Chương VI CHIẾN KHU D! CHIẾN KHU D!
Hai hôm sau, giữa lúc tôi đang ngồi học đánh bài «tu lơ khơ» với mấy anh em cảnh vệ ở bộ ván giữa nhà, Ba Dũng không biết đi đâu về cùng hai cán bộ lạ. Người nào cũng mang súng lục lủng lẳng bên hông. Quần áo là loại quân phục may bằng vải xám ngắt như màu đất, rộng thùng thình.
Cổ áo lại cao, cài nút cẩn thận. Hình ảnh đó làm tôi nhớ đến mấy bức hình mà tôi được xem trước đây về những người lính Hồng quân của đảng Cộng sản Trung Hoa.
Ba Dũng nhìn tôi cười:
– Ông học đánh «tu lơ khơ» à? Sao, sạch nước cản chưa?
Tôi cũng cười, ngượng ngập:
– Dạ, mới biết sơ sơ…
– Có khách đến thăm ông nè!
Tôi lúng túng tuột xuống đất. Ba Dũng giới thiệu:
– Đây là anh Hùng. Còn tay này là Năm Râu. Bị râu rậm quá nên lâu ngày thành danh Năm Râu, hổng ai còn nhớ tới tên cúng cơm của ổng nữa. Và đây, anh Năm Bàng y sĩ trên Rờ (R) xuống liên hệ công tác với tụi tôi đó.
Tôi đã quen cái cách, cái công thức chung của «người ta» từ lâu rồi. Nên tôi hiểu «khách đến thăm» của Ba Dũng nói, nó không có ý nghĩa của tình cảm, xã giao mà là biểu hiện của công việc, của một thái độ chính trị không có lấy một chút tình, dù là tình người.
Tôi đã hiểu đúng. Sau một hồi thăm hỏi xã giao thường lệ, nhâm nhi vài ngụm trà bốc khói, Năm Râu để lộ chân tướng mình là anh ta và Năm Bàng thuộc Ban chỉ huy của một đoàn Tiếp nhận tân binh cho đơn vị U.50 – U.50 là một trong những cơ quan trực thuộc Rờ (R). Anh ta đến thăm tôi và cũng để «nhận» tôi đưa về U.50 sau khi được nghiên cứu lý lịch tôi và có sự đề nghị của Đảng bộ Phòng Tuyển Mộ I4.
Năm Râu giải thích cho tôi rõ, danh từ R là ám hiệu, mã tự của Bộ chỉ huy tối cao các lực lượng võ trang, ban võ trang của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Nói cách khác gọn hơn, R là Bộ Tư lệnh tối cao Giải Phóng quân Miền Nam.
U.50 cũng là một cái tên nghi trang, tôi sẽ được rõ hơn nếu tôi ưng thuận về công tác ở cơ quan này. Và y sĩ Năm Bàng sẽ khám sức khỏe chung cho tôi ngay bây giờ, như Quốc Gia khám lính quân dịch đúng theo thủ tục quân đội. Tôi suy nghĩ một lúc trả lời cho Năm Râu biết:
– Xin anh cho tôi trả lời sau. Nhưng tôi còn băn khoăn điều này. Khi B39 rước tôi ra khỏi Sàigòn, anh Bảy Tân có nói với tôi, nếu tôi muốn, khi đến đây, tôi sẽ được giới thiệu về Ban Tiếp Tân của Mặt Trận. Mặt Trận sẽ xử dụng hợp khả năng tôi. Khả năng tôi không phải là khả năng quân sự, e rằng…
Không chờ tôi nói hết câu, Ba Dũng cười, ngắt ngang câu nói của tôi:
– Có, có anh! Phòng Tuyển Mộ của tôi có điện về Trên báo cáo trường hợp anh. Ở Trên điện trả lời cho biết là công tác nơi nào cũng vậy. Công tác của Mặt Trận hay công tác quân đội đều là công tác cách mạng. công tác của Đảng. Hiện giờ quân đội đang cần người hơn nên ở Trên yêu cầu anh phục vụ bên phía quân đội. Nếu sau này anh thấy không hợp thì anh đề nghị. Mặt Trặn sẽ rút anh về. Anh nhứt trí chớ?
Năm Râu tiếp theo Ba Dũng:
– Tôi xin nói để anh rõ, đâu phải hễ là quân đội thì ai cũng đi chiến đấu, đánh giặc hết đâu! Ngay như U.50 cững không phải đơn vị chiến đấu. Anh hiểu lầm rồi. Quân đội cũng cần trí thức. Quân đội có biết bao nhiêu công tác quan trọng như nghiên cứu, công tác chính trị v.v… thiếu gì các ngành như quân y, quân nhu, điện ảnh, văn nglệ, báo chí… Tôi thiết nghĩ, thiếu gì chỗ hợp với khả năng anh, mặc sức anh tung hoành thi thố tài ba. Dù sao, chúng tôi cũng sẽ báo cáo về R trường hợp của anh. Anh đồng ý chứ?
Không phải đợi Năm Râu nói tôi mới biết những ngành chuvên môn trong quân đội. Vấn đề đâu phải ở đó. Cái chính là tôi không thích quân đội. Tôi ghét chuyện bắn giết nhau.
Và nhất là tôi không thích bị gò bó vào cái người ta gọi là kỷ luật sắt của quân đội. Tôi vốn con người phóng khoáng, nhiều nghệ sĩ tính, gần như buông thả với chính mình. Quen rồi.
Lâu rồi. Nếp sống quen thuộc của tôi là vậy. Tôi hiểu tôi, tôi biết tôi cần gì, muốn gì, có thể làm được những gi khi đặt tôi vào một hoàn cảnh nào đó. Tôi cũng hiểu thật rõ đời sống và sinh hoạt về nội quy, kỷ luật của quân đội ra sao. Chính vì vậy, tôi cố tìm cách từ chối, ngần ngừ…
Nhưng giờ thì rõ ràng rồi đấy. Người ta cho biết quân đội đang cần người, người ta chỉ bằng lòng cho tôi phục vụ bên phía quân đội mà thôi. Tôi có kêu nài, xin xỏ cũng bằng thừa, vô ích!
Ba Dũng nhắc tôi lần nữa:
– Thế nào, anh Hùng? Đồng ý chớ?
Tôi thở dài và gật đầu.
Năm Bàng nãy giờ lặng thinh uống trà chờ phản ứng của tôi. Bây giờ anh ta cũng vui vẻ, thoải mái:
– Vậy là tốt quá! Tôi khám sức khỏe ngay, anh nhé? Nhé?
Tôi lại gật đầu.
Thế là từ giờ phút đó, tôi đã trở thành một chiến sĩ giải phóng quân thuộc quân số đơn vị U.50 của Bộ chỉ huy tối cao R. Người ta cấp phát ngay cho tôi một số trang bị cần thiết như bình ton, ca, muỗng, mùng, võng, tấm đắp, hai bộ quân phục vải ta đen, thắt lưng, dép râu, khăn tắm, nylon choàng, nylon nóc, bồng v.v… tất cả là mười sáu món.
Tôi liệng cái tủi vải cao su, cho đồ đạc đựng vào cái bồng mới, có quai mang như ba lô. Năm Râu cho tôi biết về nguyên tắc như vậy là xong. Tôi không còn dính líu gì đến Phòng Tuyển Mộ Tân Binh I4 nữa. Tôi phải vác đồ đạc theo Năm Râu đến một nhà đồng bào ở gần đấy sống với đoàn tiếp đón tân binh của U.50, chuẩn bị về U.50 vào mấy ngày sau.
Trước khi đi khỏi nhà Ba Dũng, tôi hỏi Dũng về cái radio và cây đàn vĩ cầm của tôi như thế nào? Ba Dũng nhăn mặt:
– Chà! Chuyện đó tôi không biết gì hết! Như vậy chắc không ổn rồi! Để tôi viết thư hỏi lại dùm anh xem sao… chớ chẳng hy vọng gì đâu! Thôi, nó không đến tay anh thì đến tay người khác. Ở đâu cũng đều xử dụng cho cách mạng. Cũng tốt! Đồng ý chớ anh?
Dĩ nhiên, tôi không thể nào đồng ý nổi. Nhưng không đồng ý thì làm gì bây giờ? Suy cho cùng cũng tại tôi ngây thơ, quá tin người, có làm gì chỉ xấu hổ thêm.
Từ ngày vào chiến khu, để thống nhất giờ giấc với mọi người quanh mình tôi phải vặn đồng hồ lui lại một giờ. Giờ đó người ta không gọi là giờ Hà-nội mà gọi là giờ Đông Dương. Cho đến một vài danh từ, vài cách nói, rồi những thói quen tôi cũng phải soát lại cẩn thận trước khi nói, trước khi làm. Thực khổ cho tôi nhưng biết làm sao hơn?
Có lẽ thông cảm được nỗi khổ sở đó, một buổi tôi, sau mấy ngày về ở chung nhà với Năm Râu, ngồi nhâm nhi trà Blao, anh ta nói nhỏ với tôi:
– Tôi coi bộ ông giữ gìn kỹ quá. Tội gì khổ vậy ông? Con người sống phải tự nhiên, thoải mái nó mới khoái chớ? Anh em đồng chí với nhau không mà.
Tôi chỉ cười tỏ vẻ phục thiện. Nhưng Năm Râu đâu phải là tôi. Vị trí đứng của anh ta, cương vị của anh ta, thuận lợi của anh ta v.v… những gì anh ta có, tôi không có một chút nào. Ở cương vị của một cán bộ chỉ huy, cương vị của Đảng, những người quanh anh ta nhìn anh ta với cặp mắt khác: kính nể, phục tùng. Ngay cả nếp sống thường ngày của anh ta là một nếp sống quen thuộc, từ cách nói, cách suy nghĩ, nhận xét phán đoán về một vấn đề gì, cách dùng danh từ để diễn đạt, nó đã được tinh luyện, nhồi nắn trong một cái khuôn đồng nhất với những công thức riêng, khác biệt với cái xã hội thông thường. Lâu ngày, nó đã hằn thành những nếp gấp, những thói quen, nhập vào cử chỉ, vào hơi thở của anh ta.
Còn tôi, tôi chỉ là một tân binh. Tôi còn thua cả một chiến sĩ quèn, đội viên quèn, thứ binh nhì «đơ dèm cùi bắp». Huống hồ tôi là sản phẩm của một chế độ xã hội trái ngược với chế độ xã hội của anh ta…
Đoàn Tiếp Nhận tân binh U.50 do Năm Râu làm Đoàn trưởng, ngoài ra còn có một Đoàn phó kiêm chính trị viên và Năm Bàng, y sĩ, cũng thuộc cán bộ chỉ huy. Phía dưới, là một tiểu đội võ trang.
Cái kẹt của tôi khi Năm Râu đưa tôi về đây là Năm Râu không xác định cho tôi một cương vị rõ rệt đối với đoàn. Đã đành, tôi không thể nào thuộc thành phần cán bộ, hàng ngày sinh hoạt với tổ cán bộ ba người này, mà với tiểu đội võ trang tôi cũng không thuộc vào tiểu đội đó, ghép vào sinh hoạt với họ, chịu sự phân công của họ đúng theo vị trí một tân binh, một tên lính mới như tôi.
Tình trạng đó đặt tôi vào loại lính không ra lính, quan chẳng ra quan, trên với không tới, dưới chẳng sờ đụng ai, chơi với đám nào cũng không được.
Mỗi sáng, tổ cán bộ kéo nhau ra ngoài sân xì xầm to nhỏ, họp với nhau. Tôi ngồi chong ngóc trong nhà, ngáp vặt Mỗi chiều, sau khi ăn cơm xong, tiểu đội lính chia thành từng tổ tam tam kiểm thảo ở góc nhà, ở ngoài sân, ở xó bếp thì tôi phải thả rong ra lộ, ngước mắt nhìn trời, liệu chừng khi nào thiên hạ họp xong tôi mới thất thểu đi vô. Dĩ nhiên trong những lần họp như vậy, người ta có nhận xét, có phê bình tôi, có nói gì đến tôi, không tài nào tôi biết được, cũng không thể thanh minh, thông cảm được với ai.
Nỗi khổ sở của tôi là vậy. Năm Râu có nói gì đi nữa, khuyên gì đi nữa tôi không sao không giữ gìn, sống một cách tự nhiên như mọi người được. Đối với tiểu đội võ trang, tôi trở thành một cái đích nhắm để suy bì, để công kích. Vì là lính, tại sao tôi không sinh hoạt như họ, không chịu sự phân công của tiểu đội như mọi chiến sĩ khác trong việc trực nhật nấu cơm hàng ngày, phải tập thể dục chung mỗi sáng, phải đi làm công tác lao động kiếm củi, xách nước, phải cầm súng đứng gác mỗi đêm… Tôi đâu phải là cán bộ, đâu được quyền «ngồi chơi xơi nước».
Với tổ cán bộ, dù người ta có viện cớ «chính sách chiếu cố trí thức», viện cớ «cán bộ cũ» trên lý lẽ nhưng tình cảm của họ không thể nào ưng thuận cho tôi được hưởng tiêu chuẩn cán bộ như họ được. Vì trong tổ cán bộ này, họ đều là nhũng người được tập kết ra Bắc 1954 rồi trở về Nam, họ đã đóng góp nhiều công sức cho chế độ, được học tập trường Đảng này, trường chính quy nọ, hơn thế nữa, họ là những đảng viên lâu năm, cấp bậc Đảng ít nhất cũng phải chi, ủy viên, họ lý luận giỏi, lập trường Cách mạng vững, lập trường giai cấp sắt đá, trung thành v.v… Hàng ngàn thứ.
Huống hồ, tôi là một anh chàng mang trong đầu thứ «trí thức phản động» do «đế quốc» nhồi sọ «dạy» cho. Thành phần lại là «tiểu tư sản trí thức, tư tưởng, lập trường lưng chừng, dốt nát về chính trị v.v…».
Tôi hiểu như vậy, hiểu rất rõ làm sao tôi không giữ gìn? Nhất cử, nhất động của tôi đều bị người ta giám sát, theo dõi kia mà!.
Thấy không khí có vẻ thuận tiện, ngồi uống trà chỉ có tôi với Năm Râu, xung quanh không có ai, tôi thực thà trình bày hoàn cảnh đặc biệt của mình để anh ta hiểu rõ tôi hơn. Năm Râu cười, phủ nhận:
– Cái đó không thành vấn đề đâu! Tại anh có mặc cảm nên nghĩ vậy, chứ tôi biết anh em không có những cái như anh vừa nói. Anh em ở đây có cảm tình với anh lắm.
Tôi thừa rõ đó chỉ là câu nói… xã giao, không thực.
Tuy vậy, tôi cũng làm ra vẻ thực thà, biết đâu nhân đó tôi sẽ tìm được điều tôi muốn biết. Nghï vậy, tôi nói với Năm Râu:
– Có lẽ điều anh nói đúng đó anh Năm. Tôi sẽ cố gắng sửa chữa, nhưng anh phải giúp đỡ mới được.
– Giúp cái gì?
– Anh giúp nhận xét dùm tôi. Trong mấy ngày đến đây sống chung với mấy anh, anh thấy tôi có những khuyết điểm gì, anh em phê phán tôi ra sao anh làm ơn cho tôi biết. Tôi không tự ái đâu! Chẳng những vậy, tôi còn ao ước, thành khẩn được nghe những lời phê phán. Có như thế mới tiến bộ được, chứ anh!
Năm Râu nhìn tôi một lúc như để đánh giá lời tôi nói.
Sau cùng, anh ta ngập ngừng:
– Tôi… tôi biết nói gì bây giờ? Anh có khuyết điểm gì đâu… Tôi thì tôi không thấy gì, nhưng qua sự «phản ảnh» của các đồng chí trong đoàn, anh em họ «giới thiệu» với tôi mấy sự việc xin đề nghị anh «nghiên cứu» thử xem. Đó là ý kiến của anh em chứ không phải ý kiến của tôi, anh hiểu cho.
– Xin anh cứ nói!
– Một là, họ bảo anh tác phong tiểu tư sản, thiếu quan điểm quần chúng, ít xáp, ít chịu hòa mình với tập thể, cởi mở tâm tình với anh em. Hai là, anh ít… lao động. Ba là, ngày hôm qua nhân lúc anh em hỏi chuyện về gia đình, anh nói lúc còn ở Sàigòn, ngoài việc đi học, anh làm thêm nghề gõ đầu trẻ. Anh em đề nghị anh không nên dùng chữ «gõ đầu trẻ». Ba chữ đó nó biểu hiện bản chất phi giai cấp, phi cách mạng, khinh kẻ ít học, nặng đầu óc đế quốc phong kiến! Quan niệm đứng đắn là thày và trò học lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau, bình đẳng về chính trị, vậy thì tại sao lại gọi là nghề «gõ đầu» dù là trẻ cũng vậy.
Đã chuẩn bị sẵn, đã bảo là không tự ái nhưng những lời Năm Râu vừa nói làm tôi choáng váng đến ngây người ra. Năm Râu vừa nói vừa nhìn xuống, xoay xoay chung trà đậm nèn chưa phát giác được phản ứng trên mặt tôi. Giọng anh ta vẫn đều đều, thì thầm như tâm sự:
– Anh cũng nên thông cảm cho, anh em họ xuất thân thành phần bần cố nông, thành phần cơ bản nồng cốt của cách mạng nhưng thành phần đó cũng có cái nhược điểm là dễ thành kiến hẹp hòi, tự ái giai cấp rất cao. Họ nhạy phản ứng lắm. Như chuyện anh nói «Radio» ở Sàigon rẻ lắm, họ cũng phản ảnh với tôi, thắc mắc sao anh không gọi đó là cái đài. Các cán bộ mùa thu từ Hà nội về Nam ai cũng gọi đó là cái đài, nó trở thành danh từ thông dụng. Như anh nói cái túi vải cao su là cái «xắc», cái dây kéo là «phẹc mơ tuya », cái ống nghe của anh Năm Bàng là cái «S-tê-tò » và vài ví dụ cùng loại khác nữa. Họ bảo anh sao hay nói tiếng Tây quá, như vậy là vong bản, nô lệ tính. Nhưng cái điều họ đề nghị anh nên sửa chữa cấp thời là không nên dùng chữ «Ba Tầu», chữ «Chệt Chợlớn» mà nên gọi là Trung Quốc, là «Hoa Kiều Chợlớn». Vì anh gọi như vậy tỏ vẻ xấc xược với nước bạn Trung quốc vĩ đại, mất tình đoàn kết với các uước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa…!
Năm Râu còn nói nhiều, nhưng lúc đó tai tôi như ù lên, không còn nghe thêm được gì nữa. Tôi không biết phản ứng của mình đúng hay sai, nhưng trong nhất thời tôi không thể nào chấp nhận nổi những nhận xét phê bình kia. Tôi cho đó là một thậm vô lý, quái gở là đằng khác.
Bọn gian thương Chợ Lớn tôi kinh nể nó sao được? Nó là bạn vĩ đại của tôi sao? Theo cái đà đó, thịt heo kho Tàu, gà Tàu cũng phải kiêng cử, đổi lại là «thịt heo kho Trung Quốc» «gà Trung Quốc» sao? Quá quắt, quái gở không chịu được!
Rồi cái radio phải gọi cái đài, không được gọi radio, vô lý hết sức! Nếu bảo tôi phải gọi là máy thu thanh để không phải nói tiếng Tây, điều đó khả dĩ nghe được. Nhưng radio nó trở thành thông dụng, bị Việt hoá đi rồi, chẳng khác nào cái tách (tasse), cái bu-gi (bougie), cái bù-lon (boulon), xì-gà (cigare), ô-tô (auto) v.v…Cho đến cái xắc (sac), cái phẹc-mơ-tuya (fermeture) bảo tôi là hay nói tiếng Tây, vong bản, nô lệ tính.
Ức không chịu được! Nổ đom đóm mắt là đằng khác. Tôi muốn la lên, nhưng kịp nghĩ đến thân phận và hoàn cảnh mình lúc ấy không khác con cá đã nằm giữa ruộng khô thì có trườn, có dãy dụa, có làm gi đi nữa chỉ tróc vẫy trầy mình. Mau chết hơn thôi. Vô ích! Chế độ này, thằng nào ngu nhất, rách nhất sẽ được làm cha thiên hạ.
Tôi chỉ còn biết thở dài, cúi mặt xuống cho giọt nước mắt không còn đọng ở vành mi.
Nói xong, Năm Râu ngẩng đầu lên hỏi tôi:
– Anh thấy những lời phản ảnh, đề nghị của anh em đó thế nao? Anh không buồn và thắc mắc gì chứ?
Chợt thấy thái độ «hơi lạ» của tôi, Năm Râu hỏi ngay:
– Anh sao vậy?
Tôi đang lấy khăn tay chùi nước mắt, vội dụi thêm mấy cái, cố lấy giọng hết sức tự nhiên nói lấp đi:
– Có con bù hóng hay con gì chui vô mắt tôi. Anh Năm! Anh thổi đùm tôi đi, anh Năm.
Tôi đưa mặt tôi sát mặt Năm Râu chờ đợi. Anh ta tưởng thật, vạch lấy mi mắt tôi ra, thổi phù phù mấy cái:
– Sao? Còn xót hết?
– Ừ, hình như ra rồi.
– Nếu chưa, để tôi múc cho anh tô nước đầy, thọc mắt vô nháy nháy mấy cái hết ngay.
Nhờ chuyện thổi mắt, vấn đề được chuyển hướng sang hướng khác và tôi khỏi phải trả lời câu hỏi của anh ta.
Dường như quên chuyện vừa nói, anh ta chợt thốt lên
– Ơ, anh! Tôi quên chưa đưa tiền anh!
Tôi hỏi lại:
– Tiền gì vậy?
– Tiền phụ cấp tiêu vặt tháng hai của anh!
Năm Râu cho tay vào túi quần móc ra đưa tôi hai mươi lăm đồng. Anh ta giải thích:
– Tiền này là tiền tiêu vặt, sinh hoạt phí hàng tháng. Mỗi người, hàng tháng ngoài tiền gạo, tiền ăn, tiền thuốc men, tiền quần áo v.v… Đảng còn trợ cấp cho mỗi người hai mươi lăm đồng để tiêu vặt. Các khoản tiền kia do quản lý đơn vị giữ. Tiền này đối với anh chẳng nhằm gì nhưng hiện giờ, trong khi Đảng còn nghèo, đấu tranh gian khổ với kẻ thù thì việc cung cấp hết cho mọi người như vậy là một cố gắng, một chi phí lớn lao.
Tôi ngượng nghịu lấy tiền cho vào túi. Năm Râu cười hỏi tôi:
– Anh có biết tôi năm nay bao nhiêu rồi không?
– Bao nhiêu gì?
– Tuổi chớ còn gì nữa! Anh đoán chừng bao nhiêu?
– Khó quá! Cỡ bốn mươi. Đúng không anh Năm?
Anh ta cười to lên:
– Anh đoán kiểu đó chết tôi rồi! Vậy làm sao còn kiếm vợ được? Người ta mới có ba mươi đó cha nội! Sanh 1934. Tại anh thấy râu rậm, bó hàm anh tưởng tôi già. Tôi mà già là già râu thôi. Tôi đọc lý lịch anh, anh cùng một tuổi với tôi đó. Mà anh thì còn «măng» quá! Coi như mới hăm lăm!
Tôi cũng ngạc nhiên:
– Vậy mà mấy hôm nay tôi tưởng anh ít ra cũng là bốn mươi.
– Ừ, ai cũng nói vậy. Anh coi, vừa phong trần gian khổ suốt từ nhỏ tới lớn, giờ thêm bộ râu rậm như chổi chà, làm biếng cạo người ta không nói tôi già sao được. Mấy cô hăm bốn hăm lăm còn kêu tôi bằng bác thì anh biết! Còn trông mong cơm cháo gì nữa! Ác thiệt l
– Anh chưa có gia đinh sao?
– Chưa! Anh coi, bôn Nam tẩu Bắc, chân đi không ngừng làm sao còn có thì giờ để tìm hiểu với ai. Lúc còn ở Bắc thì nhất định chờ về Nam mới lấy vợ. Về Nam năm ngoái, năm nay nhận nhiệm vụ ở U.50, tuốt trên rừng Đông Bắc chiến khu D. Kiếm đỏ con mắt cũng không ra chư vị nữ nào. Nữ hiếm như vàng. Còn đi công tác xuống đồng bằng như vầy, cứ đi đi về về như thăm bẫy, làm sao? Đó, tôi mới trên rừng xuống đây bữa trước thì bữa sau gặp anh. Rồi mai này, tôi lại phải đưa anh trở về trên ấy theo lệnh của đảng ủy U.50.
– Ủa? Sáng mai nay tôi về U.5O với anh?
– Ừ! Tôi với anh và hai cậu cảnh vệ nữa!
– Sao anh không cho tôi hay sớm để tôi chuẩn bị?
– Có gì phải chuẩn bị? Bộ đội mà! Hô đi là đi ngay, chuẩn bị nhiều lắm là mười phút.
– Đường đi có xa không, lâu không?
Năm Râu ngần ngừ một lúc:
– Mình ở khu A mà! Đi lâu thì… bảy tám bữa. Sớm thì bốn năm bữa. Qua ba con lộ tới sông Bé thì coi như về gần tới nhà rồi.
Thấy tôi tò mò muốn biết, Năm Râu cho biết thêm vắn tắt U.50 là một bộ phận của Cục Hậu Cần R, quản lý khu A. Cục Hậu Cần là một trong ba Cục của Bộ chỉ huy R Cục Tham Mưu, Cục Chính Trị, Cục Hậu Cầu. Về khu A, anh ta cho biết đó là khu D cũ. Ngày nay ngôn từ chiến khu D không còn dùng đến nữa. Chiến khu, rừng núi miền Đông ngày nay được R phân định thành những khu A, khu B, khu C, khu E, khu H v.v… Tôi muốn biết rõ hơn thì khi về khu A, công tác ở U.5O ít lâu, tự khắc tôi sẽ biết rõ.
Mới 5g30 sáng, giờ Đông Dương, tôi đã thức dậy, súc miệng, ra sân cử động vài động tác thể thao. Phía đông, chân trời ửng hồng đẹp mắt với những đám mây viền ngang như những ngày tôi thức sớm, bất kỳ ở nơi nào trên đất nước này.
Không khí buổi sáng sớm, đồng quê thực trong lành mát mẻ, yên tĩnh khác thường. Những chiếc pháo dù cuối cùng ở đồn Trung Hòa bắn muộn vào rừng cao su bên kia suối từ Phú Hòa chạy dài đến tận Hố Bò, lơ lửng trên không, le lói màu thiếc mới, chóa mắt. Nếu không có những cái đó thì tôi ngỡ mình đang sống trong cảnh thanh bình, quên mất cuộc chiến tranh chết chóc tàn bạo này.
Mấy đồng chí của tôi trong đoàn cũng đều thức giấc. Tôi quay vào nhà, thu xếp đồ đạc cho vào bồng cột lại. Đồng chí cảnh vệ trực nhật lấy son cơm gạo đỏ, dĩa dưa leo xắt mỏng và chén nước mắm mỡ đem bày trước hàng hiên. Bữa ăn sáng thường ngày của chúng tôi như thế đó.
Năm Râu đã chuẩn bị đồ đạc xong xuôi, vừa bước ra sân, vừa cài sợi thắt lưng lủng lẳng những súng đạn và vật dụng quen thuộc. Anh ta hỏi tôi:
– Ông chuẩn bị đồ đạc xong rồi chớ?
– Xong rồi! – Tôi trả lời.
– Hôm nay lên đường về khu A, chỉ có ông, tôi và hai đồng chí bảo vệ nữa thôi! Mình đi tự lực. không theo đường dây. Họ dẫn đường vòng xa lắm.
Đột nhiên Năm Râu nheo mắt, hấp háy hạ giọng xuống thì thầm vào tai tôi:
– Ngân quỹ của ông còn khá chớ?
Tôi nhìn anh ta một thoáng để đoán hiểu ý định thực sự của anh ta qua câu nói đó. Dường như biết cái nhìn của tôi, anh ta nhe răng cười:
– Nếu anh còn khá thì mình ra lộ số 7, ghé quán hủ tiếu đớp một bụng la-ve, cà phê cà pháo rồi đi luôn cho nó sướng cái bụng. Tội cha gì cứ nước mắm mỡ với dưa leo.
Biết anh ta nói thật, tôi cũng hiểu cái khoái thường ngày của anh ta vốn đồng điệu với dạ dày tôi. Tôi gật đầu cười mỉm. Mắt anh ta sáng lên, mừng rỡ:
-Vậy thì đừng ăn cơm nhà! Ông còn bao nhiêu tiền cố gắng xài cho hết trên đường đi từ đây đến lộ 16 đi. Ông có để đành, mang tiền vô rừng cũng vô ích, tổ cho nó đóng mốc, đóng meo chớ có gì đâu mà mua.
Tôi lại cười, gật đầu lần nữa. Anh ta nói đúng. Và dọc đường anh ta cũng được hưởng chung, cái đó còn đúng hơn nữa. Tôi tính nhẩm sơ qua… trong túi cũng còn hơn năm ngàn bạc. Ít ra cũng đủ vung phí dọc dường.
Chúng tôi bốn người, mang bồng lên vai. Ruột tượng gạo mười ngày ăn choàng qua cổ. Chúng tôi nhắm hướng lộ số 7 xuất quân, vừa đi nói chuyện bàn về những thực đơn khoái khẩu.
Theo chương trình dự định, sau khi ăn xong thì chúng tôi sẽ xuôi lộ số 7 băng qua rừng cao su xuống Hố Bò, rồi ra bến Bò Cạp sang sông Sàigòn, đổ bộ lên Bưng Còng đi về Đường Long. Chiều tối thì đến Long Nguyên. Nghỉ một đêm, ngày sau sẽ qua lộ 13 đến Phú Giáo. Ngày sau nữa sẽ qua lộ 16 đến Nước Trong. Rồi từ Nước Trong vượt qua sông Bé về đồi Tam Điệp. Kế đó sẽ qua sông Rạc, suối Bé, bàu Chân Ra, Bàu Đồng Triêng. Ngày cuối cùng, Bàu Đồng Triêng đi thẳng một mạch qua lộ Ủi, vượt Mã Đà cầu dây, chiều lại tới Phòng Thường Trực U.50.
Vị chi mất sáu ngày đường thì đến đơn vị. Quãng đường găng nhất là lộ 13 và lộ 16. Qua được hai lộ đó, xem như «thắng lợi hoàn toàn». Tuy hôm nay, ngày đầu sang sông Sàigòn, đổ bộ lên ấp chiến lược Bưng Còng và qua con lộ 23 tức lộ từ Bình Dương đi Bến Súc Dầu Tiếng, chỗ qua lộ chỉ cách đồn Bến Súc chừng năm cây số nhưng nguy hiểm không đáng kể lắm vì ở đây có du kích canh gác và đường xe cộ cũng ít chạy. Hai bên đường toàn rừng cao su.