← Quay lại trang sách

Chương VI (2)

Năm Râu cho tôi biết sơ qua lộ trình dự định như vậy. Mười một giờ rưỡi trưa, chúng tôi nhờ đò đưa ngang qua sông Sàigòn.

Không biết nghĩ sao, Năm Râu đột nhiên thay đổi lộ trình dự định là không đi ngõ ấp chiến lược Bưng Còng mà xuyên đường tắt ở bờ sông Sàigòn ra lộ 23. Chừng hơn mười lăm phút rời sông Sàigòn, đến một khoảng tranh thưa, Năm Râu ra hiệu dừng lại và nói với tôi:

– Tới lộ Bến Súc – Bình Dương rồi đó anh! Phía trước cách đây chừng trăm rưỡi thước. Phía tay trái mình là đồn Bến Súc chừng năm cây số. Phía tay mặt là đồn Rạch Bắp chừng hai cây số rưỡi.

Và Năm Râu chu miệng cười, cái cười ranh mãnh dí dỏm bảo hai cảnh vệ:

– Nè! Dân, Ngà! Hai đứa bây chuyến này ra bám lộ cho Trung đoàn hành quân ngang qua nghe! Thằng Dân bên này, thằng Ngà bên kia. Năm phút nữa, không có gì thì Trung đoàn bộ sẽ qua trước. Sáu tháng nữa lính tráng của Trung đoàn sẽ qua sau!

Dân và Ngà, hai cậu cảnh vệ chúm chím cười, không nói. Năm Râu vỗ vai Ngà:

– Nè, tụi bây mà thấy có thằng nào cỡi xe đạp, xe gắn máy, hoặc đi bộ, cả đàn bà con nít cạo mủ cao su bên kia đường cũng xách súng chận lại hết.

Ngà hỏi:

– Chi vậy anh Năm?

– Đéo quả! Cái thằng dốt quá! Trung đoàn hành quân qua lộ chiến lược phải giữ xe cộ lại chớ. Nó đi báo giặc thì làm sao?

– Trời đất! Mình chỉ có 4 ngoe. Vũ khí thì chỉ có một cây Mi Tuilles, một trường Mass và khẩu súng lục. Trung đoàn gì lực lượng có bấy nhiêu đó anh Năm? Chơi rắn mắc kiểu này gặp xe lính nó rượt mình chạy vắt giò lên cổ đó.

Nău Râu hơi bực:

– Cái thằng khéo lo! Lâu lâu mình dọa lính Bến Súc chơi mà! Nó mà nghe đồng bào về nói lại, có một trung đoàn quân giải phóng về đây nó hoảng vía liền. Chiến tranh cân não mà mậy! Mầy thiệt dở ẹt. Thôi, tụi bay đi lẹ lên đi. Năm phút nữa, Ban Chỉ Huy Trung đoàn ra lộ dó! Nhớ dồn người ta lại, bắt quay mặt vô rừng nghe!

Dân và Ngà lên đạn, súng xuống tay, miễn cưỡng bước đi. Năm Râu nheo mắt với tôi:

– Tụi tôi thỉnh thoảng qua lộ cũng chơi cái mững này hoài. Hai thằng này trước giờ chưa tham dự lần nào, coi bộ nhát quá! Mình đi anh!

Năm Râu đi trước, tôi theo sau men lần ra lộ. Đường tráng nhựa kia rồi. Phía bên kia đường là rừng cao su từng hàng thẳng tắp. Năm Râu kéo tôi núp vào một bụi cây rau mui kín mít, rậm rạp cách đường mười thước, vạch lá nhìn ra.

Tôi nghe có tiếng xe gắn máy nổ xa xa về hướng Bến Súc. Và tôi cũng chợt nghe có tiếng con gái nói chuyện, đạp xe đạp cót két từ phía Bạch Bắp lên. Tôi nhìn dáo dác không thấy hai cậu cảnh vệ đâu cả.

Bốn cô con gái đạp xe hàng tư trờ tới. Trên ghi đông mỗi xe đều có mang những thùng sắt nhỏ. mấy cán dao lòi lên trên. Nhìn dáng dấp, kiểu cách của họ tôi hiểu ngay đó là bốn cô gái phu cạo mủ cao su của đồn điền.

Thình lình, từ sau đám cỏ ở vệ đường, Dân nhảy ra đưa tay cản lại. Khẩu Mi Tuilles quay ngang. Dân nói lớn:

– Dừng lại! Mấy chị ngừng lại!

Bốn cô gái hoảng hốt, mặt tái xanh, ngưng cười thắng xe lại một cách hối hả, nhảy xuống đất. Bốn cô sợ sệt, giương mắt thao láo nhìn Dân. Dân khuỳnh chân ra dõng dạc, chỉ tay về phía bên kia rừng cao su:

– Mấy chị dẫn xe qua bên kia, đi sâu vô rừng cao su; quay lưng lại đường mòn, ngồi xuống không được nói chuyện. Cũng không được quay mặt nhìn lại. Trung đoàn giải phóng hành quân qua đây. Khi nào chúng tôi bảo thôi thì mới được quay mặt lại, ra đường. Ai nhúc nhích, có ý nhìn lén chúng tôi không bảo đảm an ninh đó!

Bốn cô gái ríu ríu dẫn xe đạp đi. Chiếc Mobylette từ hướng Bến Súc cũng vừa đến và dừng lại. Dân lập lại câu nói trên. Người cỡi xe là một đàn ông ngoài bốn mươi, ăn mặc chững chạc, mang giày, tuân theo lệnh của Dân.

Hơn ba phút sau, đường im phăng phắc. Dân quay đầu vào, nói lớn lên:

– Báo cáo thủ trưởng, đường đã dọn dẹp xong!

Ngưng lại một chút, Dân nhìn xuôi ngược, đoạn đưa tay che miệng làm loa, nói nho nhỏ vừa đủ nghe:

– Ra lẹ đi, anh Năm! Thằng Ngà bên kia nó dẫn họ ngồi xuống hết rồi. Lẹ đi!

Năm Râu cười nụ, kéo tay tôi chạy lúp xúp ra đường rồi băng ngang qua đường mòn phía bên kia. Vườn cao su trống hoang, không có lấy một bụi cỏ, thẳng tắp, sâu mãi vào trong kia. Tôi thoáng nghĩ, trống quá, kiểu này có xe chạy tới không làm sao thoát kịp và tìm ra chỗ núp.

Tôi vừa chạy vừa nghĩ vậy thì Dân từ phía bên kia đường la toáng lên:

– Chết cha! Xe lính! Chạy mau lên đi, anh Năm ơi!

Năm Râu bứt tôi thực nhauh, vọt lên trước. Tôi điếng cả hồn vía, chân như muốn ríu lại, hấp tấp chạy thục mạng theo sau. Tiếng động cơ xe nhà binh rõ dần và… tạch tạch tạch…

Nhiều loạt súng máy nổ liên hồi, nhiều tiếng la hét ngoài lộ, phía sau lưng tôi. Tiếng đạn xé gió rít lên chung quanh lẫn với tiếng cành cây cao su gẫy đổ trước mặt. Chân tôi như rũ ra. Tôi té nhủi. Nẩy đom đóm mắt. Lại lồm cồm đứng dậy, cắm đầu chạy vắt giò lên cổ theo Năm Râu.

Thú thực, lúc đó tôi không hiểu tôi ra sao nữa, ngoài việc cắm cổ chạy như một cái máy, hết còn biết ngoại cảnh chung quanh ra sao? Cho đến lúc gặp Năm Râu ngồi bệt xuống đường mòn, mở áo phanh ngực lấy nón quạt phành phạch nhe răng cười, chờ tôi, thì tôi thấy hai chân tôi như rời ra rồi khuỵu xuống ngồi phịch kế bên.

Một cơn mệt dường như không còn thở kịp đến với tôi. Thấy vậy, Năm Râu quay nón, quạt cho tôi. thở hổn hển nói:

– Dở… quá vậy ông!

Tôi mở miệng nhưng nói không ra tiếng, chỉ biết lắc đầu, thở dốc. Tôi thấy oán trách anh ta, giận anh ta vô kể. Cái đòn «chiến tranh cân não» của anh ta đã hại tôi suýt mất mạng và mệt đến thế này, vậy mà anh ta còn chê tôi dở, có ức cho chưa?

Năm Râu thở phì phì, nói tiếp:

– Chút xíu nữa… «qua phần» rồi! Đạn đi chéo chéo bên tai… đéo quả! Mất cái mặt hết sức!

Cơn mệt của tôi đã dịu đi nhiều. Đầu óc cũng đã tỉnh táo, hoàn hồn lại. Tôi sờ soạng chung quanh. Súng vẫn còn nổ từng loạt ngắn xa xa.

À, thì ra tôi đã chạy ra khỏi rừng cao su hồi nào mà tôi không biết. Chỗ tôi và Năm Râu đang ngồi đây là đường mòn giữa rừng cây tạp rậm rạp, mấy con sóc bông đang đuổi nhau trên ngọn cây trước mặt kêu chí chóe.

Cũng may, tôi không bị thương hay xây xát gì… Bỗng tôi phát giác ra rằng cổ tôi sao nghe nhẹ. Thôi, cái ruột tượng đựng mười ngày gạo rơi mất tự bao giờ rồi.

Tôi nói với Năm Râu:

– Cái ruột tượng của tôi rớt mất rồi anh Năm!

Năm Râu cười:

– Kệ nó! Đến Long Nguyên kiếm cái khác!

Chợt có tiếng chân chạy thình thịch ngày càng rõ từ phía đường vọng vào. Tôi và Năm Râu giật mình, cùng nhổm người dậy. Nhưng nhờ có tiếng gọi «anh Năm ơi! Anh Năm» nên chúng tôi yên tâm, biết đó là cậu bảo vệ của mình cũng vừa thoát chết.

Thực là một phen hú vía! Cả bốn chúng tôi đều chạy thoát chỉ có đồ đạc bị rớt mất, phải để cho hai cậu bảo vệ lộn đi lộn lại nhiều lần tìm kiếm. Chính vì vậy, mãi đến 10 giờ đêm chúng tôi mới đến Long Nguyên thay vì 4 giờ chiều như đã định.

Xem chừng Năm Râu cũng ngán qua lần chết hụt đó và băn khoăn sợ chúng tôi về căn cứ báo cáo lại, tất anh ta sẽ bị kiểm thảo, cứ theo năn nỉ tôi và hai cậu bảo vệ, yêu cầu đừng nói lại nguyên cớ chuyện đã xảy ra.

Nghỉ tại Long Nguyên một đêm. Chiều lại, chúng tôi tiếp tục lên đường đi về đồn điền cao su Bầu Bàng qua lộ 13 đến Phú Giáo. Chúng tôi nằm lại ở Phú Giáo hai hôm rồi vượt Dinh Điền I, Dinh Điền II qua lộ 16 đi về sông Bé.

Ngày thứ sáu, chúng tôi đến sông Rạc, con sông mà công binh khu A phải bắc cầu bằng mây, treo lơ lửng giữa hai tàng cây rậm rap ở hai bên sông. Phía dưới, nước chảy qua mấy gộp đá ào ào như thác đổ. Đi trên cầu, cầu đong đưa như đưa võng, không cẩn thận rơi tõm xuống những gộp đá mất mạng như chơi.

Mấy anh lính bảo vệ cho biết con sông này chảy từ tỉnh ly Phước Thành đổ về. Nghĩa là từ đây là rừng sâu khu A, bóng cả cây già, lính Quốc Gia chưa bao giờ đi tới. Giang san này là của thú dữ, của «ông bà rừng» đối với đồng bào Thượng.

Tôi ngước mắt nhìn quanh. Những cây dầu, cây bằng lăng, cây gõ, vên vên và những giống cây khác mà tôi không biết tên, to hàng ba bốn người ôm, đứng thẳng, song song tựa những chiếc đũa khổng lồ đâm lên cao vút, ba bốn mươi thước. Tàng cây rậm, cành lá đan vào nhau che mất ánh sáng mặt trời. Tôi nghĩ đến những trại cưa máy, những nhà khai thác lâm sản, tính giá ba nghìn đồng một thước khối thì cây rừng ở đây quả thực là vô giá. Những súc gỗ được kéo về Sàigòn chỉ là những cây con, không nghĩa lý gì đối với những cây chung quanh nơi tôi đang đứng. Chỉ cần khai thác một mẫu rừng ở đây, người ta kiếm hàng triệu như chơi.

Đến suối Bé, chúng tôi dừng lại nghỉ, nấu bữa cơm chiều. Tôi và Năm Râu, kẻ thì đi vo gạo nhóm bếp, kẻ đi hái rau rừng. Hai cậu bảo vệ thì theo lệnh Năm Râu, khi đến gần suối Bé đã tách vào rừng săn giộc «ưu điểm» một bữa, bồi dưỡng lấy sức sau những ngày mệt nhọc đường xa.

Tôi kê đá, nấu chín nồi cơm. Có đến hơn hai tiếng đồng hồ sau hai cậu bảo vệ mang về một con giộc to, nặng chừng mười ký. Giộc là một loại khỉ to con, lông dài màu xám tro. Lần đầu tiên nhìn thấy, tôi tưởng chừng đó là một đứa trẻ con, có đôi tay rất dài, cái mặt xanh dờn trông đến dễ sợ, chiếc đuôi dài lê thê, lông lại trắng toát như bông.

Hai cậu bảo vệ đem lột da xong, đốt lửa thui lại. Thế là chúng tôi được một bữa cháo giộc và thịt giộc nướng chấm muối. Cái mùi giộc hơi hăng hăng, thịt vẫn ngọt vô cùng..

Trời đã tối hẳn. Năm Râu lấy chiếc đèn chai mang bên hông ra đốt để phụ họa với lửa bếp bập bùng. Bỗng Năm Râu nói to lên:

– Ê, máy bay nghe tụi bây!

– Còn xa mà! – Một cậu bảo vệ nói.

Tôi nghe có tiếng động cơ rì rì của phi cơ từ xa vọng lại.

Tôi thắc mắc không hiểu, ban đêm ban hôm phi cơ có ảnh hưởng gì quan trọng đến chúng tôi đâu? Tiếng phi cơ càng ngày càng rõ. Qua kinh nghiệm, tôi phân biệt được đó là loại phi cơ vận tải thông thường.

Tức khắc Năm Râu thổi phụt, tắt đèn. Hai cậu cảnh vệ hấp tấp kéo củi ở bếp lửa ra, tạt nước xèo xèo, bếp lửa tắt ngóm. Chung quanh tôi tối đen như mực.

Năm Râu chửi đổng một câu:

– Đéo quả! Mấy chiếc máy bay chó chết này hoạt động tích cực dữ ta! Ban ngày chưa đã, còn bay đêm, bộ thèm thịt giộc lắm sao chớ! Phá hoại không cho ông ăn hả?

Tôi tò mò muốn biết:

– Nó bay thì kệ nó. Dakota mà! Đâu phải khu trục hay chuồn chuồn (tức LI9) mà mình sợ nó phát hiện anh Năm?

– Vậy là anh thiếu ý thức cảnh giác rồi! Máy bay nào không là máy bay của địch. Dakota tuy nó không oanh kích nhưng nó cũng thấy được ánh lửa. Nhất là ở giữa rừng, đồng bào, nhân dân làm gì có, vậy chỉ có giải phóng quân thôi. Thế nào thằng phi công Dakota cũng báo cho thằng phi cơ khu trục. Nó mà báo thì mình «lãnh đủ» rồi.

Tôi lặng thinh. Điều anh ta nói cũng có lý thật. Anh ta nói thêm:

– Cái này đã trở thành kỹ luật, thành nguyên tắc của Đảng đề ra cho bộ đội. Ờ rừng ban ngày thì cấm khói. Ban đêm thì cấm lửa. Nấu cơm anh phải kiếm củi khô, nhóm củi vào bếp phải có kỹ thuật, làm sao cho lửa cháy nhiều, cháy tốt không có khói bay lên ngọn cây. Củi ướt anh phải xông cho khô, không bảo đảm được khói thì không được phép nấu, đói thì ráng chịu. Chớ nấu cơm mà không được ăn cơm lại bị ăn bom ăn đạn, chết còn bị đào mả lên kiểm thảo cảnh cáo nữa đó!

– Vậy ở căn cứ vào mùa mưa làm sao nấu?

– Lò Hoàng Cầm! Đơn vị nào cũng vậy, đi đến đâu phải đào lò Hoàng Cầm đến đó.

Để cho hiểu về cái gọi là lò Hoàng Cầm, Năm Râu giải thích cho tôi nghe đến sùi cả bọt mép, quên đốt đèn dù tiếng phi cơ đã tắt mất từ lâu.

Theo Năm Râu nói, lò Hoàng Cầm là một kiểu lò đào dưới đất, do sáng kiến của một chiến sĩ anh nuôi (lính hoả đầu quân!) tên Hoàng Cầm, phát minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Vì ở chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội, dân công tham dự hơn trăm ngàn người. Ngày ba bữa vẫn phải nấu cơm ăn, tập trung ở khu vực chung quanh nên phi cơ Pháp phát hiện rất dễ nhờ khói. Do đó nhiều bộ phận bị phi cơ oanh tạc thiệt hại nặng. Anh nuôi Hoàng Cầm, phải lo nấu cơm suốt ngày để cung cấp cho đơn vị nằm ngoài chiến tuyến, nguy cơ bị phi cơ Pháp tiêu diệt nặng nề hơn ai hết nên đã tự chế tạo cho mình một kiểu lò không khói.

Kiểu lò này giống như những lò đắp nổi trên mặt đất, nhưng khác ở chỗ đào sâu xuống đất, khoét đất tạo thành căn hầm trước miệng lò, cũng như miệng lò v.v… làm cho chảo, nồi nắm thấp hơn mặt đất. Phía trong cùng của lò, lỗ thông hơi to bằng cổ chân theo chiều dốc, giáp những đường hầm dẫn khói. Mỗi đường dẫn khói dài chừng ba thước, chếch lên hướng mặt đất. Cuối đường dẫn khói là một cái hầm rỗng chứa khói, vừa sâu vừa rộng. Hầm khói đó là hầm một, được đào nối tiếp với hầm chứa thứ hai cách đó vài thước. Từ hầm chứa khói thứ hai, lại có một đường hầm khác rộng vài tấc chạy dài sâu vào rừng chừng năm đến mười thước. Cuối đường hầm là một lỗ khói xông lên, to bằng bắp tay.

Nhờ khói đi chu du trong lòng đất, qua hầm hố, qua những đường hầm, vốn đã ẩm ướt nên khi khói đến lỗ thông hơi đã bị hóa giải gần hết. Nếu còn, khói trở thành một thứ hơi nước nặng nề, trắng đục bay là là sát mặt đất, chỉ cần một làn gió nhẹ đưa qua, khói đó tan biến ngay, không để lại một vết tích nào. Như vậy, nấu cơm bằng kiểu lò đó, củi khô củi ướt gì chụm cũng cháy ráo trọi và «còn khuya» phi cơ trinh sát mới tìm thấy vết tích của khói vương trên ngọn cây rừng.

Kiểu lò này do Hoàng Cầm sáng chế, nên tên Hoàng Cầm được đặt cho tên lò. Và nhờ tác dụng tốt của nó, tác giả được Đảng phong cho chức anh hùng quân đội.

Và cũng từ đó, lò Hoàng Cầm trở thành duy nhất, bắt buộc các đơn vị quân đội sống ở núi rừng, nhất là ở chiến trường Lào và Nam Việt Nam.

Sau một đêm ngủ ở suối Bé, sáng dậy chúng tôi cuốn nylon, cuốn võng, đi một mạch đến trưa thì vượt qua lộ Đồng Xoài – Mã Đà và chiều tối thì về đến B2 tức Ban Chính Trị của U.50.

Khi vượt qua hàng rào chiến đấu thứ hai bằng dây xanh, gặp một cánh cổng bằng cây, mở hé, chận ngay lối mòn, vừa đủ một người lách qua. Chung quanh cổng và dọc theo đường đi, rải rác những hố chông trần chưa lấp.

Năm Râu nói với tôi:

– Đến nơi rồi đó, anh Hùng!

Tôi hỏi lại:

– Đến U.50 đơn vị mình đó hả anh Năm?

– Không phải đâu! U.50 là một bộ phận lớn, là Đảng ủy khu A, quản lý cả vùng Đông Bắc chiến khu D cũ, từ đường quốc lộ 13 đến sông Đồng Nai Thượng. Đây chỉ là một bộ phận trực thuộc của U.50. Tên thông thường gọi là B2, tức Ban Chính Trị của Khu A đó.

– A! – Tôi khẽ thốt lên.

Tôi chợt nghe tiếng cười vang. Qua khúc quanh đầu lối mòn hiện lên bốn căn nhà lá và những cái sân rộng sạch sẽ, dưới những tàng cây dầu kín mít. Hầu như gian nhà nào cũng không phên vách, giống như những cái chòi ruộng ở làng tôi.

Năm Râu dẫn tôi vượt qua hai gian nhà đầu đến gian nhà thứ ba:

– Nhà này, chỗ anh Ba Biếu với anh Bảy Cảnh ở đây!

Tôi ngơ ngác chưa hiểu thì Năm Râu thì thầm nói tiếp:

– Anh Ba Biếu, thủ trưởng B2, anh Bảy Cảnh là phó thủ trưởng.

Lần đầu tiên, nghe danh từ thủ trưởng, rất lạ tai, nhưng tôi cũng kịp hiểu rằng thủ trưởng là người chỉ huy, người đứng đầu của một cơ quan, một đơn vị. Tôi nhìn vào nhà. Giữa nhà là một cái bàn dài, phía trên để một cái phích chứa nước sôi, kế bên là hộp trà và ba bốn lon sữa guigoz đã bóc giấy. Hai người đàn ông tuổi ngoài bốn mươi, một người mập phì, trắng trẻo mặc đồ bà ba đen, một người gầy ốm, đen đúa, măc quân phục cũng đen, đang ngồi đối diện nhau trước bộ bình trà, đăm đăm nhìn tôi và Năm Râu đang bước qua giữa sân nhà.

Người đàn ông, đen đúa, gầy ốm, nhe chiếc răng vàng ra cười:

– Chà! Cậu từ Lộc Thuận mới về đó hả? Có phải cậu đưa đồng chí Vũ Hùng đến đấy không?

Năm Râu lột nón vải xuống, bước qua thềm:

– Dạ, mới về tới, anh Bảy! Dạ báo cáo anh Ba với anh Bảy, đây là đồng chí Vũ Hùng đấy ạ!

Đúng người vừa hỏi Năm Râu là Bảy Cảnh, phó thủ trưởng, đứng dậy tiến ra bắt tay vồn vã, cười toét miệng đến mang tai:

– Mạnh giỏi đồng chí Hùng? Đi đường xa chắc đồng chí mệt dữ lắm?.

Ba Biếu người mập mạp, trắng trẻo – cũng đứng dậy – đưa cái bụng phệ nhô về phía trước, ti hí mắt, cười vui vẻ không kém. Anh ta thay vì bắt tay, đưa hai bàn tay hộ pháp vồ lấy hai vai tôi như một người bạn rất thân lâu ngày mới được gặp nhau:

– Dữ ác! Tới bữa nay mới được gặp anh! Tụi tui chờ anh đến sốt ruột mấy bữa rồi. Lo sợ không biết anh đi dọc đường có được bình yên không? Ngồi uống nước trà một chút cho ráo mồ hôi rồi tôi đưa anh ra suối tắm. Năm! Ngồi uống nước cậu, rồi xuống bếp điều động chị nuôi đãi đằng khách khứa với chớ!

Giữa hai câu hỏi của hai người cùng một lúc, tôi không biết trả lời thế nào. Tôi vừa lột bồng để xuống ghé ngồi, vừa lúng túng:

– Dạ… cảm ơn hai anh! Tôi đi đường vẫn bình yên, vui vẻ ạ! Dạ, cũng không… mệt gì lắm.

Ba Biếu đẩy cốc về phía tối, nghiêng bình rót một cốc nước trà đầy, bốc khói, đen như nước cau ngâm:

– Mời anh!

Tôi nâng cốc, và trả lời một thôi dài những câu hỏi về đủ mọi thứ chuyện.

Gọi là để chào mừng tôi, «chào mừng môt trí thức cách mạng», Ba Biếu ra lệnh cho chị nuôi làm gà nấu cháo, «chiêu đãi người xa». Trong khi gà la oang oác, dẫy chết ở nhà bếp, thì Ba Biếu cũng đang loay hoay pha mấy cốc cà phê sữa, lấy bánh bích quy, kẹo bày ra bàn để đãi tôi.

Cái chính sách chiếu cố, đãi ngộ này là một hình thức công tác chính trị hữu hiệu nhất, động viên phấn khởi tốt nhất. So với các cán bộ cấp dưới, dọc trên đường đi, việc đối xử với tôi quả là một sự khác biệt quá xa. Nhưng cái hình thức này càng làm cho tôi sợ hơn.

Tôi đã quen, đã hiểu quá rõ cái hình thức này rồi. Cái hình thức «buổi ban đầu lưu luyến ấy…», để rồi mấy hôm sau chỉ còn là một dư hưởng nhiều cay đắng mà thôi. Chính trong lòng tôi, tôi không biết nên buồn hay nên vui đây?

Sau những phút «tao ngộ» qua chén trà, cốc cà phê sữa, bánh ngọt, Ba Biếu đưa tôi ra suối tắm giặt. Lúc trở vào nhà, trời đã nhá nhem tối. Đèn được đốt sáng tự bao giờ. Ba Biếu đang nằm dài trên chiếc chõng tre nghe đài BBC nói vang vang, vội nhổm dậy vặn nhỏ chiếc radio Phillip lại:

– Anh thấy thực khỏe khoắn chưa anh?

Tôi đáp:

– Dạ, khỏe nhiều rồi anh!

– Có trên hai mươi năm rồi… tôi xa Sàigòn. Bây giờ chắc thay đổi dữ lắm! Tối nay, thế nào cũng phải yêu cầu anh kể chuyện Sàigòn nghe cho «no» một bữa!

– Nếu anh xa lâu đến như vậy thì anh khó mà tưởng tượng đươc sự thay đổi đến mức độ nào!

– Chắc chắn là vậy rồi. Ngày tôi xa Sàigòn, ở đường xe lửa giữa, anh biết chớ? Đường Galliéni cái khoảng từ Nancy vô khỏi nhà thờ Chợ Quán nhiều khu đất hãy còn bỏ hoang, đường Hai Mươi toàn là ruộng..

– Đấy, bây giờ đường Galliéni, quãng anh nói đó, building, cao ốc, phố lầu năm bảy tầng. Nhà cửa phố xá, san sát. Đường Hai Mươi cũng vậy, chính trên những miếng ruộng, trên vũng rau muống đó bây giờ là những dãy phố lầu, những nhà bê-tông cốt sắt, đường ngang, ngõ dọc, không làm sao tìm ra một chỗ nào trống để cất thêm một căn nhà.

– Bây giờ tôi về Sàigòn chắc thể nào cũng bị lạc thôi.. Hôm anh đến Phòng Tuyển mộ I4, các đồng chí ở đó đánh điện báo cáo về Khu B trường hợp của anh. Ở bên đó, Rờ (R) lại đánh điện chỉ thị cho chúng tôi đón anh về. Vì vậy khi anh còn ở Lộc Thuận chúng tôi đã nôn nao chờ anh rồi. Chính tôi đến đằng B1 bảo bộ phận điện đài, điện xuống ngay cho đoàn tiếp nhận tân binh của U.50 hay liền, chỉ thị cho đồng chí Năm Râu đưa anh về đây gấp.

Tôi thấy cần phải khách sáo một câu trả lễ:

– Cám ơn anh đã quan tâm đến! Tôi thì có đáng gì đâu để anh phải cực lòng như vậy. Bất quá, tôi chỉ là một lính mới, đi sau, còn phải cố gắng nhiều…

Ba Biếu cười:

– Anh cảm ơn, tôi ngại quá! Thôi! Bỏ chuyện đó đi anh! Anh em, đồng chí với nhau cả mà! Bổn phận, nhiệm vụ của mình được Đảng giao cho mình phải lo cho tròn, cho tốt, có gì đâu. Bây giờ, mời anh đi qua nhà ăn, mình nhậu lai rai được rồi đó. Cháo gà nhậu rượu đế thì tuyệt, chỉ tiếc thiếu cái món rau răm. Đi anh!

Ba Biếu nhảy xuống đất, bấm đèn pile soi lối bước ra. Tôi không biết uống rượu, nhưng vì «nể» tình nhau, không tiện từ chối nên trong bữa tiệc tôi cũng uống hết một ly rượu hồi «Anis». Nhờ thế, đêm đến tôi ngủ được một giấc ngon lành.

Sáng ra tôi dậy muộn, trong khi mọi người đã thức giấc từ lâu, đang sửa soạn ăn cơm sáng. Tôi xuống suối súc miệng, trở lên ngang qua nhà ăn tôi thấy trên mỗi bàn làm bằng tre, chôn chân sâu dưới đất để một thau khoai mì luộc. Tôi không hiểu khoai mì đâu thế này nhỉ? Trên đường đi từ lộ 13 về đến đây, tôi chưa hề thấy một rẫy khoai mì nào. Chà! Giữa rừng sáng sáng có khoai mì luộc ăn chơi thế này, sang thực!

Tôi đụng đầu Ba Biếu đang xách ca, muỗng giữa đường xuống nhà ăn. Thủ trưởng Ba Biếu nhoẻn miệng cười:

– Xong rồi anh xách ca, muỗng xuống đây mình ăn sáng nhe anh!

Tôi cũng cười đáp lễ, dạ một tiếng:

– Dạ! Tôi xuống ngay. Xin các anh cứ dùng trước đi!

Tôi quay trở lại nhà ăn thì anh chị em trong Ban Chính Trị, tức B2 của U.50 non hai mươi người đã tề tựu. Mọi người xầm xì to nhỏ đưa mắt nhìn tôi. Người ta, anh chị em chắc đang bình phẩm, nói chuyện về tôi đó! Tôi là bộ mặt mới, lính mới đến đây, đến hôm qua, giờ anh chị em mới dược biết, nhìn rõ mặt, trách sao người ta không đổ dồn mắt, xầm xì về mình.

Bước vào nhà ăn trước đông người, tôi thấy lúng túng thật sự. Tôi khẽ cúi đầu chào mọi người. Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tám Chi và Năm Râu đang ngồi quanh một bàn giữa nhà ăn cũng đang mỉm cười nhìn tôi. Năm Râu đưa tay ra hiệu cho tôi lại ngồi chung. Ba Biếu đứng dậy nhìn mọi người, lên tiếng:

– Xin giới thiệu với các đồng chí, đây là đồng chí Vũ Hùng vừa ở Saigòn ra tham gia cách mạng với chúng ta. Đồng chí Vũ Hùng là môt trí thức và cũng là một cán bộ cũ của cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống Pháp. Kể từ hôm nay đồng chí sẽ công tác chung với chúng ta ở B2 này trong khi chờ đợi Cục Chính Trị R xác định cấp bậc và vị trí công tác mới.

Tiếng vỗ tay lẹt đẹt nổi lên. Ba Biếu nhìn tôi nói tiếp:

– Trước lạ sau quen. Toàn là anh em đồng chí với nhau cả, thủng thẳng rồi anh sẽ biết hết, quen hết tên, tuổi, công việc của anh chị em ở đây. Thay mặt cho tập thể B2, chúng tôi rất hoan nghênh và vui mừng được anh đến công tác.

Tôi càng lúng túng, không biết nên làm gì cho thích hợp, đành phải nói lí nhí trong cổ họng:

– Xin cảm ơn anh! Cảm ơn các đồng chí tập thể có lòng nghĩ đến tôi.

Ba Biếu kéo tay ngồi xuống bàn ăn, đối diện:

– Có gì mà cảm ơn, anh! Khách khứa gì!

Tôi ngồi xuống. Trên bàn ăn, ngoài thau mì luộc còn có một dĩa nhôm thịt kho mặn và một dĩa nước mắm mỡ nổi màng màng.

Ba Biếu nói:

– Bữa ăn sáng của mình thế đấy. Khoai mì luộc, thịt nai kho mặn và nước mắm.

Tôi phát biểu một câu:

– Vậy là sang quá rồi anh Ba! Ở thành thị, khó kiếm được miếng ăn lạ miệng, ngon như thế này.

– Đấy! Bữa ăn đầu tiên, anh thấy đây là món ăn lạ miệng, ngon lành, món ăn sang nhưng được vài hôm thì nhất định anh không còn giữ ý kiến này nữa đâu. Như tụi tôi người nào cũng ngán đến tận cổ.

Tôi tò mò, muốn biết sinh hoạt ăn uống ở đây.

– Sáng nào mình cũng ăn vầy à? Anh Ba!

– Lúc vầy lúc khác. Trước đây có mua gạo, tải gạo từ đồng bằng về dễ dàng thì sáng ăn cơm phải độn khoai. Bắt đầu từ tháng mười một năm ngoái đến nay thì khẩu phần gạo không được cấp phát nữa, phải ăn khoai mì thay gạo. Tuy vậy, ở trên vẫn hạn chế, ăn khoai mì cũng có khẩu phần. Một người một ngày là 2 ký, không được ăn quá số đó. Xui xẻo cho anh là anh đến khu A nhằm lúc này, mức chịu đựng gian khổ khó khăn lên đến đỉnh cao…

Bảy Cảnh ngồi bên tôi, chen vào:

– Như vậy phải có tinh thần hy sinh, chiu đựng gian khổ mới kham nổi, mới làm cách mạng được phải không anh Hùng? Mà chịu đựng gian khổ, hy sinh, trải qua những thử thách, khó khăn, chiến sĩ cách mạng mới thấy vinh quang hơn bao giờ hết. Trước khi bước chân vào cách mạng chắc anh Hùng cũng rõ điều này chớ?

Tôi thấy khó chịu trong lòng, nhất là phải ngồi nghe cái lý luận quá cổ điển đó. Lý luận chính trị tôi vốn không ưa nó lâu rồi. Nhưng giờ Bảy Cảnh hỏi, tôi đành phải vui vẻ trả lời:

– Thưa anh, tôi hiểu và tôi còn chuẩn bị tư tưởng chịu gian khổ hơn vầy nữa kia. Như thế này hãy còn là quá sướng. Có gì đáng gọi là gian khổ đâu! Nếu sợ khó, sợ khổ thì tôi đã không vào đây.

Mọi người đều vui vẻ, tán thưởng lời tôi nói. Năm Râu hỏi tôi:

– Thịt nai ông ăn thấy thế nào?

– Ngon, anh! Khác gì thịt trâu, thịt bò!

– Vậy chớ ăn nhiều «Tào Tháo đuổi» xách quần chạy không kịp dó! Các loài thú ở rừng chỉ có thịt bồ với thịt min là hiền nhất. Ăn nhiều bao nhiêu cũng không sao. Chớ heo rừng với nai, độc địa lắm!

Tôi hỏi:

– Thịt bồ là thịt gì anh?

– Thịt voi đó! Ơ đây ai cũng kêu là thịt bồ. Còn thịt min là thịt trâu rừng…

Nhân câu chuyện về thịt rừng, Năm Râu kể cho tôi nghe một mạch. Những thú lớn ở rừng Đông Bắc khu D săn bắn được gồm có nhiều thứ như voi, min, bò rừng, nai, heo rừng, cọp, gấu, hươu v.v… nhưng cọp, gấu thỉnh thoảng mới hạ được một con. Voi, min, bò rừng cũng khó săn hơn heo rừng với nai. Muốn bắn nai với heo rừng chỉ việc bò theo mấy rẫy khoai mì, rẫy bắp, hoa màu. Cho nên từ trước giờ, thực phẩm tươi, nai với heo rừng là món phổ thông nhất. Muốn ăn nai, heo rừng cứ vác súng lùng theo rẫy thế nào cũng bắn được.

Những trường hợp bắn được cọp hay gấu, hầu hết đều là những lúc tình cờ, do những anh em chiến sĩ đi công tác phất phơ hoặc những lúc đội đèn đi bắn cheo ban đêm, hay những lúc theo dấu một bầy heo rừng. Ở trường hợp này, người và cọp gặp nhau cùng mục đích. Cọp rình theo bầy heo để chộp, người cũng theo dấu heo để bắn. Rốt cục, cọp mê mồi, quên phía sau lưng mình còn có người và khẩu trường Nga, trường Mas hay Carbine M1.

Với voi hay min cũng vậy, tình cờ có một tổ võ trang nào đó đi cảnh giới hay công tác quanh vùng căn cứ, đột nhiên nghe tiếng càn rừng ào ào hoặc ngọn le gãy rôm rốp nom theo. Cuối cùng là súng nổ. Bắn min không khó lắm, nhưng bắn được voi là cả một vấn đề khó khăn. Súng trường bắn không nhầm chỗ, dù cho bắn đến hai mươi phát vẫn chưa hạ nổi nó. Hoặc là nó chạy mất, hoặc là bị nó rượt lại đạp cho nát thây để trả thù.

Muốn bắn hạ voi, người bắn phải nhắm đúng vào chỗ u lên, phập phồng theo hơi thở dưới mang tai. Ngoài chỗ đó ra, bắn vào đầu, vào ngực, vào bụng chỉ mất công toi lại còn có thể bị mất mạng vì nó. Nếu không bắn được chỗ u lên, thì bắn ngay vào ống chân trước, nó nhảy chồm tới, sức nặng của nó sẽ làm gãy ống chân, ngã quỹ xuống không tài nào đứng lên được. Sau đó sẽ tìm cách hạ cho nó chết sau.

Voi ở đây thuộc loại voi khổng lồ, đi ăn từng đàn nhỏ từ ba đến năm con. Sức nặng của mỗi con ước định có đến tám ngàn ký. Khi nó ngã xuống rồi, nó vẫn cao hơn đầu người ba bốn tấc. Người đứng bên này khoông làm sao thấy được người đứng bên kia. ·

Từ 1963 trở về trước, tại khu A, anh em cũng đã hạ hơn một chục rồi. Nhưng chưa lần nào lấy hết thịt của nó mang về. Vì rằng U.50 có đến mấy chục đại đội, trung đội trực thuộc những rừng núi khu A rộng mênh mông, có nhiều đơn vị cách nhau phải đến ba ngày đường rừng, việc thông báo nhau đến chia thịt là chuyện không thể thông báo được. Dù có cho hay, khi đến nơi, thịt cũng đã thúi từ mấy ngày trước. Việc thông báo nhau biết đến xẻ thịt mang về ăn chỉ vài đơn vị chung quanh.

Huống hồ việc tải thịt từ chỗ voi bị hạ về đến đơn vị, vừa đi vừa về ít ra cũng phải tròn 1 ngày đường. Và việc tải thịt khó khăn hơn tải bất cứ một thứ gì khác. Thịt cho vào bồng, mềm nhũn, đong đưa, khi mang trên lưng làm cho người mang đi đứng khó khăn hết sức.

Mỗi người mang nhiều lắm chỉ hai mươi kí thịt là cùng. Nhưng thịt một con voi xẻ ra có đến trên hai ngàn kí. Đơn vị nào có đủ người để đi tải từng ấy thịt? Đơn vị nào có đủ người để ăn, tiêu thụ hết số thịt đó trong vòng hai ba ngày?

Để lâu thì bằng cách nào? Nồi niêu, thau, chậu đâu để chứa? Muối, làm mắm không có gì đựng. Phơi khô, rừng không có nắng, quần áo giặt phơi hai ba ngày còn chưa khô huống gì phơi thịt voi?

Vì những lý do kể trên, trong những lần bắn voi vừa qua, lần nào cũng để thịt thúi om rừng. Chuyện đó thấu đến tai Năm Quốc Đăng, Thủ trưởng của U.50. Đăng ra lệnh cấm bắn vì như vậy là phí phạm thịt rừng, còn làm mất vệ sinh khu căn cứ…

Năm Quốc Đăng ra lệnh trên, khu A không ai còn bắn voi lấy thịt nữa. Cho đến khi Hai Cà về thay Quốc Đăng làm thủ trưởng U.50, còn gắt gao hơn. Thường ngày, để cải thiện sinh hoạt, mỗi đơn vị đều nhắm vào việc săn giộc, săn heo rừng, nai, bắn mển, bắn cheo và những loài thú nhỏ.

Tôi vừa ăn vừa say mê theo chuyện săn thú rừng của Năm Râu. Bữa ăn lạ miệng, ngon sao là ngon. Khi Năm Râu ngừng nói thì mọi người chung quanh họ đã ăn xong, đi tứ tán tự bao giờ. Bàn tôi, Tám Chi, Bảy Cảnh cũng xách ca đi mất, chỉ còn lại tôi, Năm Râu và Ba Biếu.

Ba Biếu ngồi đối diện với tôi, nhai một cách uể oải mấy mẫu khoai mì nhỏ, theo kiểu cầm khách:

– Anh ăn coi bộ ngon thiệt! Nhưng chắc chỉ đến mai là cùng. Anh nuốt không vô cho coi.

Tôi cười và hỏi lại:

– Khoai mì này mình trồng ở đây hả anh?

– Gần đây, chung quanh đây thôi! Anh cũng nên rõ U.50 của mình là một đơn vị hậu cần của Cục Hậu Cần, quản lý vùng khu A.

Cho nên công tác chính của U.50 là công tác Hậu Cần, cung cấp lương thực, thực phẩm, quân nhu, quân trang cũng như quân y, thuốc men cho quân chủ lực R. Ngoài những nhiệm vụ đó, U.50 còn mười mấy đơn vị trực thuộc chuyên phá rừng, trồng rẫy để sản xuất bắp, lúa, khoai mì. Chủ yếu là khoai mì. Nó được xem là thực phẩm dự trữ chiến lược, để bao lâu cũng không hư.

– Như vậy, mình ở đây hoàn toàn lấy khoai mì ăn thay gạo hả anh Ba?

– Từ trước đến nay vẫn ăn gạo đấy chớ! Nhưng mới đây phải ăn khoai mì thay gạo vì cơ sở thu mua của mình ở Bình Mỹ – Vĩnh Tân bị địch phá vỡ, con đường vận chuyển của bộ phận vận tải xe cam nhông cũng bị địch chiếm đóng, án ngữ chận ngang trên đường đi. Trong tạm thời, Khu A mình đây bị phong tỏa, cắt đứt đường tiếp tế lúa gạo thực phẩm. Bây giờ còn một số gạo dự trữ khá lớn nhưng vẫn phải dự trữ… đâu dám xử dụng trước khi cơ sở thu mua của mình hoạt động lại bình thường. Chỉ có các thương bệnh binh tại ba bệnh viện G1, G2, G3 hoặc tại quân y của các đơn vị trực thuộc mới được cấp phát với tiêu chuẩn hạn chế là 10 lít một tháng. Tức là mỗi người một ngày được một lon sữa bò gạo. Còn tất cả chúng ta đều phải ăn khoai mì thay cho gạo. Trong khi đó, nếu đơn vị nào có khả năng tự mua lấy gạo được thì cứ lo. Tài Vụ sẽ thanh toán theo tiêu chuẩn.

Nghe Ba Biếu nói tôi tính nhẩm có lẽ quân số của riêng U.50 thôi cũng đã trên hai nghìn người. Chưa kể quân số của những bộ phận, đơn vị khác. U.50 mỗi ngày tiêu thụ ít ra cũng trên bốn ngàn kí khoai mì. Quả là một số lượng đáng kể, làm sao có thể cung cấp được trong nhiều tháng? Tôi tò mò hỏi:

– Nhưng nếu tình trạng ăn khoai mì kéo dài trong nhiều tháng khoai mì đâu đủ…

– Kể cũng đáng ngại tlực. Tôi đang lo sốt vó đây!

Ba Biếu nhìn xuống bàn như mơ màng đến một hình ảnh xa vời nào đó, tay cầm chiếc muỗng «i-nốc» lơ đãng gõ nhẹ đều vào miệng dĩa kêu leng keng:

– Toàn khu A mình hiện giờ trồng được khoảng trên dưới ngàn mẫu khoai mì. Khổ nỗi, gần phân nửa là khoai mì non chưa ăn được. Số ăn được cũng phải để dự trữ ba trăm mẫu. Cấm xử dụng. dành cho mấy trung đoàn thực binh từ miền Bắc vào, có lẽ nay mai gì sẽ đến khu A.

Hơn tháng qua, số rẫy khoai mì được phép xử dụng, có đơn vị họ đã nhổ sạch cả rồi. Họ vừa báo cáo cho tôi biết và xin cấp thêm rẫy mới. Biết làm thế nào?… Thôi! Ta đi rửa ca rồi về nhà uống trà anh!

Ba Biếu đứng dậy. Tôi và Năm Râu đứng lên theo đi xuống suối. Nhà bếp cất trên gò đất cao. Suối nằm bên dưới cách chừng hai mươi thước. Đường đi xuống suối mòn lẳng, giữa những cây dầu, và nhiều cây khác gốc to đến mấy người ôm, cao vút che kín ánh nắng mặt trời. Dọc theo suối những bụi mây nước, cây to bằng cổ tay, lá um tùm, gai lởm chởm, bò quấn theo mấy cành cây trên cao.

Đêm qua, tối mò, lúc tắm không thấy được gì. Hôm nay nhìn rõ, hình ảnh trước mắt gợi cho tôi một cái gì hoang dã, rừng rợn lạnh, ngăn cách hẳn với đời sống con người bình thường. Đời sống ở đây chỉ có rừng và rừng, sống không ai biết, chết chẳng ai hay.

Lòng suối cạn, trong vắt. Nó lên đến tận gối, chảy nhanh. Đá suối toàn đá cuội, đá đỏ lớp lớp nằm chồng lên nhau. Tôi xắn quần cao, đứng giữa dòng nước chao mạnh dĩa. Dĩa nhôm dính đầy mỡ lầy nhầy. Không có xà-bông tôi càng kỳ cọ, nó càng dây thêm ra tay.

Năm Râu thấy vậy, liệng cho tôi cục xà-bông nhỏ:

– Bắt ông! Xà-bông nè! Sau này, khi nào kẹt không có xà-bông, rút kinh nghiệm tụi tôi, ông ngắt máy cái lá dầu non chùi dĩa. Khá lắm! Nó sạch bóng. Chắc ăn hơn nữa, ông ghé bếp xúc một dĩa tro, cái gì ông rửa nó cũng sạch.

Tôi ngượng ngùng đón nhận «kinh nghiệm» của Năm Râu. Vào buổi sáng, nước suối lạnh như ngâm nước đá, tôi rửa mặt xong, lửng thửng bước lên bờ. Chợt nhìn xuống ống chân, tôi thấy một con vắt lớn hơn cọng chân nhang đang ngo ngoe, quơ đầu tìm chỗ bám để bò lên trên. Tuy dạn dĩ không sợ gì đỉa hay vắt nhưng tôi thấy nổi gai ốc. Tôi co chân, lấy tay búng cho nó rơi giữa suối, hỏi Năm Râu:

– Ở đay coi bộ nhiều vắt quá anh Năm! Nó mới cắn tôi nè!

Năm Râu cười:

– Đủ xài thôi! Coi vậy chớ chưa nhằm gì đâu, ông! Tháng nắng, vắt nó không ở trên khô, nó chui xuống đất hoặc xuống mé suối ở hết nên đi dọc đường chưa gặp. Thêm nữa, trên đường đi, anh em qua lại hằng ngày, chẳng còn mấy con. Đến mùa mưa, ông sẽ biết. Nhứt là sau mấy đám mưa đầu mùa, gần như là vắt bò đặc đất. Ra đường không dám bước, vừa đi vừa chạy phóng như bay cũng vẫn bị nó đeo đen chân. Con nào con nấy có sọc lưng, nghễnh cổ như súng cao xạ. Đi đường bị nó cắn, nếu ông đứng lại bắt nó tức khắc năm sáu con khác bám ông liền, ông không tài nào gỡ kịp. Cái cảnh vắt chui vào quần, vào bụng, bò lên nách, đến cổ cắn no nóc như múi bưởi là thường. Đêm, leo lên võng ngủ, sáng ra máu chảy đỏ cổ, đỏ áo, dính võng, dính mùng không ai là không bị. Thanh niên bọn mình không nói làm gì chớ mấy chư vị nữ, mới đến Khu A chư vị nào cũng sợ xanh mặt. Có nhiều tay, đang lúc máy bay khu trục oanh tạc, bom nổ ầm ầm vậy mà không chịu nằm xuống đất, cứ leo lên mấy rễ cây tránh vắt. Sợ vắt hơn sợ máy bay mà. Ông coi chừng có ngày thế nào cũng bị con gái khu A nó ôm ông cứng ngắt, gỡ không ra cho coi!

Tôi còn như thế, trách gì mấy cô gái từ bé đến lớn chưa hề biết mặt mũi con vắt ra sao?

Khu vực của Ban Chính Trị U.50 gồm có sáu nhà, chưa kể nhà bếp, nhà ăn.

Nhà tôi ở là nhà của Ban Chỉ Huy mà Thủ trưởng là Ba Biếu. Hai ông phó là Bảy Cảnh và Tám Chi. Mái nhà lợp bằng lá trung quân khô, hiện lên một màu mốc, tròn và dài, khi chằm kết lại liền mí, chồng lên nhau, thoạt nhìn từ xa tôi ngỡ nhà lợp bằng ngói. Đến lúc lại gần nhìn rõ mới biết đó là một loại lá rừng.

Nhà không vách, trống trơn, từ ngoài nhìn vào không khác một cái chòi ruộng. Tất cả những gì trong nhà, ở ngoài thấy rõ mồn một. Nhà này trước đây chỉ có ba người, giờ tôi đến, được xếp ở chung thành ra bốn người. Ba Biếu có cái giường bằng tre đóng cọc chôn xuống đất ở một góc như Bảy Cảnh. Tám Chi và tôi ngủ võng. Võng giăng xéo qua bốn góc mhà. Mùng thì, bốn góc cứ hai góc mỗi đầu chập lại một thành ra mùng không nóc, cột dây giăng xuôi theo võng ở phía trên. Vách mùng buông phủ xuống bao lấy thành võng.

Cái lối ngủ võng này kể ra cũng tiện thật.

Giữa nhà kê một bàn dài, trên để một cái phích đựng nước sôi, bộ chung trà, mấy lon sữa guigoz đã bóc giấy xếp thành hàng, bên trong đựng trà, đường cát, kẹo đâu phọng.

Tất cả ngồi quay quần đối diện nhau quanh chiếc bàn dài uống trà, ăn kẹo. Thành thực mà nói, tôi chỉ khoái ăn kẹo chớ không thích uống trà đậm thế này.. Dầu rằng, kể từ hôm mồng bốn Tết đến nay, hai tháng rồi, tôi đã tập tành «u-tê-cu» (U.T.Q) nghĩa là «uống trà quạo» với Ba Dũng ở Phòng Tuyển Mộ tân binh I4, rồi với Năm Râu và đoàn Tiếp nhận tân binh của U.50, tôi vẫn chưa thể nào hiểu nổi, thông cảm nổi cái trình độ thưởng thức «u-tê-cu» đó.

Bởi «u-tê-cu» nó không phảng phất một hơi hướng tao nhã, «phong lưu quân tử » theo cái kiểu «tao nhân mặc khách» của trà đạo.

Nó chỉ là một thói quen, một tập quán hơn là ghiền.

Mặt khác, nó còn biểu hiện cho một trạng thái tâm lý bốc đồng, lập dị, bắt chước, khoe khoang không chịu nhường ai như một cái «mốt» thời trang.

Trà bỏ cho thật nhiều vào bình, nước ngả màu đen, uống vào chát quánh miệng, đắng hơn cả thuốc bắc, vậy tôi làm sao hào hứng thưởng thức trà?

Ba Biếu đẩy chung trà sát vào tôi:

– Uống anh! Thứ này khá lắm! Blao chính cống đó!

Tôi đưa lên miệng nhấm nháp. Đắng thật. Trông thấy cử chỉ của tôi, Ba Biếu cười:

– Tại anh chưa quen, chứ khi quen rồi, pha cỡ này anh sẽ chê là pha dợt, uống không đã cho coi.

Bảy Cảnh nói thêm vào:

– Mình uống vầy chớ mấy anh em ở bộ đội chiến đấu, thấy mà phát sợ. Trà họ đổ cho đầy lon guigoz rồi chế nước sôi vào. Bấy nhiêu trà, bấy nhiêu nước. Đến nỗi, trà mới pha nước thứ hai nó nở ra, xác trà đội nắp hộp không đậy được nữa. Uống với họ, bọn mình ở đây có lẽ phải đợi đến nước thứ mười trở đi mới dám uống. Cái gì chớ ăn uống, bộ đội nó bạt mạng dữ lắm.

Tôi hỏi Ba Biếu:

– Dạ, hồi 9 năm đó anh Ba, bộ đội cũng uống trà, cũng «u-tê-cu» nhưng đâu có dữ vậy. Sao bây giờ uống dữ vậy anh Ba?

Ba Biếu cười nụ, suy nghĩ một thoáng, trả lời tôi:

– Thực ra… thành thực mà nói, anh em bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc hồi 1951, ai cũng biết uống trà nhưng uống loảng, ít thôi. Chỉ có từ sau Tết năm 1957 cái hy vọng Tổng tuyển cử thống nhất đất nước không thành, việc anh em cán bọ, chiến sĩ miền Nam tập kết không biết đến bao giờ mới được trở về Nam, sum họp với gia đình nên hầu hết cán bộ chiến sĩ hai sư đoàn 330 và 338 đều sinh tật rượu chè be bét. Dạo đó, tôi ở sư đoàn 338 do anh Ba Tô Ký làm Sư trưởng kiêm Chính ủy. Ba ngày Tết đầu năm 1957 sao mà nó buồn ghê gớm nhớ nhà không chịu được. Đêm 30 Tết, rồi suốt ngày mồng một, mồng hai anh em tụm năm, tụm ba nhậu say mèm, ôm nhau khóc như đám ma. Không riêug gì sư 338 mà sư 330 do anh Bảy Cống làm sư trưởng cũng vậy, đứa nào đứa nấy khóc sưng húp cả mắt. Mấy ngày sau, cơn dịch khóc đó lan sang sư 304 của anh em bộ đội khu 5. Chuyện đó làm mất tinh thần anh em dữ lắm, có một số đâm ra vô kỹ luật, rồi hũ hóa, ăn nói bạt mạng không ai chịu nổi. Phòng Chính Trị sư đoàn đành bất lực không giải quyết nổi vấn đề đó, báo cáo lên Tổng cục Chính Trị rồi Quân Ủy Trung ương Đảng. Cuối cùng Hồ chủ tịch phải xuống từng sư đoàn an ủi, ủy lạo, động viên chính trị mới tạm êm. Đồng thời, Bộ Tổng Tư Lệnh kèm theo biện pháp đối phó là thuyên chuyển, cắt xén, thay đổi toàn bộ tổ chức về nhân sự để cách ly anh em ra, không còn sống chung với nhau để khóc lóc, ăn vạ nhà nước nữa.

Ngừng lại một chút, Ba Biếu kể tiếp:

– Đấy, bắt nguồn từ nỗi nhớ nhung gia đình vợ con, quê hương miền Nam, nên từ đó anh em bộ đội miền Nam cứ đêm đêm là uống trà thật đậm để thức, ngồi nhắc nhở tâm sự với nhau về những kỷ niệm miền Nam. Lâu dần nó thành thói quen. Hồi số anh em cán bộ chiến sĩ đó trở về Nam hoạt động mấy năm nay, mang theo cái thói uống trà đậm, chiến sĩ trong này nó bắt chước, nó đi quá trớn, ý muốn bảo mình đây cũng có cái thói quen sinh hoạt chẳng khác gì cán bộ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Anh em họ hãnh diện về cái miền Bắc xã hội chủ nghĩa đó, ai ngờ cái tốt không bắt chước lại đua nhau tập cái thói quen, suy cho cùng chỉ đáng xấu hổ chứ vinh hạnh gì đâu!

Năm Râu thấy ngứa miệng:

– Thiệt anh! Tết năm đó tôi ở Sư đoàn 330, không biết mắc ông mắc cha gì mà xúm ôm nhau khóc, như đám ma cha mình. Cho đến cái hôm bác Hồ xuống thăm an ủi, động viên tụi này, mới thấy mặt ổng là một đứa òa lên khóc. Đứa nào cũng vậy, bụng bảo dạ là sẽ không khóc nữa khi bác tới, nhưng có một đứa khóc là cả Sư đoàn ồ lên khóc theo. Đứa hu hu, hi hi, ho ho đủ hết. Cái kiểu khóc tập thể nghe sao nó thảm quá chừng. Sau này, có mấy đứa nó làm thơ, nó ví tiếng khóc đó như tiếng sấm làm lung lay Hà-nội, làm Đảng và nhà nước mất ngủ bỏ ăn.

– Rồi bác Hồ thế nào? – Tôi hỏi.

Năm Râu cao giọng:

– Ổng khóc theo chớ làm sao!

Ba Biếu đưa gói thuốc ra trước mặt tôi:

– Hút thuốc anh!

Tôi nhón lấy một điếu châm lửa. Thuốc thơm này sản xuất ở Nam Vang nhưng cũng được chở lậu về Sàigòn bán đầy dẫy. Trong khi Ruby 15 đồng một gói, nó chỉ 10 đồng. Nhờ rẻ và hương vị chẳng kém Ruby bao nhiêu, giới ít tiền, bình dân, lao động tiêu thụ nhiều. Thỉnh thoảng tôi vẫn hút nó. Tôi hỏi Ba Biếu:

– Thưa anh Ba, trong này thuốc thơm chắc hiếm lắm. Ruby chắc cũng ít khi có?

– Không anh! Không hiếm đâu! Muốn mua bao nhiêu chẳng có. Chỉ có cái là tốn công đi xa. Còn Ruby cũng thiếu gì nhưng tại nó mắc hơn Ara nên không mua đó thôi. Anh nghĩ, anh em mình đi làm cách mạng, thoát ly gia đình, mỗi tháng chỉ có 25 đồng tiền sinh hoạt phí phải mua nào xà-bông tắm, xà-bông giặt, kem đánh răng rồi lưỡi dao bào cạo râu, đủ thứ vặt vạnh khác nữa. Chưa kể tiền trà lá, thuốc rê, đường… Những anh em có liên lạc được gia đình, gia đình tiếp tế cho thì không nói. Những anh em khác, hoặc vì gia đình nghèo, hoặc nhiều năm rồi không gặp gia đình thì anh tính xem tiền đâu hút Ara hay Ruby?

Năm Râu giải thích thêm cái khoản làm thế nào để mua:

– Vấn đề mua dễ ợt thôi, anh! Thượng vàng hạ cám. Ở đây anh muốn mua gì cũng có. Này nhé. một mặt cơ sở thu mua của U.50 họ mua dưới Sàigon, Bìnhh Dương hay ở đường 13, họ chở cam nhông về giao cho B4 cất giữ. Quản lý của đơn vị hàng háng đến mua lại, mang về chia cho anh em. Nếu không, mấy tổ tiếp phẩm của mỗi đơn vị, tự lực đi xuống đồng bằng hay đường 13, mua bán với đồng bào. Ngay những anh em đi công tác dưới đồng bằng như tụi tôi nè, ở nhà anh em nào cần gì thì gởi tìm, tụi tôi mua mang về dùm cho. Muốn rẻ thì vậy. Nếu không, qua bên kia hồ sông Bé, mấy cái quán ở Đất Cuốc, Nước Trong hay ở đồi Tam Điệp, những vật dụng cũng không thiếu món nào. Duy có cái là bọn con buôn đó, nó cắt cổ dữ lắm.

Tám Chi nãy giờ ngồi yên, nhai kẹo nhấm trà, giờ cũng lên tiếng. Luận điệu sặc mùi chính trị:

– Tôi cũng cần đả thông cho anh rõ. Cái chuyện thuốc thơm, cái chuyện ăn to xài lớn chỉ là bất thường. Khi nào có liên hoan, lễ lộc hoặc thỉnh thoảng có khách đặc biệt đến thăm, hoặc công tác tại đây. Hôm nay có anh đến, nên gọi là đặc cách chiêu đãi người xa. Đứng về phương diện lãnh đạo tư tưởng, Đảng không chấp nhận sự phung phí, xa xỉ. Dù rằng có nhiều đồng chí gia đình rất giàu, mỗi lần liên lạc gia đình đến thăm, có thể cho đến hàng năm bảy chục ngàn gọi là xài chơi. Đảng không cho phép các đồng chí đó nhận nhiều tiền như vậy. Vì có tiền thì tư tưởng nó cũng thay đổi. Nó biểu hiện tư tưởng ngại khó ngại khổ, tinh thần chịu đựng gian khổ kém, dễ mất lập trường, dễ bị địch mua chuộc, cám dỗ, lợi dụng. Nó còn gây nhiều ảnh hưởng không tốt khác đến tập thể, mất đoàn kết nội bộ, so sánh, suy bì v.v..Về việc hút thuốc, chỉ có thuốc rê, giấy quyến là trường kỳ. Chiến trường du kích, gian khổ mà…

Tôi hiểu những lời Tám Chi vừa nói. Và với cái vốn hiểu biết cũng như «nhạy cảm» của tôi, tôi còn có thể hiểu nhiều hơn, đo lường trước được những gì Tám Chi chưa nói hết, về tác phong, sinh hoạt, cũng như hành động thường ngày.

Kẹo trên bàn đã hết. Trà cũng nhạt màu, nước trắng nhách. Tám Chi kéo tay Năm Râu đứng dậy:

– Cậu xuống dưới này làm việc với tôi một chút coi!

Cả hai kéo nhau đi xuống nhà bếp. Sực nhớ lại mình, không biết kể từ hôm nay số phận tôi sẽ được định đoạt ra sao. Đây là B2, tức Ban Chính Trị của U.50, tức khu A. Tôi sẽ được phân công làm gì ở đây? Hiện tôi có thể nhận công việc nào phù hợp với khả năng mình?