Chương III (2)
Xe đến cầu kinh xáng, dừng cho mấy hành khách xuống rồi lại tiếp tục chạy đi. Đường từ đây gồ ghề, xốc xếch làm xe dằn tung người lên, cứ nhấp nha nhấp nhỏm như cỡi sóng, đau đít và khó chịu lạ thường. Tôi thò đầu ra cửa xe. À, thì ra đường lồi lõm chỉ vì bị phá hoại. Dấu vết đào rồi đắp đi đắp lại. Kẻ phá người đắp như thi gan cùng nhau. Đất cũ, đất mới trộn lẫn. Đầy dẫy nhiều mô nhỏ còn sót dọc hai vệ dường. Chả trách, sao xe lại không xóc!
Xe đang chạy ngon trớn, bỗng dừng lại giữa đồng. Ở phía trước nhiều người nhóng cổ dậy, bàn tán, ở phía sau cũng nhao nhao lên hỏi:
– Gì đó? Gì đó mấy ông mấy bà?
– Gì vậy? Đường bị kẹt mô phía trước hả?
Ở phía trước có người đáp lại:
– Chưa biết! Ở đằng trước nữa! Xe đậu cả dọc có thấy gì đâu!
Bác nông dân khăn cột đầu rìu ngồi phía trong tôi, lấy cánh tay hích nhẹ tôi mấy cái:
– Cậu, cậu! Cậu cho tôi xuống xe chút, coi cái gì vậy!
Tôi nép người, co chân cho bác ta bước ngang, đẩy cửa nhảy xuống dất:
– Chà, nắng dữ!
Phía trước, phía sau cũng nhiều người tò mò, xuống xe. Tiếng cửa đóng, mở nghe ầm ập.
Một lúc sau, bác nông dân trở lại. Bác ta hơ hãi nói phân bua với mọi người:
– Mèn ơi! Ở đằng trước có chiếc xe Lam bị mìn thiệt là ghê! Máu me đổ đầy đường. Chiếc xe nát bấy. Mỡ óc văng tùm lum, tanh muốn mửa. Mới mùng bốn Tết…
Một người trên xe nói vọng xuống:
– Tội nghiệp! Ông nghe người bị nạn có đông không?
– Nghe nói đâu mười một mười hai mạng gì đó. – Bác ta nói-. Đâu in như là hai người đàn ông. Còn bao nhiêu là đàn bà với con nít. Họ được một chiếc xe đò khác chở về Đức Hòa hết rồi. Bây giờ, mấy chú Dân vệ, Bảo an đương dọn dẹp cho trống đường xe chạy. Gần xong rồi!
– Ứ hự! Thiệt khổ! Mấy ông giải phóng có đánh, có giết thì đánh nhau với lính Quốc Gia chớ đàn bà con nít tội tình gì mà giựt mìn chết thảm thiết vậy! Đường này chỉ có xe đò, xe lam chạy thôi. Có xe nhà binh nhà bung gì đâu! Cứ cái cảnh vài bữa phá đường, vài ngày đắp mô rồi gài mìn, có nước dân chúng chết hết.
Bà già ngồi băng trên, nẫy giờ ngồi hít hà, chép miệng niệm Phật không ngớt cũng lên tiếng:
– Thôi cho tôi xin đi mấy ông mấy bà ơi! Thời buổi bây giờ khó lắm. Phải sao chịu vậy! Nói động phạm tới người ta còn khổ nhiều hơn nữa đa!
Người kia dường như nổi nóng:
– Bộ tôi nói hỏng phải sao? Chết oan chết ức chịu sao nổi? Thấu trời chưa! Là con người, phải có lòng nhân đạo với chớ!
– Tui thì tui sợ lắm. Tui hổng dám đụng chạm ai. Tui sợ tai vách mạch rừng nên nói vậy thôi.
Bác nông dân đứng dưới đường la lên:
– Xe chạy được rồi kia. Thôi lên xe bà con ơi!
Tôi ngồi lặng người đi, buồn vô hạn. Chiến tranh là như vậy đó. Nó không từ ai cả. Đã nói đến chiến tranh là nói đến chết chóc, đau khổ, chia ly, là nói đến địa ngục tối tăm nhất của con người. Chiến tranh làm gì có thứ chiến tranh nhân đạo?
Xe chạy ngang, tôi đưa mắt nhìn cảnh đã xảy ra với một sự chua xót tận cùng. Nơi bị mìn, men đường hiện ra một cái hố đất rộng bị mìn đào sâu hoắm. Đất đá trộn lẫn vào nhau vương vãi lấy mặt đường. Mấy miếng vải trắng be bét máu, máng lên một chà tre khô, lắc lư theo gió.
Chiếc xe lam được kéo vào lề, chỉ còn mấy miếng sắt vụn, bẹp dúm, nám đầy khói đen, với máu đã ngã màu nâu thẫm và mỡ óc lầy nhầy, nhớp nháp màu vàng nhợt. Một mùi tanh đến buồn nôn, làm tôi nổi gai ốc ở sống lưng rùng mình lại.
Như vậy, tai nạn có lẽ xảy ra từ sáng sớm, cho đến bây giờ này mới dọn dẹp xong. Mấy anh lính Dân vệ đứng dưới đường, súng máng trên vai, thẫn thờ nhìn xe qua, mồ hôi chảy giọt, bất động như những pho tượng buồn được người ta mang ra dựng ngoài trời nắng chang chang.
Trên xe tiếng thì thào bàn tán thưa dần, sau cùng chẳng còn ai nói đến nữa. Trời càng ngày càng ngã về chiều. Thị xã Bàu Trai, tỉnh lỵ Hậu Nghĩa, với những chấm trắng, xám, đỏ của phố xá, nhà cửa hiện rõ dần.
Út chồm về phía trước, ra hiệu cho tài xế ngừng xe lại. Còn chừng năm trăm thước nữa mới đến thị xã. Xe hiện đang còn ngoài đồng trống. Mé trái là một bờ mẫu đắp cao khỏi mặt ruộng, cũng là một con đường mòn dẫn vào xóm.
Út xuống xe băng ngang đường. Tôi cũng hấp tấp đẩy cửa bước xuống. Tôi hồi hộp lạ. Vì cái lô-cốt nhỏ về phía Bàu Trai chỉ cách một quãng ngắn tương đương với bìa xóm, lố nhố những lính đứng ngoài đường. Dọc theo bờ mẫu lại trống trơn, xa xa mới có được một cây trâm bầu trơ trọi, cheo leo.
Nếu lính ở lô-cốt thấy khả nghi gì đó, gọi tôi và Út lại thì vô phương chạy thoát. Mặt khác, không biết trong bìa xóm có ông lính phất phơ nào đi chơi, tán gái, hoặc nằm phục kích sẵn trong đó, thực là tai hại vô cùng. Dù sao, đã xuống xe tức phải đi, phải chấp nhận sự thực hiện hữu không còn cách nào khác hơn.
Phía trước, Út cứ rảo bước không hề ngoái cổ lại, đi càng ngày càng xa. Tim tôi đập loạn nhịp. Đưa mắt liếc về phía lô-cốt lần nữa, tôi ôm cái túi vải cao su băng qua đường, bước vội theo.
Càng cố gắng bước nhanh, tôi thấy quãng đường càng dài. Cự ly giữa Út và tôi cứ lớn dần thêm. Sao anh ta đi nhanh thế không biết nữa! Tôi muốn vọt chạy theo cho kịp nhưng không dám. Sợ rằng mình chạy, khác nào tự mình tố cáo, gây sự chú ý cho lính ở lô-cốt, tai họa sẽ đến ngay. Lúc đó, đối với tôi, một phút dài bằng một thế kỷ. Tôi quên cả cát nóng dưới chân lọt qua kẽ giày và ánh nắng gay gắt buổi ban chiều xiên thẳng vào mặt.
Hú vía! Bước đến bụi cây trâm bầu đầu xóm, bóng mát đầu tiền làm tôi thấy khỏe lên. Và cái lô-cốt cũng khuất sau bụi trâm bầu. Tôi thở phào, nhẹ nhỏm như vừa trút gánh nặng nghìn cân.
Út đi chậm lại chờ tôi. Nhìn gương mặt anh ta, tôi cũng đọc được những cảm nghĩ bất thần, hồi hộp vừa xảy ra. Anh ta cười, cái cười nhẹ nhỏm và tươi:
– Khỏe rồi! An toàn được bảo đảm chín chục phần trăm đó, anh Hùng! Anh hồi hộp dữ hả?
Tôi cũng cười:
– Đủ đổ mồ hôi lạnh!
– Mình đi vào buổi chiều êm lắm! Ít khi nào găp lính. Tụi tui cũng cho điều tra, nghiên cứu kỹ tình hình rồi đó chứ! Trời nắng như cháy da vậy, tụi lính nó làm biếng đi lắm. Tụi nó cũng dâu có ngờ mình đi con đường này. Ngoài ra tụi tui có đặt hệ thống canh gác ngầm ở đây. Có lính thì có dấu hiệu báo cho biết liền từ lúc chưa xuống xe lận kia!
– Làm sao biếi được anh?
– Khăn trắng! Khăn trắng phơi trên cái sào kia cà! Ngoài ngã ba thì có mấy cục đất!
Vừa đi chầm chậm, tôi vừa hỏi Út:
– Có lẽ anh đi con đường này hằng ngày?
– Phải đi hàng ngày tui đâu có hồi hộp. Đàng này có khi năm mười ngày, nửa tháng mới đi một lần.
– Những ngày kia chắc cô Hồng và anh chị em khác đi thay anh?
Út lắc đầu:
– Không! Cô Hồng quanh năm chỉ nhỏng nhỏng ở thành phố thì nhiều. Những anh em khác thì bận những việc khác. Họa hoằn lắm mới có một đôi lần đi thay, khi nào tui bịnh. Nói ra thì nó kỳ chớ mấy anh chị em kia họ có chịu nhận việc này đâu. Nguy hiểm mà! Chỉ có tui, tui lãnh đủ.
– Sao cô Hồng, cô ấy bảo cô ấy đi hàng ngày. Có khi đi suốt cả đêm, vì anh chị em sinh viên học sinh tham gia cách mạng đông đảo lắm. Hàng chục xe không đủ chở. Chẳng những vậy, đi toàn xe du lịch, xe nhà. Hôm 28 Tết, cô Hồng hẹn với tôi 7 giờ sáng nay sẽ đem xe du lịch đến đón tại nhà, có một cô khác lái xe.
Út nhếch mép cười. Mắt anh ta nhướng lên, tỏ vẻ không vừa ý, kể lể một hơi dài:
– Cái kiểu động viên tinh thần làm cho người ta phấn khởi bằng cách nói láo thì cô Hồng thiện nghệ lắm. Anh nghe làm gì cho mệt. Cả chục chiếc xe, cái đó thì có! Xe đò Chợ Lớn nè!! Không phải một chục mà hàng trăm chiếc. Còn đưa người vào chiến khu thì tui nè! Mỗi một mình tui chớ ai đâu. Có mấy lần họp đơn vị tôi phê bình cách động viên láo đó, nó hại uy tín chung, nhưng mấy anh ở trên bảo là tui ngây thơ, kém kỹ thuật tuyên truyền, cần phải được học tập thêm. Thật hay không thật không thành vấn đề, tuyên truyền mà chất phác thật thà sẽ không mang lợi ích gì hết. Mục đích, yêu cầu của tuyên truyền cái chính là làm sao gây được sự phấn khởi, lôi kéo được quần chúng theo mình. Từ đó đến giờ, tui không phê bình ai nữa. Nói chẳng ai nghe thì nói làm gì! Miễn rằng tui giữ sao cho khỏi phạm vào điều đó thì thôi. Mình học ít, lý luận kém, đâu có ý kiến gì hay nên có ai thèm nghe làm chi.
– Ở Sàigòn anh làm việc ở đâu anh?
– Anh hỏi nghề nghiệp tui hả? Tui chỉ đạp xích lô chớ có làm việc chi đâu.
– Mỗi ngày trung bình anh kiếm chừng bao nhiêu? Dễ thở chứ?
– Cũng dễ chịu! Ngày vầy ngày khác!! Ít lắm cũng kiếm được một trăm. Nhiều thì vài ba trăm.
Tôi khen:
– Chà, vậy là sướng quá rồi!
Út tiếp:
– Cũng khá là nhờ sống một mình, không phải nuôi gia đình vợ con gì, nên kể ra dễ chịu lắm. Nhưng anh thử coi, mỗi ngày trả tiền mướn xe hết hai chục, cà phê cà pháo, thuốc hút cũng hết bốn, năm chục nữa. Ba bữa ăn sáng trưa chiều, mỗi bữa chừng vài ba chục. Có khi tối đói bụng phải ăn thêm. Có thừa chút đỉnh đó anh, nhưng đâu phải ngày nào cũng đạp xe đều đều. Còn phải nghỉ vì bịnh hoạn, nghỉ lo công tác hoặc đưa khách như hôm nay. Đó là chưa kể chè chén, qua lại với anh em. Như tối hôm qua gặp mấy anh em bạn quen, rủ họ qua đường làng 21 bên Gia Định nhậu thịt chó, bốn năm trăm liền. Dư dả gì anh! Vay mượn hoài thôi.
– Tôi tưởng những ngày như thế này có tiền công tác phí chứ?
– Có! Chỉ có tiền xe bận đi bận về 30 đồng và tiền hai bữa ăn 30 đồng nữa. Tất cả là 60 đồng. Vậy thôi.
Nghe anh ta nói, tôi thấy thương anh ta nhiều. Tuy chưa có dịp được nói chuyện tâm tình, đi sâu vào tâm tư ý nghĩ thầm kín nhất của Út nhưng qua vài câu nói tôi thấy có một cái gì gần gũi, thân thiết đáng yêu. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Hoàn cảnh của anh chắc cũng không khác gì tôi. Tôi nghĩ đến một thắc mắc khác:
– Công tác ở nội thành phức tạp thiệt, anh Út!
– Cái đó là vốn rồi! Phức tạp mà nguy hiểm nữa.
– Tổ chức không khéo dễ bị lộ lắm! Chẳng những vậy, những anh chị em tư tưởng không vững, gặp chuyện bất mãn đi tố cáo với địch thì tổ chức bị bắt hết, không còn sót một mống.
– Coi vậy chớ việc kiểm soát nội bộ chặt chẽ lắm anh. Ai có hiện tượng gì bất thường đều được thuyên chuyển về căn cứ ở chiến khu hết. Sau đó tiến hành kiểm thảo và có biện pháp giải quyết.
– Thuyên chuyển người ta không đi thì sao?
– Bộ gan trời sao anh? Như vậy vô hình trung đã là phản động rồi.
Tôi hiểu lời anh ta giải thích. Tuy chỉ vỏn vẹn mấy lời nhưng thật là đầy đủ.
Phản đối, không bằng lòng vẫn phải nhắm mắt làm. Biết là sai, vô lý vẫn phải chấp nhận, vẫn phải cho là có lý.
Tôi nghĩ đến thân tôi. Buồn lắm! Cuộc đời có bao giờ giản dị và theo ý muốn của chúng ta đâu. Tôi đã thế, anh phu xích lô này có lẽ cũng chẳng khác gì? Anh ta vẫn phải chấp nhận điều anh ta không thích, như tôi. Từ sáng đến giờ, tôi không bị toàn bực dọc ấm ức đó sao?
Hôm nay là mồng bốn Tết, là bước vào mùa xuân đầy hoa, đầy hương, trời mát rợi nhưng sự thực vẫn là cái nóng thiêu người, là cánh đồng hoang nẻ đất, cỏ úa vàng hoe. Tất cả những hoa, những hương, những mùa lý tưởng chỉ còn là sách vở, là những sáo ngữ. Xưa rồi…
Út đưa tôi đi sâu vào xóm, lộn tới lộn lui, có hơn nửa giờ sau đến một cái chòi lá bỏ trống ở ven ruộng. Mái chòi lợp đưng gợi cho tôi nhớ những năm đầu kháng chiến chống Pháp ở Đồng Tháp Mười. Ở Đồng Tháp mới có đưng mọc. Đây có đưng thì ít ra đây cũng là ven Đồng Tháp chứ chẳng không.
Út ra hiệu cho tôi dừng lại, chỉ vào chòi:
– Anh vô chòi nghỉ chưn một chút. Tui lại nhà đằng kia chút xíu trở lại liền hè!
Cái chòi trống hoang, trơ nền đất, lỗ chỗ những đốm nắng tròn xuyên qua mái như những trứng gà. Tôi để cái túi vải cao su xuống, ngồi lên một miếng cây mục. Út đi vòng sau chòi men theo bờ tre ven ruộng đến căn nhà đằng kia.
Hơn mười phút sau, Út trở lại cùng với một cô gái mặc đồ bà ba đen. Tóc kẹp sau ót. Chiếc khăn rằn kẽ ô đen quấn ngang ở cổ. Hai người dừng lại bên bụi tre gai, đứng nói chuyện thầm thì một lúc. Tôi biết hai người đang nói chuyện về tôi.
Một lúc, Út rút bút máy trên túi áo sơ mi xuống lấy một mảnh giấy trắng nhỏ, ngồi chồm hỗm kê lên đầu gối hí hoáy viết. Anh ta viết gì nhỉ? Chắc lại báo cáo hay nhận xét gì đây! Anh ta đưa mảnh giấy cho cô gái. Cô ta xem xong xếp lại liếc mắt vào chòi nhìn trộm tôi.
Út cũng nhìn vào chòi. Bắt gặp tôi đang nhìn ra, Út cười, đưa tay vẫy vẫy ra hiệu từ giã. Đoạn vuốt lại quần áo, quay người đi trở về căn nhà hồi nãy. Vậy là Út từ giã tôi ở đây, trao tôi cho cô gái này dẫn đến một nơi mới.
Ngước mắt nhìn trời một thoáng như để định giờ, cô gái thong thả bước về phía tôi, nhoẻn miêng cười như quen tôi tự bao giờ:
– Mệt lắm không, anh Hùng?
Tôi cũng vui vẻ trước thái độ cởi mở của cô ta:
– Cám ơn cô! Thường thôi, không mệt gì lắm!
– Anh Út anh gởi lời chào từ giã anh, chúc anh đi đường vui vẻ, tiến bộ nhiều.
Tôi không nói gì, cô ta tiếp:
– Bị xế rồi, ảnh sợ trở về Sàigon không kịp nên vội vàng không kịp đến từ giã anh.
Đột nhiên tôi nhớ từ sáng đến giờ bụng tôi chưa có một hột cơm. Giờ «kiến» đang bò cồn cào trong bụng. Tôi hỏi cô ta:
– Bây giờ cô lại tiếp tục dẫn tôi đi nữa phải không cô?
– Dà!
– Đi lâu không cô?
Cô ta nhìn tôi xoi mói, suy nghĩ một giây:
– Lâu hay mau tùy ở anh! Sớm thì năm giờ, trễ thì sáu giờ, sáu giờ rưỡi cũng tới chỗ nghỉ. Có chuyện gì không anh?
– Chẳng có chuyện gì… chỉ hơi đói thôi. Gần đây, hoặc trên đường đi có quán bán thức ăn chứ cô?
– Có quán hơi xa một chút. Mà Tết nhứt vầy, mấy ngày nay chẳng có ai bán buôn gì đâu. Anh ráng một chút được không? ‘
– Ráng gì, cô?
– Ráng chịu đói ấy mà! Hay là… anh ngồi chờ tui một chút! Tui lại đằng nhà bác Ba hỏi thử coi. Hình như bả còn vài đòn bánh tét. Để tui xin cho anh một đòn ăn tạm cho đỡ đói.
Không biết gì hơn, tôi xuýt xoa:
– Phiền cô quá. Cám ơn cô lắm đó!
Cô gái bước đi. Tôi lo sợ vẩn vơ. Ở đây vắng quá.
Lác đác có vài nhà lá, nhưng sao vắng hoe, không thấy người thấp thoáng. Kể ra từ đây đến tỉnh lỵ Hậu Nghĩa không xa xôi gì lắm. Chừng vài cây số là cùng. Rủi Dân vệ hay Bảo an bất ngờ thả rong đến đây thì tôi chạy trốn đường nào, hoặc ăn nói làm sao cho trôi?
Tôi thầm trách Út, nhưng nghĩ cho cùng, tôi thấy Út cũng chẳng có trách nhiệm gì. Nếu có, là tổ chức của anh ta, mà tổ chức của anh ta cho đến giờ phút này tôi chẳng biết gì hơn ngoài những tên Thu Hồng, tên Út và vài câu chuyện suy đoán vẩn vơ cộng với sự tiết lộ « láo thiên láo địa » của Hồng. Giờ đến cô gái này, và tôi thì bơ vơ ngồi đây.
Có những điều mà những kẻ trong bước thoát ly đầu tiên bỡ ngỡ, băn khoăn, hồi hộp lo sợ hằng trăm thứ. Người dẫn đường nên giải thích, động viên, an ủi họ để họ yên lòng vì đó là một tác động tâm lý cần thiết. Người mới, bước vào một khung cảnh mới, sinh hoạt mới, làm sao không bỡ ngỡ băn khoăn, làm sao không úng túng giữa một khung trời lạ, ngoài sự hiểu biết, ngoài sự tiên liệu của cuộc sống bình thường.
Tôi cũng vậy! Đáng lẽ, tổ chức của Út phải dặn anh ta trước khi trở về Saigon, nên nói với tôi mấy câu tóm tắt sơ lược những gì có thể xảy ra trên đường tôi đi tới. Tôi sẽ ăn ở đâu và ngủ ở đâu? Tôi sẽ đến nơi nào, nên quan tâm những gì, đề phòng những gì v.v… Và tác động tâm lý cần thiết không kém quan trọng là cho tôi viết mấy chữ gởi về gia đình, báo sơ rằng tôi vẫn bình yên để gia đình tôi đỡ lo, cá nhân tôi được yên lòng.
Cái chuyện động viên, gây phấn khởi, niềm tin cho tôi lúc tôi còn ở Sàigòn thì được người ta quan tâm, chú ý dù phải bịa đặt, dựng đứng những sự kiện không bao giờ có, người ta cũng không từ. Bây giờ đã đưa tôi ra khỏi Sàigòn, đã ném tôi ra khỏi khung trời cũ, quen thuộc của tôi thì không quan tâm nữa làm gì, phải không?
Không biết từ đâu đến, chỗ nghỉ còn bao xa nữa? Tôi sẽ gặp những ai ở đó? Cuối cùng, tôi sẽ đến tận đâu? Chiến khu mà tôi ở thuộc vùng nào, người ta đối xử với tôi ra sao? Những điều đó làm tôi băn khoăn không ít.
Bây giờ, 3g chiều ngày mồng bốn Tết, ngày đầu tiên tôi rời khỏi Sàigòn tham gia Cách mạng, bụng tôi hãy còn trống trơn. Thấy đói. Cái đói cộng với nỗi sợ hãi bâng quơ làm tôi nhũn người ra, không khác sợi dây đàn mới được mắc vào trục lỏng lẻo, bất lực không thể nào tạo được bất cứ một âm thanh nào.
Cô gái đã về tới. Cô ta đưa cho tôi hai đòn bánh tét to bằng cổ tay:
– Bánh tét nhưn chuối đây. May cho anh, bả còn hai đòn, tôi lấy hết. Anh ăn cho đỡ đói, tới nơi lo cơm nước sau.
Tôi nuốt nước miếng ực qua cổ họng:
– Cám ơn cô! Rất cám ơn nữa là khác! Không nhờ cô, tôi chắc đói nằm vạ ở đây rồi.
Cô ta nhíu mày lại, tỏ vẻ không bằng lòng. Tôi lấy làm lạ, không hiểu tại sao cô ta phản ứng như vậy. Hay tôi đã làm một cử chỉ vụng về? Tôi đang phân vân thì cô ta tiếp:
– Anh ăn lẹ lên rồi còn đi! Tối rồi đó!
– Cô dẫn tôi đi?
– Dà!
Tôi thấy khó chịu qua cử chỉ đó. Tuy vậy, tôi cũng tuột dây cột đòn bánh tét, định mở. Cô ta đứng dựa vào cột chòi, đăm đăm nhìn tôi và hỏi:
– Sao anh hay « cám ơn » quá vậy?
Tôi ngơ ngác hỏi lại:.
– Cô nói sao?
– Tui muốn hỏi tại sao anh ưa dùng tiếng « cám ơn » hoài vậy? Nãy giờ, anh nói ba bốn lần với tui rồi l
Tôi lấy làm lạ, quên hẳn đòn bánh tét:
– Cô không thích hai tiếng đó à? Tôi nghĩ đó là phép lịch sự cần phải có của con người. Tôi cám ơn cô với nghĩa đó chứ tuyệt nhiên không vì một lý do nào khác. Thế từ nhỏ đến giờ cô chưa nói « cám ơn » ai bao giờ à?
– Hồi đó thì có. Bây giờ là không!
– Nghĩa là sao? Tôi chưa hiểu!
– Nghĩa là từ hai năm trở về trước, ba má tui dạy tui «cám ơn » mỗi khi người ta cho mình hay giúp mình việc gì. Cho nên tui nói hồi đó tui có nói. Từ ngày theo Cách mạng đến giờ bị phê bình riết, tui bỏ đi.
Tôi cười:
– Dùng hai chữ « cám ơn » mà bị phê bình? Kỳ cục! Tôi mới nghe cô nói lần đầu tiên trong đời tôi đó! Lạ thiệt!
Mặt cô ta đỏ ửng lên, nói một hơi không thở:
– Gì mà lạ? Gì mà kỳ cục? Mấy anh chị lớn dạy rằng « cám ơn » là hiện tượng của nô lệ tính, mang đầy tính chất tiểu tư sản, phong kiến. Làm chiến sĩ cách mạng, thấm nhuần tư tưởng, giác ngộ lập trường giai cấp công nông phải thủ tiêu hai tiếng đó đi! Giúp đỡ lẫn nhau, cho lẫn nhau là một bổn phận, việc gì phải cám ơn. Bổn phận, trách nhiệm thấy thì phải làm. Không làm thì bị phê bình, kiểm điểm. Cũng như hỏi thăm anh mệt không, anh nói cám ơn. Tui nói để tui đi kiếm bánh tét cho anh, anh cũng nói cám ơn. Rồi kiếm được hai đòn mang về cho anh, anh lại cám ơn, rất cám ơn! Cám ơn gì cám ơn hoài vậy? Anh thấy chưa? Hỏi thăm anh, đi kiếm bánh tét cho anh là trách nhiệm, bổn phận của tui mà! Đâu phải đợi anh cám ơn tui mới làm đâu. Cám ơn hoài tui nghe nó bực bội lắm. Anh nhứt trí chớ?
– Thôi thì cô nhứt trí với mấy anh chị lớn của cô đi! – Tôi nói -. Còn tôi nhứt trí hổng nổi. Có nhức đầu thì có. Chín năm kháng chiến trước đây, tôi chưa nghe ai đưa ra cái lý luận kỳ cục này. Cô mới tham gia cách mạng giỏi lắm vài năm nay nhưng tôi đã đi kháng chiến từ năm 45, 46. Lần này là lần đầu tiên tôi nghe cô nói, bắt bẻ, sửa lưng tôi. Tôi nghĩ bất kỳ xã hội nào, bất kỳ chế độ nào, phép lịch sự cũng cần phải có. Thủ tiêu phép lịch sự, con người sẽ trở thành cái gì đây? Chà… có lẽ tại tôi chưa giác ngộ cách mạng…
Cô ta cướp lời:
– Chắc chắn chớ có lẽ gì nữa! Anh còn phải học tập nhiều, đảng còn phải uốn nắn, giáo dục anh mới tiến bộ được. Anh đi kháng chiến, đi làm cách mạng sao anh lại ở thành, không đi tập kết như mấy anh cán bộ mùa thu? Thôi, nè anh! Vùng này là vùng mất an ninh, giặc đột kích thường. Phải tranh thủ vừa đi vừa ăn, không ngồi ăn ở đây được. Tui hổng bảo đảm, hổng chịu trách nhiệm.
Chưa hả hơi, cô ta nhìn vào giày dưới chân tôi, trề môi ra:
– Ơ kìa! Anh còn mang đôi giày bóng ngời đó, sao không cởi ra đi? Bộ anh tưởng đi làm cách mạng như đi trên đường tráng nhựa, đi ăn giỗ, lên xe xuống ngựa chắc? Giày này liệng bụi tre kia là vừa! Ở chiến khu chỉ xài dép râu, sao anh không mua dép râu?
Thực là quá quắt không chịu nổi! Mặt tôi cũng nóng bừng, nổ đom đóm mắt. Tôi cười, cái cười hết sức ngạo mạn mà có người thường bảo là giọng cười « ó đâm » chọc thẳng vào ruột người nghe:
– Tôi chưa khùng nên tôi không thể mang đôi dép râu, mặc đồ bà ba đen nghễu nghến trên đường phố Sàigòn để cho công an, mật vụ vỗ tay hoan hô. Cô nên hiểu, Sàigòn không phải là chiến khu như cô tưởng!
– Nè, anh không được ăn nói vô tổ chức như vậy nghe! Anh tưởng anh là trí thức, anh giàu có, Cách mạng cần tới anh hả? Đi anh! Không nói chuyện với anh nữa!
Cô ta giận dữ, bực tức ngoe nguẩy bỏ đi ra đường mòn.
Tôi vừa giận, vừa tức cũng không sao nhịn được cười. Quả là chuyện chẳng có gì, chẳng đâu vào đâu lại có thể bỗng dưng đâm ra gây gỗ, cãi cọ một cách vô lý như thế được. Cô ta dù gì cũng chỉ là một cô bé con mới lớn. Tôi lớn hơn cô ta nhiều. Lớn đầu đi cãi lộn với trẻ con, không hay chút nào. Tôi chợt thấy ngượng lẫn với ấm ức vì những cái mà không hiểu vô tình hay cố ý, người ta dành để «tặng» tôi.
Tôi nhìn đến đôi giày. Tôi cũng biết đôi giày của tôi, từ đây cũng chỉ có vất vào bụi tre gai. Cô gái ấy nói đúng! Lội sình, lội ruộng, băng đồng, đòi giày da bóng là một hài hước, một sự trái ngược dị thường.
Tôi lặng lẽ lột giày, ném mạnh ra ven ruộng, chỉ chừa lại đôi vớ vì nghĩ có lúc sẽ còn cần đến nó. Quàng túi cao su lên vai, tôi thấy hết đói, no ngang đến tận cổ. No thì còn giữ làm gì? Tôi vất hai đòn bánh tét xuống đất và vội vàng bước theo bóng cô gái vừa khuất ở khúc quanh.
Trong một phút, niềm tự ái dâng cao. Tôi mong cho cô gái dẫn đường đừng chờ tôi và đã đi thật xa. Ra đến lối mòn mà nếu không thấy cô ta đâu, nhất định tôi sẽ trở ra đường đón xe trở về Sàigòn, kết quả sau này ra sao cũng mặc.
Ra đến khúc quanh, cô gái vẫn còn chờ. Cô ta đang đưa tay ngắt mấy đọt tre. Cô ta quay nhìn tôi, nhìn đôi chân trần không giày vớ của tôi rồi thong thả bước tới, dường như thỏa mãn và hơi xúc động về hình ảnh đó. Đôi chân mang dép Nhật Bản của cô ta như ngượng ngập, quấn vào nhau, thiếu tự nhiên.
Kẻ trước người sau, cứ như thế chúng tôi ra khỏi xóm, lội ruộng khô trơ gốc rạ, băng vào khoảng rừng tràm con mới mọc cao quá đầu người. Dọc theo rừng tràm con là con lộ đá đỏ Bàu Trai đi Vàm Xáng ở bờ sông Vàm Cỏ Đông. Con lộ đã bị phá hoại, san phẳng thành bình địa, đầy những hố, mương sâu. Quay nhìn đầu con đường, tôi thấy những ngôi nhà gạch nóc đỏ vượt khỏi ngọn cây.
5 giờ 40 chiều, sau khi vượt nhiều con kinh đào. vượt những rẫy mía, khoai mì, rẫy thơm, chúng tôi đến một con kinh đào khác, cách sông Vàm Cỏ chừng năm trăm thước. Tràm mọc thành hàng, bông trắng rụng đầy mặt đất. Thỉnh thoảng có vài thanh niên bước vội, ngược chiều, vai vác súng trường Mas hoặc khẩu súng hai nòng đi ngang qua. Không hỏi nhưng tôi hiểu họ là những du kích ở đây.
Dẫn tôi vào một căn nhà lá ở bờ kinh, trơ hai chiếc chõng tre, không một bóng người, cô gái dẫn đường lấy khăn lau mồ hôi và bảo:
– Tới nơi rồi, anh để đồ xuống nghỉ, tắm rửa đi. Chút nữa sẽ có người đến tiếp xúc với anh.
Cô ta chỉ nói vậy rồi quay trở ra đường. Tôi ngồi xuống chõng tre. Hai chân mỏi rã rời. Bụng lại đói. Người mệt lã. Giá mà lúc ấy có ai bảo tình hình khẩn cấp phải di chuyển ngay, chắc chắn tôi cũng đành chịu, không sao bước nổi thêm bước nào nữa. Hai bàn chân trần không giày dép của tôi dẫm lên cát nóng, đá sỏi vụn, suốt từ trưa đến giờ làm nó sưng mọng lên.
Tựa lưng vào vách lá, tôi với lấy chiếc nón lá rách của ai bỏ nằm tênh hênh ở góc chõng, quạt phe phẩy cho đỡ mệt. Quần áo tôi sũng mồ hôi như nhúng nước. Giữa lúc đó từ sau nhà, một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, quần áo vàng quách những phèn, bước vào. Tay chị xách mấy trái thơm. Chị đưa mắt nhìn tôi:
– Anh mới tới hả?
Tôi nhích người ngồi ngay lại nhưng không nổi, gật nhẹ đầu, chào:
– Dạ! Chào chị!
– Anh đi với ai?
– Với một cô dẫn đường nhưng cô ấy vừa đi đâu rồi!
Chị để mấy trái thơm xuống góc bếp:
– Cô giao liên đó! Cổ đi lại đàng kia! Đằng văn phòng của anh Bảy. Vậy ra, anh ở Sàigòn lên?
– Dạ!
Suốt từ hôm 28 Tết đến nay, tôi cứ thắc mắc không hiểu tổ chức của cô Hồng, thực chất của nó là tổ chức gì? Nhiệm vụ công tác của nó ở Sàigon, chỉ chuyên việc đưa rước người vào chiến khu như một trạm của giao liên, hay còn có công tác nào khác? Nó là tổ chức thuộc về cơ quan nào, cấp nào của miền Nam?
Tôi thắc mắc vì tôi không thể nào nhắm mắt đi theo người ta mà không biết họ là ai, họ sẽ xử dụng mình như thế nào. Dẫu rằng trước kia anh Nam, huyện ủy viên châu thành Mỹ Tho có cho biết là tôi sẽ được về Miền theo lời tôi yêu cầu, tôi không thể nào không thắc mắc băn khoăn. Hỏi thì chắc chắn trăm lẻ một phần trăm không ai trả lời. Ngược lại tôi còn bị nghi ngờ, nhận xét này nọ. Vì vậy, tôi thắc mắc muốn biết nhưng không sao dám mở miệng.
Bây giờ nghe nói đến «văn phòng của anh Bảy », tôi muốn hỏi thêm ít điều, may ra có biết thêm được gì không. Tôi bắt đầu làm quen:
– Thưa… chị thứ mấy?
– Tui thứ Tư!
– Dạ… chắc nhà này là nhà chị, anh Bảy ảnh mượn để cho khách ở?
– Dạ!
Vậy đúng chị Tư này là chủ nhà rồi. Tôi vờ như vô tình:
– Hồi nãy cô giao liên dẫn đường dẫn tôi đến bỏ ở đây. Đi với nhau suốt mấy tiếng đồng hồ liền mà quên hỏi tên cô ta, nghĩ cũng tệ thật, cô ấy tên gì vậy chị Tư?
Chị Tư chúm chím cười:
– Anh hỏi chi vậy? Ra vô ở đây có tới ba bốn cô, anh hỏi vậy tui có biết cô nào là cô nào? Cô đó dáng dấp làm sao?
– Tóc kẹp…
Chị Tư hớt ngang, không kịp cho tôi nói tiếp:
– Rồi! Tui biết rồi! Cô Bông đó! Một mình cô Bông là tóc kẹp. Ờ, anh tên gì, thứ mấy?
– Tôi tên Hùng! Chị gọi Hùng được rồi!
– Mà anh hỏi tên cô Bông chi vậy?
– Để đề nghị lên cấp trên thưởng huy chương.
Chị Tư cười:
– Cần gì anh phải đề nghị. Hôm rồi, tui nghe mấy anh chị em ở đây, họ bàn tán với nhau là cô Bông được bầu làm chiến sĩ gì đó cho đơn vị B.39 của anh Bảy. Thế nào cô Bông cũng đươc thưởng huy chương.