Chương III CÔ GIAO LIÊN B.39
Tôi giã từ quê hương, trở lại Sàigòn vào ngày hôm sau. Tôi biết ba má tôi buồn lắm. Các em tôi cũng buồn, lo lắng cho tôi. Trên con đường tôi sẽ đi, chông gai lắm lắm. Tôi sẽ phải chịu đựng nhiều.
Gian khổ về vật chất, đói khát, lạnh lẽo, chết chóc, tất cả những thứ ấy tôi coi thường. Tôi chỉ sợ đau khổ về tinh thần, vì nó có thể đẩy tôi sa vào một con đường không lối thoát, một địa ngục chính tại giữa tim mình. Nó sẽ dằn vặt tôi, đeo đuổi, ám ảnh mãi không thôi.
Nếu một triết nhân phương Tây bảo: « Cuộc đời là một vở kịch không có màn chót » thì tôi đúng là một diễn viên. Tôi sẽ thủ vai tuồng tự mình mâu thuẫn với chính mình.
Trước khi tôi bước lên xe trở về Sàigòn, trong một cử chỉ đau khổ, tuyệt vọng đến tận cùng, ba tôi nói với tôi lần cuối:
– Lâu rồi… ba giả câm, giả điếc, an phận thủ thường. Nhưng bây giờ họ cũng không tha… Ba buồn quá con! Ba biểu để mặc ba mà, con không nghe. Coi như bao nhiêu năm trời nay ba đem hết sức, hết tâm trí vào việc gầy dựng cho con nên người, ba hy vọng biết bao nhiêu vào con… Hết rồi! Thôi hết rồi…
Ba tôi nghĩ rằng tôi đã làm một việc vô ích. Nhưng ba tôi làm sao hiểu được rằng, qua cách nói chuyện và thái độ của họ, bắt buộc tôi phải trả lời dứt khoát và chỉ được phép trả lời theo ý họ muốn.
Chuyện học hành của tôi, tôi biết lắm, nhưng họ đâu cần biết đến những chuyện riêng tư của tôi. Họ muốn tôi phải dở dang… Nếu tôi bảo họ chờ tôi thi cử xong, có lẽ họ giữ tôi lại, cho là tôi thiếu thật thà.
Đối với họ, học càng cao lại càng khó giáo dục vì cái trí thức đó không phải là thứ trí thức cách mạng mà chỉ là thứ trí thức phản động, mất gốc do đế quốc nhồi sọ, truyền cho.
Có hiểu như vậy, ba tôi sẽ thông cảm và chấp nhận với tôi về hoàn cảnh thực tại vô phương giải quyết. Đời tôi đã liệng đi rồi thì cái chuyện thi cử có nghĩa gì!.Tôi chỉ cầu mong mỗi một điều là các em tôi sẽ làm được những điều tôi không làm được, thỏa được kỳ vọng và niềm mong ước lớn nhất của ba tôi.
Tôi bước lên xe. Xe chuyển bánh. Hình ảnh ông già thất thểu đứng tần ngần, mất hồn giữa bến xe đò đông đúc của ba tôi khuất hẳn.
Tiếng động cơ rú ga, tiếng gió lùa vào mặt, trong một phút làm dịu hẳn mọi nỗi ưu phiền, đè nặng lòng tôi.
Xe ra khỏi thành phố Mỹ Tho, vượt qua cầu đúc Đạo Thạnh rồi ngã ba Trung Lương chạy về Sàigòn. Hai bên đường đồng rộng thênh thang, nhà cửa nhân dân thoạt ẩn thoạt hiện qua mấy rặng cây thưa. Cảnh sống yên tĩnh, thanh bình. Hình ảnh đó nhắc cho tôi nhớ là đất nước này đẹp quá, nhân dân hiền hòa vui sống trong cái hồn nhiên bình dị.
Trời ơi! Vậy mà chiến tranh đã và đang xảy ra trên đất nước này! Và tôi, mai đây cũng lao vào cuộc chiến tranh đó, góp sức gió làm cho ngọn lửa hừng hực vượt lên cao
***
Đêm 28 tháng Chạp, cuối năm 1962, tôi và Cúc, Dũng ba anh em đang lui cui lo dọn dẹp, rửa nhà, sơn phết để sửa soạn Tết thì tôi nghe có tiếng xe Vélo xịch ngừng trước cửa. Tôi đang trần trùng trục bê thùng nước dội giữa nhà cho Cúc quét, vội quay đầu nhìn ra.
Bên ngoài, một cô con gái mặc chiếc áo dài màu hồng quay lưng vào nhà lúi húi dựng và khóa xe. Tôi đinh ninh là bạn của Cúc nên tôi nháy mắt ra hiệu, hỏi nhỏ Cúc:
– Con nhỏ nào vậy?
Cúc đăm đăm nhìn ra, trả lời tôi:
– Coi bộ lạ. Đâu phải bạn em.
Và lạ thật. Cô ta cầm cái ví tay nhỏ, bước vào rụt rè ở cửa, chào Gúc:
– Chào chị!
Cúc bước ra:
– Cô muốn hỏi ai ạ?
– Thưa chị, em muốn hỏi anh Hùng!
Cúc quay đầu nhìn tôi, ngơ ngác. Tôi cũng ngơ ngác không kém:
– Dạ tôi là Hùng đây! Cô gặp tôi có việc chi cần? Dạ tôi chưa hân hạnh được biết cô…
Cô ta cười như không nghe lời tôi nói:
– Em muốn được nói chuyện riêng với anh, bàn với anh một số vấn đề.
Nghe qua kiểu cách nói chuyện, tôi sực nhớ ngay đến chuyến về Mỹ Tho và tôi hiểu cô này là ai rồi. Tôi nói:
– Mời cô theo tôi! Lên gác nói chuyện cho tiện nghe cô. Chà! Chúng tôi đang lo dọn dẹp nhà cửa bề bộn quá.
Cô ta theo tôi bước vào gian nhà trong và leo lên gác.
Tôi mời cô ta ngối xuống bàn học, đối diện với tôi và hỏi:
– Chuyện chi đấy cô?
Cô ta không trả lời, chầm chậm mở xắc tay đưa cho tôi một mảnh giấy con gấp tư. Tôi đón lấy mở ra:
« Thân gửi anh Hùng.
Theo tinh thần cuộc thảo luận hôm trước đây, anh đồng ý giúp chúng tôi mở một trường mới. Vậy chúng tôi xin tin anh rõ, mồng bốn Tết trường ta bắt đầu khai giảng.
Bây giờ anh chuẩn bị bài vở là vừa.
Chúc anh ăn Tết vui vẻ và một năm thành công trong mọi việc.
Thân mến
QUANG »
Điều tôi hiểu là đúng. Tôi chưa kịp có phản ứng gì, cô ta đa cười nửa miệng, hỏi tôi:
– Dạ, anh rõ rồi chớ? Em là người được tổ chức gửi đến tiếp xúc với anh và sẽ rước anh đi.
– Tôi hiểu! Tôi trả lời.
– Như vậy mồng bốn Tết, em đến rước anh! Vào dịp Tết, đường đi dễ dàng, ít ai để ý.
– Đi bằng cách nào cô?
– Tùy anh! Phương tiện của mình thì dồi dào lắm. Anh muốn đi bằng xe du lịch cũng được, xe đò cũng được. Anh muốn đi với em và một chị nữa lái xe cho anh đi hay đi với mấy anh khác cũng được. Nói chung, về vấn đề di chuyển xin để anh quyết định. Anh nhứt trí chớ?
Nghe cô ta nói, tôi ngạc nhiên hết sức. Tôi ngạc nhiên vì không ngờ tổ chức cơ sở nội thành có thể mạnh và dồi dào đến như vậy! Tôi muốn hỏi nhiều việc, muốn biết nhiều việc, nhưng hỏi thì thực không nên.
Kinh nghiệm cho tôi biết rằng, công tác cơ sở phải hết sức bí mật, hết sức cảnh giác. Có cảnh giác cao độ mới bảo toàn được cơ sở. Cảnh giác đối với mọi người chung quanh, cảnh giác cả với những đồng chí công tác chung với mình. Việc ai nấy biết, không được tò mò hỏi công việc của người khác. Nếu có hỏi cũng không ai nói. Nói cho người khác biết công việc của mình là khuyết điểm. Còn hỏi công việc người khác sẽ bị để ý, nghi ngờ, theo dõi chặt chẽ.
Như vậy, tôi là một người ngoài tổ chức của cô ta, một thứ lính mới, cần phải để ý theo dõi đề phòng. Tôi tò mò muốn biết công việc của cô ta, chắc cô ta không bao giờ nói. Chẳng những vậy còn có ấn tượng xấu, nghi ngờ. Biết thì biết vậy, nhưng tò mò tôi vẫn tò mò.
Ngồi đối diện với tôi là một cô gái rất trẻ. Mặt non choẹt, tưởng chừng đưa tay bấm là ra sữa ngay. Tóc uốn quăn. Đôi má phinh phính. Mắt lá răm, sắc sảo, đong đưa. Cái miệng mỗi khi nói chuyện là cong lên, cong xuống, mất hẳn vẻ tự nhiên. Qua sự quan sát đó, tôi đoán cô ta nhiều lắm chừng mười tám là cùng, thuộc loại thích làm dáng, ba hoa chích chòe, nhí nhảnh, dạn dĩ, lắm lời đến cái độ mà dân Nam bộ thường gọi là «xạo»
Tôi đang tìm câu nói để khích cô ta, chưa nói cô ta đã lên tiếng trước:
– Lâu nay, em cũng tiếp xúc với sinh viên học sinh rất nhiều. Em đưa họ vào khu như ăn cơm bữa nhưng chưa lần nào em thấy mấy anh ở trên quan tâm đặc biệt như đối với anh lần nầy. Trong việc đi đứng phải thảo luận với anh trước và nên nghe theo ý kiến của anh.
Tôi mỉm cười. Cô bé định cho tôi uống nước đường, đưa tôi lên mây xanh chắc? Tôi cũng hỏi một câu chiếu lệ:
– Nghĩa là từ bây giờ tôi phải thu xếp đồ đạc sẵn? Sáng ngày mồng bốn cô đem xe đến đây rước tôi cùng với một người lái xe?
– Dạ, đúng bảy giờ sáng ngày mồng bốn Tết!
– Ngoài chuyện thu xếp gia đình, khi tôi vào trong ấy, theo cô, cô thấy tôi cần phải chuẩn bị những gì, sắm những gì cho nó thích hợp với đời sống ở đó?
– Tùy anh! Nhưng em nghĩ, nếu cần sắm trước anh nên chọn nylon dầu, thứ thiệt tốt, mua ba thước để may võng. Kế đó là vài bộ đồ thay đổi. Thêm nữa là một cái mùng chiếc. Vậy thôi! Coi vậy chớ trong đó không thiếu gì đâu. Anh không có thì cách mạng cấp cho.
– Khi đi, mình đi bằng xe du lịch hả cô?
Cô ta cười vui vẻ:
– Đúng như vậy đi anh! Anh biết hông? Suốt nửa tháng nay ngày nào em cũng đưa mấy anh chị em sinh viên học sinh vào khu. Sáng đi chiều về. Có hôm phải đi suốt cả ban đêm, sáng chưa về tới Sàigòn. Đông quá anh ơi! Anh chị em sinh viên, học sinh tinh thần cách mạng họ cao lắm. Tụi này nhiều xe, cả chục chiếc, vậy mà có hôm không đủ chở, phải chờ cả ngày, đến tối mới đi được chuyến thứ hai. Chiếc nào cũng chất bảy, tám người, chật cứng như xe lô. Ngay tối hôm qua, em phải thức đưa họ sáng đêm. Chín giờ sáng nay mới về tới Sàigòn. Để rồi coi, vào trong đó thế nào anh cũng gặp vô số bạn quen.
Tôi bắt đầu tò mò:
– Đường đi chắc xa lắm phải không cô? Nhưng đi với mấy cô, mấy cô lội bộ nổi thì tôi chắc cũng kham nổi, không lẽ tệ hơn.
– Anh muốn nói đường bộ sau khi xuống xe?
– Dà!
– Đường xe thì đi theo lộ Đông Dương xuống Tân An, rẽ vào Thủ Thừa thẳng đến Mộc Hóa. Tới Mộc Hóa mình ngừng lại. Ở đó có xuồng gắn máy chờ sẵn, thành ra mình đâu có đi bộ, anh! Toàn ngồi xuồng. Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau đến nơi. Anh ở lại, em xuống xuồng trở ra xe về Sàigòn liền.
– Trước giờ có khi nào gặp khó khăn, bị lính bắt không cô?
– Không, anh! An toàn lắm. À anh! Anh có định mang theo cái gì nặng cồng kềnh không? Nếu có, đưa ngay cho em bây giờ để em mang vào trong đó trước. Chớ lúc đi, mang theo cồng kềnh chỉ nặng anh và có thể gặp khó khăn trên đường đi.
Tôi suy nghĩ một giây. Được mang theo ít đồ dùng thì hay quá. Tôi nghĩ đến cây đàn violon và cái radio transistor:
– Nếu được, tôi sẽ mang theo cây đàn vĩ cầm và radio transistor. Tôi vốn thích nhạc. Và tôi nghĩ ở chiến khu, mang theo một cái Radio để nghe tin tức thật cần thiết. Còn trong những lúc rảnh rỗi được chơi vài bản nhạc, thú biết mấy. Nó cũng chẳng cồng kềnh nặng nhọc gì. Đi xe nhà, chừng đó tôi mang theo cũng được. Bây giờ, chỉ sợ làm cực cô.
– Có gì cực đâu anh! Có người của tổ chức phụ trách mang những thứ đó mà! Tuy chẳng cồng kềnh gì nhưng họ mang tiện hơn mình. Biết đâu ngay chỗ dừng xe, rủi có bọn “điệp” ở đó, địa điểm sẽ bị lộ ngay. Anh không hề gì, chỉ cực cho tụi em khi trở về gặp phải chuyện nguy hiểm thì sao? Nhất là đường mình đi nó bị lộ…
– Nếu vậy tôi phải đưa cho ngay bây giờ?
– Dạ!
Tôi đứng dậy lấy hộp đàn vĩ cầm máng trên tường xuống và cái radio để sẵn trên bàn đưa cho cô ta:
– Xin cô cho tôi gửi hai món này. Nếu người khác mang đi, cô dặn họ làm ơn nhẹ tay dùm cũng như đừng để nó bị ướt.
– Anh khỏi lo! Họ kỹ lắm. Tín nhiệm lắm!
– Ơ! Bây giờ cô đi xe vélo làm sao chở hộp đàn vĩ cầm?
Cô ta cười, từ tốn:
– Cái hộp đàn này nhỏ hơn cây ghi-ta nhiều, em còn chở được. Không sao đâu anh. Chút nữa anh xuống coi em chở. Bảo đảm không hề hấn gì. Bây giờ em về nhé! Hẹn với anh đúng 7 giờ sáng ngày mồng bốn Tết đó.
Tôi đưa cô ta xuống thang gác, ra đường. Cô ta ràng hộp đàn vĩ cầm lên yên sau chiếc vélo. Trông cô ta nhanh nhẹn, gọn gàng, thoăn thoắt như một con sóc.
Cho đến giờ phút này, nghĩa là hơn một giờ đối diện nói chuyện với nhau, tôi vẫn không thể nào biết cô ta thưộc tổ chức nào, cho đến cái tên của cô ta tôi cũng không biết nốt. Điều đó vô lý quá.
Cô ta ngồi lên yên xe, sửa soạn đạp đi:
– Chào anh! Em về!
Tôi hấp tấp, la lên:
– Khoan! Cô cho tôi hỏi chút l
– Dạ, chi anh?
– Cô tên gì nhỉ? Biết sau này để còn gọi…
Cô ta nhướng mắt lên, làm một điệu bộ như ngạc nhiên lắm:
– Ý chết! Em vô ý quá! Đáng lẽ em tự giới thiệu với anh lúc mới tới. Xin lỗi anh!
– Không có chi!
– Ơ…em xin tự giới thiệu. Em tên Hồng. Thu Hồng.
Nói vừa xong cô đó, cô ta đã vội rướn người lên đạp xe vọt ra đường. Mở máy chạy thẳng. Không hề quay lại.
Như vậy là sáng mồng bốn Tết tôi sẽ lên đường. Xa Sàigòn, xa gia đình thân yêu, tôi từ bỏ nếp sống thường ngày để lăn mình vào một cuộc sống mới.
Tôi cố hình dung, tưởng tượng cái cuộc sống tương lai nhưng không sao dựng lên được trong đầu mình một hình ảnh nào. Ngày xưa, ở Đồng Tháp Mười và rừng U Minh, các tỉnh miền Tây, khắp nơi chằng chịt những sông rạch, đồn bót của Pháp rất ít, đóng thưa thớt theo các trục lộ giao thông lớn. Nhà cửa nhân dân đông đảo, vườn rộng, ruộng cò bay thẳng cánh, suốt mấy ngày liền nhiều nơi chưa hề nghe được tiếng phi cơ dù ở xa xa. Cho nên ngoại trừ những đơn vị chiến đấu, những vùng gần đồn bót người ta mới biết mùi vị của chiến tranh.
Những cơ quan, những đơn vị không chiến đấu thì chiến tranh, chết chóc chỉ là những danh từ trên sách báo và trong những buổi trà dư tửu hậu. Dù rằng thỉnh thoảng năm ba tháng cũng có tiếng bom nổ gần, vài ba năm có một trận càn quét phớt qua, nhưng chiến tranh mà như vậy thì có nghĩa gì?
Sinh hoạt của nhân dân vẫn bình thường. Dười sông ghe xuồng vẫn tấp nập đi lại. Trên bờ nhà cửa vẫn dày đặc. Mua bán phồn thịnh, cà-phê, hủ tíếu vẫn đều đặn sáng, chiều. Quả thực là một cuộc kháng chiến với đời sống đầy đủ, sung sướng và nhàn hạ. Cán bộ, chiến sĩ tha hồ đi lang thang, không phải băn khoăn bất kỳ với lý do nào.
Chiều chiều vẫn có những chiếc xuồng thả trôi trên sông, ngắm trời, ngắm nước tâm tình vụn. Đêm đêm tổ chức chè chén ăn nhậu lai rai. Đi công tác cứ chèo thuyền lêu bêu trên sông. Trước mũi để chừng một chục khóm, sau lái một quày chuối sứ chín vàng. Hai bên hông xuồng là hai bó mía.
Đói thì ghé nhà đồng bào xin môt bữa ăn. Mệt thì cắm xuồng lại nằm bắt chân chữ ngũ, hút thuốc phì phèo dưới một bóng cây, hoặc trời mát thì thả trôi nằm khểnh ra đọc sách, xước mía liền miệng.
U Minh kháng chiến chống Pháp như vậy đấy. Nhưng danh từ «gian khổ » cứ vẫn nhắc đi nhắc lại mãi trên báo chí, trong các buổi họp, học tập chính trị và ở cửa miệng mọi người. Bởi vì ở miền Đông gian khổ thật sự, khổ cực vô cùng, thiếu gạo, thiếu cơm. Ăn thì ăn khoai mì trừ cơm. Ở thì ở trong rừng với chiếc võng bố, không nhà không cửa, sốt rét liên miên, không thuốc uống. Mỗi khi tìm được một viên ký-ninh vàng phải bỏ vào một tô nước quậy ra chia cho nhau uống. Miền Tây phải biết đến, phải học tập gương hy sinh, chịu đựng gian khổ của miền Đông.
Cho nên ngày nay, trước khi đi vào cái miền nổi danh gian khổ dó, tôi muốn biết nó gian khổ đến độ nào, cuộc sống nó ra sao. Nhưng nghĩ, tưởng tượng để tưởng tượng. Tôi không sao hình dung được.
Và theo lời cô Hồng- Thu Hồng chứ – này cho biết tổ chức của cô có hàng chục chiếc xe du lịch để đưa sinh viên học sinh vào khu. Nhiều khi còn đưa không hết, không kịp. Như vậy, theo cái đà cô ta nói, suốt ba năm nay, chỉ riêng tổ chức của cô ta không thôi cũng đã đưa vào khu đến hàng vạn người là ít. Rồi còn các tổ chức khác nữa cùng một nhiệm vụ như tổ chức của cô Hồng. Rồi các tỉnh ở miền trung Nam bộ, các vùng nông thôn của những tỉnh quanh Saigon như Long An,Tây Ninh, Gia Định, Bình Dương, Biên Hòa v.r… Ui dào! Như vậy chiến khu chắc là đông đảo, vui vô kể.
Ngày trước, ít người còn gian khổ đến như thế kia. Bây giờ số lượng người đông đảo gấp bội, cuộc sống, sự sinh hoạt của họ như thế nào? Vấn đề ăn uống, cung cấp là vấn đề sinh tử. Ít ra ngày nay họ phát triễn được một cơ sở cung cấp đầy đủ, thừa thải vững vàng, khác hẳn ngày xưa, mới dám đưa người vào chiến khu theo nhịp độ đó. Nếu không, họ đâu dại gì và nhắm mắt liều lĩnh đưa người vào chiến khu để tự sát tập thể, chịu chết chùm với nhân số khổng lồ như vậy?
Chịu, tôi suy nghĩ, tưởng tượng cho mấy cũng không sao hình dung nổi cái cảnh sống, thực trạng cụ thể của chiến khu. Tôi cũng nghĩ đến có thể ở chiến khu bây giờ nhà cửa phố xá đông nghịt, sinh hoạt thịnh vượng như những thành phố miền Nam, nhưng tôi thấy vô lý. Lý lẽ đó, hình ảnh đó không đứng vững dược. Vì chiến trường du kích, vũ khí đã thô sơ không đủ dùng làm sao người ta có thể bảo vệ được căn cứ trước phi cơ, bom đạn và những cuộc hành quân lớn? Vô lý!
Một ý nghĩ khác chợt đến với tôi. Chà! Có lý nào mấy năm nay tôi sống giữa Sàigòn, dù lo học hành nhưng đâu đến nỗi tôi sống như một người bị lạc ngoài hoang đảo, không còn một người nào khác bên cạnh nên đâm ra lạc hậu tình hình. Có mắt như mù, có tai như điếc?
Nếu có một khối lượng đông đảo như vậy, tất nhiên phải có một cuộc vận động rầm rộ, liên tục, phải có một hệ thống cơ sở hoạt động dày đặc như màng nhện. Và như vậy, ít ra cũng phải một đôi lần tôi được nghe người khác nói chuyện về « kháng chiến chống Mỹ Diệm », nói chuyện về Mặt Trận Giải Phóng chứ! Người ta thường bảo rằng không nơi nào dễ tuyên truyền, gây cơ sở bằng học đường, bằng các giới sinh viên học sinh, giới sống nhiều bằng lý tưởng, ham thích hoạt động, nhạy chống đối, cởi mở tình cảm và nhất là ngây thơ, dễ tin hơn bất cứ giới nào khác.
Đàng này, bạn bè tôi cũng đông, người quen cũng không thiếu, cả số học trò tôi nữa, nhiều lắm nhưng chưa hề tôi được nghe ai nói đến cái danh từ « Mặt Trận Giải Phóng» hay « Cách Mạng », « bọn đế quốc xâm lược Mỹ »
Lạ! Hay tôi ngày nay đã trở thành một loại người kỳ quặc, lạ lùng cho nên ai ai cũng không thèm đem vấn đề này ra nói chuyện tranh luận, nói chuyện với mình? Điều nên rõ là trong giới sinh viên học sinh ngày nay việc tranh luận, bàn cãi chính trị, hội thảo v.v… trở thành một thói quen mất rồi.
Tôi à? Tôi thì tại sao một cuộc vận động rộng rãi, gần như tranh thủ không chừa ai cả lại không ai thèm nói cho tôi nghe?
Một thắc mắc, một nghi ngờ mà tôi không tài nào trả lời được..
Qua mấy ngày Tết, tôi nằm lì ở nhà, chả buồn thăm ai. Các em tôi đều về quê. Tôi phải ở Saigon giữ nhà. Cái chuyện về quê mấy năm trước đây có đứa nào được về? Vì tình hình không yên ổn, vì sợ chuyện không hay xảy ra nên ba má tôi lên Sàigòn thăm Tết cùng ăn Tết ở Sàigòn. Mới 28, 29 Tết là người lo chở gà vịt, bánh trái đến rồi.
Riêng năm nay, tôi nghĩ, gia đình tôi đã có tôi thoát ly theo họ thì các em tôi về chắc sẽ không gặp một sự rắc rối phiền hà nào.
Mồng ba Tết, các em tôi trở về Sàigon. Cùng đi các em, còn có má tôi. Má tôi đến chơi và đưa tiễn tôi lên đường.
Sáng mồng bốn Tết, tôi dậy rất sớm. Đồ đạc cần dùng, tôi cho vào trong cái túi vải cao su có quai mang, loại túi thông dụng trong các cuộc đi chơi xa.
Tôi chờ Hồng đến. Cả nhà tôi cũng đều ngồi quanh tôi chờ đợi, ngóng ra đường mỗi khi có tiếng động cơ xe du lịch nào chạy qua. Trong cái giờ sắp sửa ra đi đó, sao mà trang nghiêm, nặng nề thế không biết nữa. Gần như chẳng ai nói với ai câu nào.
Tự dưng, tôi nhớ đến những ngày tôi còn bé, cắp sách đến trường. Tôi đọc trong sách « Quốc văn giáo khoa thư » bài « Kẻ ở người đi ». Bây giờ, sau gần hai mươi năm, tôi vẫn còn thuộc lòng… « Chiều nay cơm nước xong rồi. Thầy me tôi tiễn tôi xuống bến… Ôi, cảnh biệt ly sao mà buồn vậy?»
Má tôi, hai em tôi, người nào mắt cũng đỏ hoe. Nước mắt long lanh đọng ở rèm mi. Tôi cúi đầu xuống, không dám nhìn, vì tôi không muốn để má tôi và các em biết tôi cũng đang sắp sửa khóc, lòng tôi đang trải qua một cơn xúc động đến nghẹn ngào. Tôi là con trai…
7 giờ trôi qua một cách thản nhiên. Rồi 8 giờ vậy. Hồng vẫn bặt vô âm tín. Tôi thấy khó chịu và cáu thật sự. Trong đời tôi, tôi ghét phải đợi chờ. Nhất là bị đợi chờ, bị người ta cho ăn « thịt thỏ » không giữ lời hứa.
Gần 8 giờ 30. Tôi hầm hầm đứng dậy, bực dọc nói một mình:
– Chó thiệt! Không thèm đi đâu hết!
Giữa lúc tôi định lột giày, cởi áo thì Hồng xuất hiện ở cửa. Cô ta cúi đầu chào má tôi và các em tôi. Quay sang tôi, cô ta nhoẻn miệng cười, cái cười hết sức thoải mái, tự nhiên cố hữu: ·
– Xong rồi hả anh? Mình đi ngay, kẻo trễ đó!
Tôi không cười được mà hét lên vì bực dọc:
– Tại sao cô hẹn tôi đúng 7 giờ sáng, bây giờ cô mới đến? Có biết mấy giờ rồi không?
– Thôi mà anh! Tại sáng nay em bận qua Gia Định có việc nên về trễ. Còn sớm mà! Mình đi anh, để xe đợi lâu không tiện.
Nói xong, Hồng bước ra cửa, đứng chờ. Không biết làm thế nào, tôi đành khoác túi vải cao su lên vai. Tôi lẩm bẩm:
– Thưa má con đi! Anh đi nghe hai đứa l
Má tôi sụt sịt khóc, đứng dậy. Hai em tôi cũng đứng dậy. Tôi năn nỉ má tôi:
– Má đừng buồn nghe má! Con đi, ít lâu yên ổn con lại về. Con không chết đâu! Má đừng đưa tiễn gì… Ra đường mọi người chung quanh thấy má khóc coi chừng họ biết. Không tiện đâu má. Con đi!
Tôi bước ra cửa như trốn chạy.
Hồng đang đứng ở lề đường đưa mắt nhìn xuôi ngược, dáng chừng đang tìm xe. Tôi đến bên Hồng:
– Cô Hồng! Cô đến đây bằng gì? Xe đâu?
Hồng lơ đãng:
– Em đến bắng taxi!
– Nếu vậy xe chờ ở chỗ khác à?
– Dạ! Bây giờ mình đón taxi đến đường Lê Đại Hành đi xe khác!
Một chiếc taxi trờ đến, tôi đưa tay chận lại. Tôi mở cửa băng sau cho Hồng leo lên trước, tôi lên sau và đóng cửa lại. Xe vọt đi. Tiếng đồng hồ tính tiền nhảy tích tắc đều đều.
Tôi nghĩ là cô Hồng này cẩn thận, không dám cho rước tôi tại nhà. Cẩn thận như thế tốt lắm. Tôi liên tưởng đến cái chuyện sai hẹn của cô ta, tôi nghĩ chắc không phải do cô ta mà do trở ngại ngoài ý muốn nào đó, không ngoài mục đích bảo vệ tôi và tổ chức khỏi bị lộ. Nghĩ đến đó lòng tôi thấy dịu lại. Nỗi bực dọc vơi dần.
Bỗng anh tài xế taxi lến tiếng hỏi:
– Dạ, cô cậu đi đâu?
Tôi thấy lúng túng. Anh tài xế ngờ tôi và Hồng là vợ chồng, nếu không cũng là cặp tình nhân đi chơi Tết. Không có liên hệ như vậy thì sao hai người lại ngồi chung ở băng sau? Tôi muốn đính chánh nhưng thấy vô lý và không đáng gì, nên thôi.
Tôi liếc nhìn Hồng. Hồng thản nhiên như không, bảo tài xế:
– Anh cho đến đường Lê Đại Hành. Góc trường đua Phú Thọ, ngã tư Trần Quốc Toản đó.
Xe chưa đến ngã tư Lê Đại Hành – Trần Quốc Toản, Hồng đã ra hiệu cho xe dừng lại ở một quãng trống. Dựa lề bên hông trường đua không có một người nào, cũng không một chiếc xe du lịch nào đậu sẵn.
Trả tiền taxi xong, tôi bước xuống đường hỏi cô ta:
– Xe đậu ở đâu cô?
Hồng hỏi ngược lại tôi:
– Xe gì, anh?
Tôi gắt:
– Xe du lịch mà cô nói, chở cô và tôi đi vào trong ấy chứ còn xe nào nữa!
Hồng cười:
– Không! Mình đi bằng xe đò mà! Em cũng không đưa anh đi. Hôm nay bận, em đưa anh đến đây rồi có một người khác đến đưa anh vào Chợ Lớn, đón xe đò. Anh ấy sẽ đưa anh đi đến nơi.
Hai tai tôi nóng ran. Thì ra cô ta đã nói láo. Nói láo một cách trơn tru, vui vẻ, thản nhiên như tôi là một đứa trẻ con. Tôi giận run lên. Tôi thấy thù và ghét cô ta kinh khủng:
– À! Vậy mà cô bảo với tôi, cô cùng một cô nữa lái xe du lịch đưa tôi vào trong ấy. Mới khi nãy đây, lúc còn ở nhà tôi, cô hối đi nhanh lên để xe đợi lâu. Trước lúc lên taxi, cô cũng bảo đến đây có xe khác. Bây giờ rõ ra, chẳng có xe cộ gì hết. Lạ thực! Cô dám nói láo với tôi một cách trắng trợn. Không ngượng miệng thế này… Tôi phục cô lắm đó cô Hồng! Những người ở chung với cô có nói cái kiểu như cô không?
Hồng lại cười, như trêu tức tôi. Cô ta liếc xéo tôi:
– Anh sao khó quá hè!! Kìa, anh! Anh ấy đến đó.
Theo tay Hồng chỉ, một thanh niên đứng tuổi mặc sơ mi trắng bỏ ngoài, vận quần tây xám, mang dép cao su cởi xe đạp từ bên kia đường băng sang. Nét phong trần, đen xạm trên mặt anh ta gây cho tôi chú ý. Có lẽ ít ra, anh ta cũng ngoài ba mươi lăm rồi.
Anh ta vừa xuống xe, Hồng đã vội vã giới thiệu:
– Giới thiệu với anh, đây là anh Hùng. Và đây là anh Út. Anh Út sẽ đưa anh đi đến nơi. Bây giờ tôi về. Chào anh!
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì cô ta đã giằng chiếc xe đạp trên tay anh Út phóng đi ngay.
Anh Út có vẻ ngượng nghịu bắt tay tôi:
– Tui là Út. Tôi… có nghe và được giới thiệu về anh. Hình như cô Hồng đã làm điều gì anh khó chịu?
– Cô ấy nói láo với tôi nhiều quá.
– Nói gì vậy anh?
– Thôi anh! – Tôi nói.- Bây giờ lo đi cái đã.
Út ra đường vẫy tay đón một chiếc taxi. Chúng tôi leo lên và bảo chạy thẳng vào bến xe đò Chợ Lớn.
Khi xuống xe, Út bảo nhỏ tôi:
– Anh có thấy chiếc xe đò sơn màu vàng, bên hông đề hàng chữ «Chợ Lớn- Đức Hòa – Bàu Trai » đó không? Mình đi xe đó đấy! Khi lên xe, tui sẽ ngồi ở hàng băng trước. Anh ngồi sau tui hai băng nghe! Chừng nào tui xuống xe, anh cứ xuống theo. Mình làm như không quen biết gì hết. Phải cẩn thận để ý mới được. Anh nhớ mua vé đi Bàu Trai.
Theo lời Út dặn, sau khi nói xong, tôi và Út như hai người không quen biết. Tôi đi mua một gói thuốc lá. Út lên xe ngay, ngồi ở băng thứ hai. Tui tiến lại, bước lên băng thứ năm.
Xe hãy còn trống, lưa thưa vài người khách. Để túi cao su đựng hành lý xuống sàn xe ngay chỗ ngồi, tôi móc thuốc lá ra hút, quan sát chung quanh.
Chẳng có gì lạ cả, quang cảnh bến xe đò nào cũng có những nét giống nhau. Cũng ồn ào náo nhiệt, cũng đủ mọi thứ tiếng động, tiếng xe nổ máy rì rầm, tiếng rao hàng, bán kem, bánh mì, báo chí v.v… Cũng quang cảnh rước khách, xe đậu hàng dãy, người tấp nập ở bến.
Tôi bắt đầu băn khoăn. Không biết trên đường đi có chuyện gì xảy ra đây? Trước, tôi cử tưởng mình đi xe nhà, xe du lịch với Hồng đi theo con đường quốc lộ số 4, rẽ qua Thủ Thừa Mộc Hóa, tỉnh lỵ của tỉnh Kiến Tường, giữa lòng Đồng Tháp. Trên các lộ giao thông, dẫy đầy những đồn bót, những trạm kiểm soát dân sự và quân sự. Trong thời chiến tranh, sự kiểm soát rất cần thiết để ngăn chận những hoạt động của đối phương.
Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng những câu trả lời hợp lý, hợp tình nhất, mỗi khi có lính hỏi. Nhưng thực tế không giống như lời người ta báo trước với tôi. Người ta chỉ nghĩ đến chuyện thổi phồng sự việc, tạo nên những phương tiện di chuyển đầy đủ nhất, hách nhất để quan trọng hóa, để động viên tinh thần, gây thêm tin tưởng vào sự lớn mạnh của Cách mạng, gây phấn khởi cho người được tuyên truyền như tôi.
Họ chỉ quan tâm đến kết quả nhất thời, coi thường hậu quả của sự dối trá, của thủ đoạn, của những phương thức có tính cách tiểu xảo, lòe người..
Bây giờ trên đường đi, nếu các trạm kiểm soát họ xét giấy tờ tôi, hỏi tôi đi đâu? Làm gì? trong khi tôi không phải là người sinh quán ở Long An, Đức Hòa, Đức Huệ, cũng không quen một ai, không biết cả tên một xã, một con đường nào ở các địa phương này. Nhất là một sinh viên đang trong thời gian sửa soạn thi cử, bỏ trường đi phất phơ. Tôi sẽ trả lời sao cho xuôi đây? Phải chi bảo thẳng cho tôi biết trước, dặn dò về đường đi nước bước, đâu đến nỗi phải âu lo phiền phức thế này?
Xe đã chật người và bắt đầu chuyển bánh.
Ra khỏi Phú Lâm, Bà Quẹo, hai bên đường toàn đồng ruộng hoang vu, chạy dài xa tít như tận cuối chân trời xa. Con đường này, lần đầu tiên tôi đi nên mọi cảnh đều lạ.
Nắng càng ngày càng lên cao. Kim đồng hồ chỉ mười một giờ. Tuy gió lùa qua cửa xe rào rào, cái nắng hanh ngoài trời vẫn còn làm cho hành khách đổ mồ hôi, bực bội, ướt cả áo lót bên trong.
Người ta thường bảo mùa xuân mát mẻ, cây cối đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa đua nở, thực là mùa lý tưởng nhất trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhưng ở miền Nam này chỉ có hai mùa mưa nắng. Mùa mưa thì mưa như trút nước, trên trời bao giờ cũng đầy mây. Mưa đó, tạnh đó. Đang nắng đó bỗng mưa đó. Mưa dầm suốt cả mấy ngày liền. Về mùa nắng, cái nắng nóng như thiêu, ngột ngạt khó thở chẳng khác cái nắng mùa hạ có gió lào thổi mạnh trên đất Bắc.
Tôi tựa tay lên thành xe, nhìn ra cảnh đồng khô rung rinh, chập chờn sao nắng giữa ban trưa.