn đế quốc Mỹ và bọn phản động tay sai cấu kết với đế quốc nữa chớ! Mỹ với Pháp chỉ là một.

– Anh cho tôi nói, tạm thời chưa xét đến Mỹ vội, chốc nữa đã! Mình nên giải quyết vấn đề Pháp. Bởi thế, vấn đề được đặt ra là kháng chiến chống Pháp. Pháp về nước, mục đích của ta thực hiện được chưa?

– Chưa! Anh quên Mỹ với Pháp chỉ là một. Mỹ hất chân Pháp ở miền Nam này mà, tách rời vai trò Mỹ với Pháp ở Việt Nam đâu được.

– Khác với anh…

– Không! – Anh ta ngắt ngang câu nói của tôi. – Đế quốc và thực dân tất cả đều giống nhau. Huống hồ mục đích cách mạng giải phóng dân tộc đâu chỉ có chuyện chống Pháp hay chống Mỹ? Anh đã từng tham gia kháng chiến, anh đã là một cán bộ cũ, anh cũng rõ con đường cách mạng mà Bác và Đảng vạch ra nhằm đưa nước Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, thiên đường hạnh phúc của nhân loại kia mà!

Và đột nhiên, anh ta ngồi ngay dậy, nhìn tôi không nháy mắt:

– Anh nghĩ sao? Cuộc kháng chiến chống Mỹ Diệm của nhân dân miền Nam ngày nay, anh đứng về bên nào? Không thể có chuyện đứng giữa, xem mình là người ngoại cuộc, bàng quan..Chỉ có hai con đường, hoặc đứng về phía nhân dân, hoặc theo Mỹ Diệm chống lại nhân dân. Vậy anh đứng về bên nào?

Tôi bối rối đến cùng cực. Anh ta tấn công một loạt từ chập tối đến giờ. Và bây giờ, anh ta dồn tôi vào chân tường. Buộc tôi phải trả lời, buộc tôi phải chọn một trong hai con đường anh ta vừa nêu ra. Tôi sững sờ đến độ ngây người ra.

Tôi những tưởng đàng nào đi nữa, mục đích của chuyến mời tôi về lần này, người ta sẽ nhằm vào việc chính là thuyết phục bằng mọi cách để tôi theo ra chiến khu chống Mỹ Diệm. Nhưng tôi chỉ hình dung được sự thuyết phục bằng những sự gợi lại tình cảm cũ, bằng những nụ cười và những câu nói thân tình theo kiểu xưa kia từng áp dụng. Tôi không thể nào hình dung được cái trạng thái như “đối diện với kẻ thù” và dồn vào chân tường như đêm nay.

Trong hoàn cảnh này, Tôi, cả gia đình tôi đều nằm trong bàn tay to lớn của họ, chịu áp lực khống chế của họ thì còn biết làm sao?

Tôi nuốt ực nước miếng qua cổ họng, định trả lời anh ta là bao giờ tôi cũng đứng về phía nhân dân, phía cách mạng nhưng chưa kip nói thì anh ta tự phá tan không khí nghẹt thở bằng nụ cười của kẻ chiến thắng:

– Vì không bằng lòng cho anh đứng ngoại cuộc hay hơn thế nữa, đứng về phía chống lại nhân dân nên chúng tôi mời anh về gặp mặt chúng tôi hôm nay. Mời anh tham gia kháng chiến lần nữa, kế tục sự nghiệp cách mạng anh bỏ dở từ 1954 đến nay. Anh có thể tham gia kháng chiến tại tỉnh nhà, hoặc bất cứ nơi nào anh muốn. Nếu anh không thuận, từ chối lời mời của chúng tôi hôm nay, điều đó có nghĩa là… anh… anh… bắt buộc chúng tôi xem anh là người của đối phương.

Anh ta đứng dậy, xô ghế, cười nụ:

– Anh nghĩ thế nào? Trả lời cho tôi biết sau cũng được. Theo kháng chiến, tương lai anh sẽ tiến bộ, rực rỡ, được nhân dân hoan hô chào đón, nhớ ơn đời đời. Gia đình hai bác cũng hãnh diện, được mở mặt mở mày với bà con xóm làng. Vinh quang biết bao nhiêu…

Và anh ta nắm lấy tay tôi kéo đứng dậy, lắc mạnh:

– Bây giờ cũng khuya rồi. Tôi về. Đêm nay anh nghĩ kỹ đi. Ngày mai tôi trở lại. Chào anh, anh Hùng nhé!

Buông tay tôi, anh ta lừng lửng tiến tới đẩy cửa, bước ra sân. Ngoài sân, trời tối mịt mùng.

Anh ta về rồi, tôi ngồi thẫn thờ một lát lâu. Dù biết trước rằng người ta thế nào cũng đặt vấn đề này, thế nào người ta cũng mời tôi tham gia vào tổ chức của họ. Từ lâu, vấn đề này được coi như là một phương thức cổ điển, một nguyên tắc bất di, bất dịch.

Biết vậy, nhưng khi vấn đề được đặt ra, tôi kinh ngạc đến sững sờ. Tôi sững sờ vì tôi chưa bao giờ nghĩ đến người ta sẽ bắt buộc tôi..

Thấy anh ta về, từ nhà trong ba tôi bước ra:

– Thằng Năm đó, nó nói gì lâu dữ vậy con?

Tôi thờ thẫn trả lời:

– Anh ta bảo thừa lệnh Tỉnh ủy, anh ta mời con tham gia cách mạng, bất kỳ ở nơi nào cũng được. Điều đó có nghĩa là về Mỹ Tho cũng được mà chỗ khác họ cũng giới thiệu cho.

– Con trả lời ra sao?

– Chưa! Con chưa trả lời. Và anh ta cũng không cho con trả lời, xô ghế đứng dậy đi về liền, bảo đêm mai anh sẽ trở lại để biết ý kiến quyết định của con. Anh ta bảo chỉ có hai con đường, hoặc theo bên này, hoặc theo bên kia chứ không thể đứng giữa trả lời phân hai được.

Ba tôi thở dài. Tôi cũng thở dài. Hai cha con cùng yên lặng. Sau cùng ba tôi rầu rầu bảo tôi:

– Thôi con! Ngày mai con về Sàigòn đi. Ở dưới này ba sẽ lựa lời tìm cách nói lần hồi, đưa đẩy với họ cho xuôi thì thôi.

– Không xuôi đâu ba. Họ sẽ làm dữ với ba má chớ không để yên đâu ba!

– Bất quá tụi nó chở ba qua cồn cho học tập gì đó, giam giữ mười bữa nửa tháng rồi thả về. Quá nữa nó giết ba là cùng!

– Con đâu chịu được. Con sống sao nổi ba! Này ba! Hay… ba má bỏ hết nhà cửa, vườn tược về Sàigòn ở với mấy con đi ba. Con nghĩ, chiến tranh này cũng không kéo dài lâu đâu. Yên ổn mình lại trở về, tu bổ lại. Hồi thời kháng chiến 9 năm mình chẳng bỏ nhà cửa đất đai là gì! Về Sàigòn ba đừng lo, tụi con sẽ đi làm, không việc gì phải ngại đến vấn đề sinh sống đâu ba!

– Ba nghĩ nhiều rồi, Hùng! Không được đâu. Thà ba chết thì thôi, chớ công lao mồ hôi nước mắt cả đời ba bỏ lại cho bọn đó nó hưởng. nó còn thêu dệt, đặt điều, rêu rao này nọ, ba chịu sao được?! Rồi còn mộ ông bà nội con đó… ai chăm sóc? Ai thăm viếng? Bỏ nội ở một mình sao con?

Tôi ngậm ngùi:

– Vậy thì con đâu thể về Sàigòn để ba má phải chịu cho họ hành hạ được. Giết ba, con nghĩ họ không đến nỗi làm việc đó. Vì sau lưng gia đình mình cũng còn có 9 năm kháng chiến chống Pháp, rồi còn có anh Hai con tập kết miền Bắc nữa chi? Nhưng họ sẽ bắt ba đi, hành hạ ba, không chừng còn tịch thu tài sản nhà mình, cho mình là địa chủ ngoan cố. Chừng nào tụi con về theo họ, họ mới thôi. Ba, con năn nỉ ba mà! Ba má về Sàigòn với tụi con đi. Thời chiến tranh ly loạn, xa ông bà, ông bà không nở trách đâu.

Ba tôi vẫn lắc đầu:

– Ba nói là ba nghĩ kỹ rồi. Không được con! Sáng mai, nắng lên một chút, ba trét chai lại chiếc xuồng đưa con xuống chợ Mỹ. Con về Sàigòn đi! Đi đường sông, họ không hay đâu. Đừng lo gì, ở nhà ba sẽ tìm cách đẩy đưa với họ. Ba má giờ già rồi. Họ có giết ba hay làm gì ba cũng được. Uớc nguyện của ba là lo cho các con được nên người, học hành tới chốn. Chờ còn vài ba tháng nữa, ăn Tết ra ngoài ngày là con thi xong cái cử nhân Luật rồi.

Ngưng một chút, ba tôi rưng rưng nước mắt nói tiếp:

– Nếu họ có làm gì ba… thì con có thể ra đời làm việc được. Con đem má con về nuôi dưỡng, săn sóc mấy em con thay ba… chớ để con phải vì ba… bỏ học hành, lỡ dở cả đời. Đi theo họ thì ba khổ lắm. Hổng được đâu con!

Sau một đêm trằn trọc, không ngủ, tôi thấy rằng tôi không thể để ba má tôi chịu đựng những nỗi khổ sở điêu đứng vì tôi do người ta gây ra.

Trong cuộc đời, không gì đẹp bằng sự hy sinh. Hy sinh cá nhân mình để cho mọi người chung quanh được vui sướng. Cha mẹ hy sinh cho con cái thi tại sao tôi không thể hy sinh lại cho người và các em tôi? Ba má tôi già rồi, đời sống chẳng còn bao lâu nữa, người sẽ được yên vui, hưởng nốt những ngày còn lại. Tuy lòng tôi chua xót nhưng tôi bằng lòng chọn giải pháp này..

Tôi không biết là mình sẽ chịu đựng với họ bao lâu, nhưng ít ra, họ cũng để cho ba má tôi được yên thân. Các em tôi được tiếp tục học hành trong thời gian tôi còn đi theo họ. Biết đâu, trong thời gian đó có nhiều may mắn xảy đến, quê tôi thoát khỏi cảnh câm nín, không tiếng cười cả đến tiếng chó sủa cũng không!

Họ thấy gia đình tôi khá giả, dù rằng sự khá giả còn thua kém rất xa hàng ngàn gia đình khác. Sự khá giả được tạo bằng chính công sức lao động, mồ hôi nước mắt của ba má tôi.

Trong chế độ của họ, họ không bằng lòng. không chấp nhận cuộc sống no ấm đầy đủ của những người không phải là họ. Họ ghét cả những người được đi học, ghét cái tri thức hiểu rộng, biết nhiều của người khác.

Mặt khác trước kia tôi đã từng đi kháng chiến, biết nhiều về tổ chức của họ, am tường những phương thức hoạt động cơ sở, tôi mà bị gọi vào học trường sĩ quan Thủ Đức hoặc làm việc cho Quốc Gia thì có thể gây nhiều thiệt hại cho họ về phương diện tuyên truyền hay cả về vật chất cũng nên.

Có lẽ vì những lý do đó, họ mới dùng đến hạ sách cuối cùng, thủ đoạn rún ép. Hạ sách nhưng có kết quả. Như những trường hợp tương tự xảy ra bấy lâu nay. Những gia đình ở thôn quê, có con em học hành, làm việc ở Sàigòn, ở hàng ngũ Quốc Gia, họ ép buộc gia đình đến thuyết phục, lôi kéo con em trở về với họ. Nếu gia đình không chịu, không lôi kéo nổi thì họ tìm đủ mọi cách để hành hạ, làm khổ gia đình, con em phải động lòng trắc ẩn, nặng tình cảm gia đình đành nhắm mắt hy sinh.

Trong 9 năm kháng chiến, họ đã làm như thế. Ngày nay họ vẫn làm như thế. Kinh nghiệm qua lịch sử đông tây từ nghìn xưa đã dạy họ. Trường hợp Đổng Kim Lân, trường hợp Từ Thứ trong truyện Tầu không là những điển hình nổi bật hay sao? Và người anh hùng Nguyễn Trung Trực vang danh với chiến công Nhật Tảo đã không vì mẹ phải chịu nộp mình cho bọn Pháp cướp nước chặt đầu sao?

Bây giờ đây, với tôi, tôi đã thua họ rồi. Tôi chấp nhận giải pháp của họ. Chỉ khổ một điều, làm sao thuyết phục cho ba má tôi bằng lòng, chấp nhận sự hy sinh của tôi…

Đêm sau, tôi ngồi hút thuốc lá chờ anh ta ở trước sân nhà. Tiếng sóng Cửu Long vẫn giận dữ dập ào ào vào bờ. Gió vẫn xao động mấy tàu dừa như thầm thì than thở. Trời đêm nay đầy mây, lắp mất cả những vì sao.

Có tiếng chân đi trên đất phía ngoài cổng. Tôi lên tiếng hỏi:

– Anh Năm hả, anh Năm?

Giọng nói quen thuộc, khe khẽ, từ cổng nói vọng vào:

– Phải! Tôi đây, anh Hùng!

Tiếng chân bước của anh ta càng rõ dần. Anh ta đến. Tiến lại bắt tay tôi rồi ngồi xuống băng đá cạnh tôi, anh ta hỏi ngay:

– Thế nào anh? Anh quyết định xong rồi chớ?

Tôi cười, như không việc gì xảy ra:

– Có gì mà phải quyết định, anh Năm? Tôi chỉ tiếp tục lại công việc tôi đã làm. Tôi nghĩ vấn đề này thật dễ dàng.

Giọng cười anh ta trở nên sôi nổi lạ. Và anh ta đứng dậy:

– Hoan hô anh! Bắt tay anh cái nữa đi! Tôi xin thay mặt cách mang, nhân dân hết sức vui mừng đón tiếp anh! Anh ở lại với chúng tôi lần này chớ?

– Chưa được, anh Năm! – Tôi trả lời.- Tôi còn phải về Sàigòn thu xếp việc gia đình, những chuyện riêng tư của tôi. Ăn Tết xong mới đi được.

– Cũng tốt! Nhưng ý anh thế nào? Anh muốn công tác ở đâu?

Tôi chưa kịp trả lời, anh ta tiếp:

– Tôi xin trình bày để anh rõ. Về vấn đề công tác nơi nào cũng là công tác cách mạng, đều vinh quang như nhau. Tổ chức ở nơi nào cũng là tổ chức của đảng. Thực tình mà nói, những người trí thức như anh, ở tỉnh nhà rất cần nên tỉnh ủy mới chỉ thị cho tôi đến tiếp xúc với anh. Nhưng dù sao giải quyết vấn đề công tác còn dựa vào nguyện vọng của anh nữa. Nếu anh không muốn ở tỉnh nhà mà về Miền, về Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, chỗ ông chủ tịch luật sư Nguyễn Hữu Thọ, chúng tôi cũng xin giới thiệu và đưa anh đi. Nếu anh muốn ở lại Sàigòn, công tác cho cơ sở nội thành thì chúng tôi sẽ giới thiệu với Thành ủy, ở đó các đồng chí sẽ trực tiếp tiếp xúc với anh. Nơi nào cũng được, tùy anh chọn.

Tôi trả lời:

– Nếu tham gia kháng chiến, tôi thấy tôi không có khả năng hoạt động cơ sở. Bởi tôi có nhược điểm là hay ăn to, nói lớn dễ bị lộ lắm.

– Vậy anh chọn nơi nào? Về đây với tụi tôi nhá?

– Trước giờ, miền Đông, chiến khu D là tôi chưa được biết. Nhưng được nghe người ta ca tụng về miền Đông vô cùng gian khổ, tôi sẵn sàng chịu sự gian khổ đó. Vậy, xin anh cho tôi về Miền đi. Ở đó, vấn đề phân công tác cũng dễ. Người ta xử dụng hết khả năng của tôi. Anh đồng ý chớ?

– Dĩ nhiên là đồng ý! Anh muốn vậy cũng được. Để tôi về báo cáo lại với ở trên. Ở trên sẽ thu xếp và liên lạc với anh sau. Điều cần nhất, từ bây giờ, về Sàigòn anh chuẩn bị sẵn, ghi địa chỉ của anh vào cuốn sổ này dùm tôi. Sau này người ta biết chỗ đến tìm anh.

Anh ta lấy viết và sổ tay ra đưa cho tôi, bấm đèn pin soi cho tôi viết địa chỉ. Xong anh ta cất vào túi.

– Giờ nào anh thường có mặt ở nhà?

– Sáng sớm, trưa và buổi tối. Không có tôi, còn các em tôi chi?

– Mấy em anh đâu biết việc gì?

– Để tôi đặn, nhưng anh phải nhớ là sau Tết.

Anh ta đứng dậy:

– Anh có còn nói gì thêm nữa không?

– Không!

– Vậy xin từ giã anh! Hiện giờ tôi còn bận nhiều công việc khác nữa.

Cùng lúc đó, tiếng trống, mõ nổi lên như đêm qua. Anh ta khoa tay làm một cử chỉ:

– Đợt phát động bắt đầu rồi đó! Từ bây giờ chúng mình là đồng chí với nhau rồi.. Chào anh! Mong rằng trên đường cách mạng mình còn nhiều lần gặp lại. Chúc anh tiến bộ nhiều.