Chương VIII (2) MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Còn hạng bẹt là lương cô giáo, thầy giáo cấp 1, cấp hai, cấp ba.. Cấp 1 là tiểu học từ lớp một đến lớp bốn. Cấp 3, cấp 3 là Trung học. Từ lớp năm đến lớp bảy thuộc cấp 2. Lớp tám đến lớp mười cấp 3. Lớp mười ngang với Tú tài toàn phần trong này đó.
Ngoài đó, cấp 1, cấp 2, cấp 3 đều gọi là cô giáo, thầy giáo. Chỉ có đại học mới được gọi là giáo sư. Lương cô giáo thầy giáo độc thân mới ra lò, khoảng 28 đồng, cho đến hơn 30. Kể ra cũng vừa đủ tiền ăn cơm..
À quên, phải kể lao công nữa chớ. Tức loại cu-li trong này đó mà. Tiền công mỗi ngày 8 hào đến 1 đồng 2 hào, tùy theo công việc nặng hay nhẹ. Chỉ có lương thợ chuyên môn trong xí nghiệp, đặc biệt dành cho công nhân mõ mới cao thôi.
Bước vào kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vấn đề sinh hoạt kinh tế nhà nước cũng bước vào chế độ mậu dịch quốc doanh, do nhà nước phân phối và kiểm soát. Nông nghiệp miền Bắc tiến lên Hợp tác xã.
Điều này tôi không nói chắc anh cũng rõ là ở giai đoạn «giải phóng dân tộc», tức chặng đường đầu của chế độ Cộng Hòa nhân dân, mục tiêu giải phóng tranh thủ độc lập.
Ở giai đoạn này căn bản của chánh sách kinh tế một nước nông nghiệp lạc hậu là vấn đề cải cách ruộng đất, san bằng ruộng đất, tịch thu, trưng thu của địa chủ, phú nông chia cho bần cố trung nông lớp dưới và thực hiện giảm tô. Nhưng bước qua chặng thứ hai, tức đã độc lập, chính quyền thuộc về ta do Đảng lãnh đạo thì kinh tế nông nghiệp phải bước sang hình thức khác, tức thủ tiêu quyền tư hữu ruộng đất. Tất cả ruộng đất phải tập trung vào Hợp tác xã cấp thấp hoặc Hợp tác xã cấp cao.
Những ruộng đã chia trước đây giờ tập trung vào Hợp tác xã do Đảng ủy địa phương lãnh đạo và quản lý. Mọi người đều trở thành xã viên. Tất cả mọi xã viên được tổ chức vào các đội sản xuất. Ai có đi làm thì được chấm công. Ai làm nhiều được chấm công nhiều. Ai không làm thì không có công nào hết. Cuối mùa thu hoạch, Đảng ủy địa phương quản lý số hoa màu thu được, trừ ra từ 15 đến 30 phần trăm đóng thuế nông nghiệp cho nhà nước. Số còn lại được quy ra tiền. Một phần để trừ những chi phí khác như mua máy móc, dụng cụ, phân bón v.v… Sau hết, còn lại bao nhiêu, theo bảng chấm công chia đều ra. Ai làm nhiều được chia nhiều, ai làm ít được chia ít. Ai không làm không được chia gì cả.
Mấy năm nay, vì nhu cầu chiến tranh miền Nam quá lớn, Đảng ta lại nghèo nên đề ra nhiệm vụ thắt lưng buộc bụng «nhịn ăn nhịn mặc» mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba, để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc. Hằng năm, mỗi hợp tác xã phải bán thóc thêm cho nhà nước đến mức tối đa để lấy thóc xay ra gạo, chuyển vào Nam nuôi bộ đội hoặc bán ra nước ngoài để lấy ngoại tệ xài vào những chi phí cần thiết khác như công tác ở ngoại quốc, nhập cảng những hóa phẩm cần thiết, công tác tình báo, quân báo, kinh phí chiến tranh miền Nam v.v…
Vì vậy, anh cũng rõ, đất miền Bắc là đất xấu, lấy mồ hôi nước mắt mới có thể đổi thành cơm. Có khi thiên tai, mất mùa không đổi được gì cả. Trung bình, mỗi năm dù làm đến ba mùa, đất không được nghỉ ngơi, người gần như không ngủ, kéo cày thay trâu, tát nước nhổ cỏ, bón phân xanh, phân màu, phân hóa học đủ thứ, mỗi gia đình miền Bắc chỉ có thể đủ ăn trong sáu tháng. Sáu tháng còn lại phải độn ngô, khoai sắn. Bây giờ, thi đua bán thóc cho nhà nước, số gạo dĩ nhiên phải sụt gấp đôi. Thay vì sáu tháng ăn gạo, thì sáu tháng ăn độn ngô, khoai, sắn hay rau muống. Sáu tháng kia phải ăn cháo, ăn ngô, ăn sắn hay rau cầm hơi.
Đồng bào ta ngoài ấy hy sinh như thế đó. Khổ cực như thế đó. Chính vì vậy ta phải giải phóng Miền Nam, phải hy sinh cho miền Bắc đánh gục Mỹ Diệm thống nhất đất nước.
Anh nghĩ thế nào? Đúng đấy chứ? Nhất định Đảng vô cùng sáng suốt, chỉ có Đảng mới lãnh đạo nổi cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam.
Hồi tôi còn ngoài ấy, thèm một chiếc xe đạp hết sức. Tôi phải nhịn ăn nhịn xài đến tám tháng mới mua nổi một chiếc xe đạp nội hóa do xí nghiệp Thống Nhất sản xuất. Nếu mua nhập cảng của Pháp có lẽ phải đến hai năm.
Đời sống khó khăn của miền Bắc đâu phải như trong Nam mình, cái xứ làm chơi ăn thiệt. Quanh năm, nằm ngủ cũng chẳng ai chết đói bao giờ. Ở Đồng Tháp, lúa không trồng vẫn mọc.
Chiếc xe đạp có giá trị như một chiếc xe hơi.. Vải vóc, khẩu phần mỗi người một năm chỉ được cấp phiếu mua bốn thước Nam Định nội hóa còn không có tiền mua thay.
Những năm ở miền Bắc sao mà nó dài quá, mình tưởng chừng một ngày dài bằng một năm. Không phải riêng tôi, mà tất cả anh em miền Nam tập kết đều thấy như tôi.
Vừa nhớ nhà, nhớ vợ, nhớ con, vừa cái khí hậu miền Bắc nóng, lạnh thái quá làm mình muốn điên lên, khó chịu hết sức, không ngủ nghê gì được.
Anh nghĩ xem, mùa lạnh như cắt da, cắt ruột. Lạnh đến nỗi nửa đêm thức giấc, mắc đái quýnh lên cũng không dám bò dậy đi đái. Vì ra ngoài thì trời gió lạnh không chịu nổi, thêm cái trở vô chỗ nằm hết ấm, vô phương ngủ. Ngủ mà không dám lăn, xoay trở, rờ tới đâu lạnh tới đó, lúc nào cũng phải khoanh tròn như con tôm kho tàu.
Mùa hè thì suốt đêm cứ cởi trần, quạt phành phạch mồ hôi cứ ướt lưng. Tắm hoài tắm hủy vẫn không mát. Ban ngày, đặc biệt nhất là gió Lào. Gió từ bên Lào thổi qua đó. Nóng điên đầu, nắng chang chang đổ lửa, mỗi cơn gió thổi qua như hắt cái lò lửa vô mặt mình.
Tụi này buổi trưa đâu có ngủ được. Mấy anh em mua một cây nước đá chặt ra bỏ trong cái chậu thau lớn để nó bốc hơi lạnh, ngồi vây quanh uống trà đá cho đỡ nóng. Vậy mà cũng chẳng ăn nhằm gì.
Anh em miền Bắc, họ quen cái khi hậu đó rồi chớ bọn mình vất vả lắm. Cho nên, như anh đã nghe Năm Râu kể đó, lúc tập kết ra Bắc, Đảng bảo chỉ hai năm sau là thống nhất đất nước, các đồng chí sẽ được trở về Nam. Nhưng tháng 7 năm 1956 đi qua êm ru chẳng nghe ai nhắc nhở nói gì đến việc Tổng tuyển cử, tụi này đứa nào cũng hoang mang xuống tinh thần hết.
Cái Tết đầu năm 1957, 1958 thật là hai cái Tết bằng nước mắt anh em bộ đội miền Nam. Tay nào cũng nhớ quê hương, một đứa khóc, rồi hai, rồi cả hai Sư đoàn 330, 338 ôm nhau khóc, khóc như cha chết không bằng. Trung Ương cử người đến thăm, ủy lạo, đơn vị kêu tập họp cũng cứ nằm lăn ra khóc, không còn ra cái thống…chế gì hết. Chính tình trạng đó đưa đến chỗ nhiều cán bộ, chiến sĩ sau này đâm ra hư, vô kỷ luật ăn nói vô tổ chức, chẳng còn nể nang trời đất gì hết. Cái phong trào uống trà đậm cũng đẻ ra từ nguyên cớ đó… Sau này Trung Ương phải thuyên chuyển hàng loạt, học tập, chỉnh huấn, động viên chính trị hàng tháng, nay hết Trung Ương Đảng, mai đến Võ đại tướng, sau cùng Bác tới trấn an mới lần lần dịu đi.
Cũng trong kỳ đó, nhiều thằng bỗng nhiên thay đổi hẳn tánh tình. Đứa giải ngũ đi làm thuê làm mướn, đứa chạy xe đò, đứa đi lập gia đình trốn ở biệt luôn.
Đến cái ngày mà tôi được gọi đến trình diện tại Tổng Cục Chính Trị và được phổ biến cho biết được chỉ định trở về Nam, tôi tưởng mình nghe lầm, ngỡ từ cung trăng rớt xuống. Cùng lúc với được phổ biến chỉ định đi chiến trường B. tức đi Nam, tôi cũng được phép nghỉ một tháng, được lãnh trước ba tháng lương và quyết định đề bạt lên một cấp.
Sau khi nghỉ hết phép, xài hết tiền lương thì được lệnh đến trình diện ở trại tập kết Xuân Mai, học tập sinh hoạt ba tháng nữa. Trong thời gian ở đây, tuy được hưởng chế độ sinh hoạt đặc biệt, ăn uống bồi dưỡng triệt để, nay được xem chiếu phim, mai được xem đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị trình diễn, bò heo ngã lu bù nhưng cũng vất vả còn hơn tù khổ sai. Ban ngày, ngoài những giờ học tập chính trị, kinh nghiệm chiến trường miền Nam còn phải tập mang gạch trên lưng chạy bộ, tập leo đồi, leo núi. Anh nghĩ hôm đầu mang năm cục gạch, hôm sau sáu cục rồi bảy cục, đến hai chục, chạy dưới nắng, leo đồi, có thánh cũng phải bò càng. Khổ nỗi là không tập cho quen thì không dược về Nam. Mở miệng rên cũng bị kiểm thảo nhận xét, giáng cấp đuổi về đơn vị khác. Vi phạm nội quy của Trại cũng vậy. Nhất nhất mỗi thứ, mình như cái máy, tuân theo răng rắc. Suốt mấy tháng ở Trại, ngoài những lần đi tham quan xí nghiệp, công trường với tập thể thì tuyệt đối không được bước ra đến cổng vệ binh.
Khi khởi hành, đi vào lúc nửa đêm, leo lên xe Molotova buông vải mui bít bùng, trên lưng chư vị nào cũng mang theo đồ đạc, hai mươi ít gạo, mấy lon lương khô, mấy hộp sữa, trà, đường v.v… cho tới nút áo, kim chỉ, đá quẹt, dầu hôi, tiêu hành, bột ngọt, túi thuốc cứu cấp, y như một cái tiệm chạp phô lưu động. Hai bên hông là hai cây súng lục, trên vai hai cây carbine, không carbine thì súng trường tiểu liên, có đứa phải vác trung liên, khiêng đại liên.
Bao nhiêu giấy tờ, kỷ vật đều bị bắt buộc bỏ lại miền Bắc. Nếu có mang thứ gì theo phải cạo bỏ xuất xứ sản xuất. Bút máy Hồng Hà, đồng hồ v.v… cũng vậy, bởi lệnh đã ra là phải giữ bí mật tuyệt đối, không để bất cứ một món gì có chữ hoặc có thể làm cho gián điệp Mỹ Diệm tìm ra đó là những cán bộ của Đảng từ Hà-nội xã hội chủ nghĩa vào Nam chiến đấu.
Đoàn tôi đi, xuống xe ở biên giới Quảng Bình – Lào. Con đường đó cũng là con đường của những đoàn về sau tôi đi qua. Ngày đầu lội bộ tụi tôi hăng lắm, phấn khởi lắm. Anh nghĩ, được trở về miền Nam, về quê hương của mình gặp mặt lại cha mẹ, vợ con, gia đình thân thuộc, làm sao không phấn khởi nôn nao.
Nhưng khi vượt qua ngọn đồi nghìn linh một (1001) tại biên giới Lào rồi vượt qua đồi tám trăm (800) ngày hôm sau, sự mệt mỏi, vất vả quá độ, nhuệ khí sút giảm hết ba chục phần trăm rồi đó. Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao mấy tháng trường ở trại tập kết Xuân Mai phải tập mang gạch leo dốc, leo đồi.
Suốt hai chục ngày đi đêm nghỉ trên đất Lào, xuôi Nam tụi này tưởng mình đi đâu đã xa lắm. Hai chục lít gạo mang theo ăn hết sạch. Hai chân mỏi như rụng, lê lết hết nổi. Rồi một số bắt đầu bị sốt rét phải bỏ lại trạm đường dây chờ tháp tùng vào đoàn sau. Vậy mà, khi đồng chí giao 1iên người Thượng cho biết phải hết sức cẩn thận, giữ bí mật vì đã lọt vào phần đất miền Nam rồi, hỏi ra tưởng đâu, ai dè mới tới Quãng Trị. Quãng Trị, Quãng Bình nằm kế nhau. Toàn rừng và rừng. Núi và núi hoang vu, không có một vết chân người.
Khi còn bên kia đất Lào, tụi này được nghỉ xả hơi ba hôm, để bồi dưỡng lấy sức, tổ chức ưu điểm để bù vào những ngày vất vả dọc đường. Chả là lúc lên đường nhà nước có cấp cho mỗi đứa tụi này gần ba nghìn bạc tiền miền Nam và một số tiền Lào nên việc mua bán vơi đồng bào Lào không khó khăn gì lắm.
Sau ba ngày nghỉ, mỗi người trong đoàn được lãnh thêm hai chục ngày gạo mới và được phổ biến cho biết tình hình đi đường từ đây rất găng. Vì đã xa miền Bắc xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp thực phẩm của miền Bắc không còn nữa, mỗi người đều phải trông cậy ở mình, tự lực lo lấy.. Đường sẽ đi là rừng sâu không có đồng bào ở, dù là đồng bào Thượng. Và có đồng bào đi nữa cũng cách xa các buôn nhiều ngày đường.
Những bài học về kinh nghiệm đi rừng trước đây ở Trại Xuân Mai, mỗi đồng chí phải mang ra áp dụng. Như cách tìm, nhận diện, xử dụng các loại lá cây rừng ăn được, các loại củ như củ chụp, củ năng, củ chuối. v.v… Đoạn đường đã đi qua so với đoạn đường sẽ đi tới chẳng thấm tháp vào đâu. Hiện tượng ngại khó, ngại khổ bắt đầu xuất hiện.
Chi bộ liền mở phiên họp để đả thông tư tưởng, đề cao kỷ luật, đề cao Đảng tính của người Cộng sản trong công tác lãnh đạo quần chúng cũng như đấu tranh cách mạng. Cuối cùng là hạ quyết tâm gửi thư gửi về Trung Ương.
Đoàn tôi đi vào mùa mưa. Việc đi đứng khi mang vác nặng, vượt dốc, đầy đá tai mèo, nhiều chỗ rêu trơn như mỡ, trời lại mưa tối mắt tối mũi. Không cần kể, anh cũng đủ hiểu nó gian khổ ra sao. Nhưng khổ nhất khi đến trạm đường dây, đóng quân nghỉ đêm. Nói là Trạm chứ có nhà cửa gì đâu. Chỉ là rừng. Trời tối om, đi chậm thì lạc đường, mất dấu người trước, đi lẹ thì vấp đá, rễ cây, nhào đầu không dậy nổi. Đến nỗi trời mưa như trút nước, đốt đèn không được, vừa lạnh run, vừa mỏi nhừ, không thấy đường để dọn chỗ căng nylon nóc, cũng không tìm ra chỗ để ba-lô xuống cho khỏi ướt đồ đạc, ướt gạo. Căng được nylon, giăng được võng, mặt đất đầy nước nổi lều bều, không còn chỗ nào có thể làm bếp để nấu cơm. Mà lấy củi khô ở đâu mà nấu? Mưa gió cứ đùng đùng. Đã hết đâu. Trong tình thế đó, vắt còn tấn công mình, bò lễnh nghễnh như bầy kiến, rồi mối càng, kiến nhọt, còn cái nỗi sợ rắn, rít nữa chớ!
Trên đường đi, việc nấu ăn thì mỗi người có mang theo hai cái hăng-gô. Mỗi người tự nấu lấy, vừa cơm ăn bữa chiều, vừa cơm dở cho buổi sáng ngày sau, cơm vắt mang theo cho buổi trưa. Nấu cơm xong phải nấu nước đổ đầy vào hai bình ton để ngày mai uống dọc đường. Sáng ngủ dậy, ăn vội ăn vã lên đường ngay còn chửa kịp thì đâu nấu nướng hay chuẩn bị gì nổi. Còn lên đường thì cứ đi suốt ngày, mỗi giờ nghỉ mười phút, thở còn không kịp thay
Cho nên dù gì thì gì, bất cứ với giá nào, mệt mỏi vất vả đến đâu cũng phải quơ củi, vo gạo, nổi lửa nấu cho xong ba bữa ăn, đầy hai bình ton nước, ăn uống xong mới được leo lên võng. Ngã lăn ra ngủ là bất biết.
Có bữa, tụi này phải trần truồng như nhộng. Đứa đứng che nylon cho mưa đừng tạt, đứa thổi lửa phù phù cho cháy nấu chín mấy hăng-gô cơm, nước dưới chân nổi lều bều, chảy như suối. Ui chao! Giờ nhắc lại với anh tôi còn thấy hãi hùng.
Vượt qua quốc lộ 9, đến địa phận Thừa Thiên, tụi này mới bắt đầu đói. Đói thật sự. Hỏi Trạm, Trạm không có gạo. Nhờ mua hộ thì Trạm bảo các đồng chí ấy còn đói không kiếm ra được gạo thay, mua hộ ở đâu bây giờ? Đồng bằng thì cách xa hàng chục ngày đường. Buôn của đồng bào Thượng gần lắm cũng phải mất ba ngày.
Ở Trạm này, các đồng chí giao liên Thượng bảo: «Thằng bộ đội tới trạm bên kia có gạo ngay». Thằng bộ đội hy vọng tràn trề, nhưng khi tới Trạm kế thì lại chỉ tới Trạm kế nữa. Khi gạo trên lưng còn 5 lít, tụi này đã bắt đầu hạn chế, chỉ nấu cháo để hy vọng kéo dài ngày ra. Cho đến lúc chẳng còn hột nào cũng vẫn không sao đào đâu ra gạo. Cài màn chia nhau đi đào củ chụp, củ năng bắt đầu. Nhưng đâu phải chỗ nào cũng có củ chụp, củ năng.
Mãi cho đến lúc vào đến chiến khu Đổ Xá mới được tiếp tế gạo. Khổ nỗi, nhịn đói vì không gạo mà thú rừng đầy dẫy cũng không được bắn mới chết chớ. Tới Trạm nào cũng bị mấy đồng chí giao liên Thượng họ hù. Nào «Thằng Quốc Gia ở gần lắm. Thằng bộ đội không được nói chuyện, không được bắn. Bắn súng thằng Quốc Gia biết liền, tới đây giết thằng bộ đội. Thằng Đảng cấm đó». Hoặc «thằng Quốc Gia mới đi ngang qua suối chỗ kia hồi sáng. Nó còn ở gần đây». Rồi «ở đây không an ninh. Thằng bộ đội có ngủ phải ngủ một con mắt thôi. Súng phải thế này này để thằng Quốc Gia có tới, bắn lộn với nó».
Mấy ông nội Thượng họ nói chuyện theo cái kiểu đó, làm mình nôn ruột, phát tức với họ. Ngay chuyện đi đường, mình hỏi thăm chừng nào tới chỗ nghỉ, mấy ông nội đó, ông này thì: «Đồng bào không có nói, thằng bộ đội đừng có hỏi». Ông kia lại cười toét miệng: «Trước mặt kia, còn quăng rựa thì tới». Mình tưởng thiệt, trước mặt kia, cầm cái rựa quăng cái rựa rớt chỗ nào là chỗ đó. Ai dè đi từ trưa cho tới tối mịt cũng chưa được nghỉ, hỏi ra «quăng cái rựa» của họ là vác rựa trên vai đi chừng nào vác cái rựa không nổi nữa quăng xuống thì tới. Chết cha chưa. Vác cái rựa không nổi, một ngày đường hãy còn ít.
Có tay ngô nghê hơn, nhưng ngô nghê kiểu của họ cũng đủ chết mình, không biết đâu mà mò. Hỏi họ còn gần xa, họ nói:
–Thằng bộ đội đi mau thì tới trước mặt trời, đi chậm thì tới sau mặt trời.
Đến Đổ Xá, đoàn tụi này được nghỉ bồi dưỡng bốn hôm, rồi lại cụ bị lên đường bò sang đất Lào lần nữa để đi vào vùng ba biên giới Kontum. Cái đám Lào tụi nó đánh đấm nhau thiệt mình không sao hiểu nổi. Như cái hôm tụi tôi đến một làng ở giữa Thà Khẹt và Savavane. Gặp một trận đánh bất ngờ, giữa Pathet Lào và đám Hoàng gia. Hai bên bắn nhau tối trời tối đất chừng hai chục phút thì ngừng. Thấy êm, tụi này rời chỗ núp, cho tổ trinh sát tiền vệ dò dường. Lát sau trinh sát về báo tụi Hoàng gia chạy hết rồi, phía trước lố nhố khoảng một trung đội Pathet Lào thôi. Thế là tụi này đi tới.
Anh biết tôi thấy gì không.? Trên một cây me sát đường đi, trên ngọn thì hai chú lính Hoàng gia đang hái me cười chí chóe. Ở giữa cây me thì một chú Pathet cũng ung dung hái me liệng xuống cho một chú khác dưới đất lượm. Hai bên gốc me là hai nhóm súng. Nhóm bên này một “mút” Mỹ tự động với một cây “cạc-bin”. Nhóm bên kia là hai cây trường bá đỏ.
Anh coi chịu nổi hông? Mới bắn nhau bể đầu sứt trán ra đó. Hết bắn nhau,là huề, coi như không có chuyện gì xảy ra, tỉnh bơ leo chung một cây me, súng bỏ đại dưới đất.
Vào đến địa phận Kontum, tụi này tính ra đã đi mất hết bốn tháng rưỡi kể từ ngày rời Hà-nội. Và kể từ Kontum, cái đói, cái vất vả với sốt rét nó còn ác liệt gấp mấy lần đoạn dường ngoài kia. Cho đến khi qua sông Đồng Nai vào khu A, mảnh đất đầu tiên của Nam bộ, đoàn của tụi tôi đã đi tới 9 tháng 14 ngày. Lúc ở Hà-nội ra đi quân số của đoàn là 130 người. Về đến khu A chỉ còn có 46 mạng. Số còn lại, trừ 3 mạng chết vì sốt rét, 1 mạng chết đuối ở sông Bahr, 2 mạng chết vì kiệt sức trên đường hành quân. Còn bao nhiêu thì lớp bị sốt rét, lớp kiệt lực rơi rớt ở mấy trạm dọc đường.
Cũng may, dọc đường, tụi này được lệnh tránh né, tháo chạy mỗi khi gặp địch nên không có ai bị thương vong vì chiến đấu như một số đoàn khác về sau. Vậy mà còn có bấy nhiêu đó. Tôi nghĩ đến lời đồng chí Lê văn Lương, Ủy viên Trung Uơng Đảng, hôm đến thăm và đả thông tư tưởng tụi này tại trại tập kết Xuân Mai. Đồng chí ấy bảo:
– Đảng không cần các đồng chí chiến đấu dọc đường. Các đồng chí không cần phải làm một công tác nào khác. Có thể nói chuyến đi Nam của các đồng chí ngang hàng với cuộc vạn lý trường chinh của Hồng quânTrung quốc tiến về căn cứ địa Cách mạng Diên An. Chỉ cần các đồng chí đặt bước chân đến bên kia sông Đồng Nai đã là một thắng lợi vĩ đại, phi thường rồi. Thắng lợi vĩ đại của các đồng chí cũng là thắng lợi vĩ đại của Đảng. Đảng chỉ cần có thế. Các đồng chí là những cán bộ ưu tú của Đảng, nhiệm vụ các đồng chí ở cuộc Cách mạng miền Nam…
Anh Ba à, Tam Chi cũng ngứa miệng góp vào, nghĩ lạ lúc bọn mình về Nam thiệt «quá cỡ thợ, mộc». Tụi mình thuộc loại đi dọn đường, chớ như mấy đoàn sau này, về năm nay, đã không phải chịu đói, lại đi mau hơn. 5 tháng về tới trong này. Đoàn anh em đi về sau tôi, chỉ hơn 9 tháng. Còn đoàn A 9 của tôi, kể từ ngày vượt biên giới Quảng Bình cho tới lúc đặt chân lên đất Đồng Nai những 14 tháng 3 ngày thì sao?
Hồi lúc đi, tôi lén đem theo được một tập giấy pelure ba trăm tờ, nhất định tranh thủ thời giờ viết nhật ký, ghi lại cảm xúc và những sự kiện xảy ra trên đường đi để cho con cháu mình sau này nó đọc, nó biết ông cha nó ngày trước gian khổ như thế đó. Vậy mà suốt 14 tháng 3 ngày, không viết nổi một chữ làm thuốc. Anh nghĩ, tay chân giở không nổi thì còn viết cái gì?
Nhắc tới những năm ở miền Bắc, à! Anh Ba, anh nhớ chuyện thằng Đồng văn Đe con anh Bảy Cống chớ? Thì cái thằng đó, nó làm anh Bảy Cống lên ruột, thiếu điều lạy nó, lên ruột từng chập. Cha thì Đại tá, Sư trưởng Sư đoàn 330, còn con cũng «Tư lệnh» của cái đám học sinh trường Miền Nam ở Hà Đông.
Năm đó là năm 1958. Toàn quân vừa mới được phong quân hàm xong. Trường miền Nam tức là trường cấp 2, cấp 3 duy nhất dành riêng cho con em miền Nam tập kết ra Bắc.
Lúc đó, tôi đang công tác tại Phòng Chính Trị Sư đoàn 330. Một buổi tối, tụi này đang tập trung trước sân xem chiếu phim «Vợ chồng A Phủ» thì tôi thấy đồng chí chỉ huy trưởng vệ binh từ ngoài cổng hớt hơ hớt hãi chạy vào kiếm anh Bảy Cống.
Tôi hỏi có chuyện gì cần thì đồng chí ấy bảo Thiếu Tướng Trần văn Trà từ trên Tổng Cục Chính Trị đi xe Volga đến, đang chờ gặp Đại tá Thủ trưởng Sư đoàn ngoài cổng. Có chuyện thượng khẩn.
Mười một giờ đêm, buổi chiếu phim bế mạc thì mấy anh em văn phòng Bộ Chỉ Huy xì xầm cho biết: Thiếu Tướng Trần văn Trà vừa đón anh Bảy Cống đi Hà Đông có việc khẩn cấp, phải giải quyết ngay trong đêm. Hình như có một vụ nổi loạn lớn lao do bọn phản động và biệt kích miền Nam cầm đầu. Tôi ngạc nhiên hết sức, nhưng thắc mắc, nửa tin nửa ngờ. Vì nếu một biến cố quan trọng như vậy, đang đêm Thiếu Tướng Trà xách xe đến chở đi thì một mình anh Bảy Cống đâu giải quyết được. Ít ra anh Bảy cũng ra mệnh lệnh điều động cấp tốc một E nếu không cũng một D (Trung đoàn, Tiểu đoàn ) hành quân ngay. Đằng này, anh Bảy chỉ đi một mình, không có cận vệ đi theo.
Khuya hôm đó, anh Bảy về đến doanh trại, tụi này thức dậy đổ xô tới hỏi thăm tình hình, chẳng có đám biệt kích, phản động nào hết. Chỉ có mấy ông nội con nít học sinh trường Miền Nam, do thằng Đồng văn Đe, con ảnh, chỉ huy làm giặc.
Chả là trước khi học sinh toàn trường xuất phát tham gia công tác cải cách ruộng đất, tụi nó họp lại liên hoan, tổ chức ăn uống. Tụi nó ăn trộm, cướp không heo gà của hợp tác xã địa phương. Dân quân địa phương vác súng rượt tụi nó, tụi nó trở lại vây dân quân tước súng. Đảng ủy địa phương hoảng quá, báo cáo hỏa tốc lên trên. Một mặt phái cán bộ tới giải quyết, tụi nó đóng cửa trường không cho vào, lại còn tổ chức phục kích bên ngoài, ra tước súng thiên hạ nữa chứ!
Chưa hết, kinh khủng hơn hết là vụ nhân cơ hội đó, tụi nó, muốn tập trận, đánh thử với bộ đội chú bác của tụi nó coi ai giỏi hơn. Ở tại địa phương, có một đơn vị chính quy của quân khu Tả Ngạn về đóng quân tại nhà đồng hào công tác, vận động phong trào cải cách ruộng đất tại địa phương. Tụi nó vừa vây dân quân tước súng, bắt dân quân về trường nhốt xong, sợ mấy chú mấy bác bộ đội hay, vác súng tới trường nẽ đầu nên ra tay trước. Đằng nào cũng lỡ rồi. Trót leo lên lưng cọp, trót trộm gà, trót tước súng gây hấn với địa phương, thế nào bộ đội cũng đến…
Tụi nó âm mưu ra tay trước, nên cả mấy trăm đứa giả vờ đến mấy nhà bộ đội đóng, vào chơi, cười toe toét làm bộ đòi coi súng, mang súng. Học trò miền Nam vốn là con cưng của Đảng mà, ai lại không có cảm tình, ai mà nghi ngờ gì. Ai dè nhân dịp đó, tụi nó vác súng chạy luôn về trường! Bộ đội rượt theo, tụi nó bắn chỉ thiên trở lại đùng đùng, mấy chú mấy bác xanh máu mặt, bò lăn ra đất tránh đạn, đành chịu mất súng, khóc ròng.
Có súng, có đạn rồi tụi nó hí hửng làm như đám giặc thật. Cũng phân công đi trinh sát, canh gác, phục kích đầu này, dàn mặt trận chỗ kia..
Quân Khu Tả Ngạn nhận được báo cáo, hoảng hồn lên. Vừa giận, vừa tức nhưng cũng cười bò ra, lắc đầu chịu phép mấy thằng con nít Nam Bộ. Trung Ương Đảng, Chính phủ cũng nhận được báo cáo nhưng không biết giải quyết bằng cách. nào. Cán bộ tới «điều đình» thì tụi nó tước súng đuổi về bảo:
– Chỗ này là mặt trận. Mấy chú đừng có tới. Bộ Tư Lệnh tụi cháu ra lệnh rồi. Không tiếp ai hết. Không cho ai vô hết. Muốn gì thì chú Giáp viết thơ mở hội nghị ký hiệp định đình chiến.
Anh coi nó nói vậy thì còn trời đất gì nữa! Bộ đội chú, bộ đội bác nó kéo tới hằng hà nhưng ở cách xa cả cây số không dám lại gần. Bắn nó thì không dám bắn. Cho nên tụi nó cứ làm già, bắn dọa, rượt bộ đội chạy mờ. Còn cái nỗi, tụi nó chơi như thế, kéo dài, vỡ lỡ ra bọn Mỹ Diệm ở miền Nam hay được, khai thác làm tùm lum lên thì còn gì là uy tín Đảng, uy tín nhà nước?
Ở trên cho người tới hỏi, ai là «Tư lệnh» chỉ huy «bộ đội» học sinh miền Nam? Tụi nó bảo Đồng văn Đe con ông Tư lệnh Đồng văn Cống Sư 330. Cho nên, nửa đêm Thiếu tướng Trần văn Trà từ Tổng Cục Chính Trị xuống kiếm anh Bảy Cống, chở ảnh tới «Mặt Trận» Hà Đông.
Hì hì!… Cắc cớ hết chỗ nói. Ảnh lái xe chưa tới trường bị tụi nó chận lại chĩa súng. Ảnh nói:
– Bác là cha của thằng Đồng văn Đe đây! Mấy cháu đừng làm vậy không nên.
Tụi nó cười, nói hổng biết, để hỏi lại ảnh. Bác là bác Bảy Cống hả? Bác về đi, anh Đe ảnh dặn chừng nào chú Giáp tới, ảnh mới tiếp. Thôi để sáng mai đã. Bây giờ tối, ông Tư lệnh tụi cháu còn ngủ.
Rốt cuộc, anh Bảy Cống nói gì thì nói, tụi học sinh miền Nam nhất định đuổi anh về. Ngày sau, ảnh trở lại, viết một bức thư nhờ đám học sinh gác ngoài đưa vào cho thằng Đe. Ảnh bảo nó phải ra đón ảnh vào xin lỗi, phải giải tán, vác súng đem trả lại cho mấy chú bộ đội. Phải làm bản tự kiểm thảo, thành khẩn nhận lỗi lầm, ăn năn xin Đảng, Bác, nhà nước và chú Giáp tha tội ngỗ ngáo, vô kỹ luật kia. Nhưng thay vì nó làm theo thơ của cha, nó lại viết thư trả lời là nó cũng có quân đội, nó là Tổng Tư Lệnh. Bây giờ đang chỉ huy binh sĩ, nó phải gác tình cha con. Sướng chưa! Nó ký tên trong thư là Tổng Tư Lệnh. Anh Bảy Cống phải nhân danh Tư lệnh 330, nói chuyện thương thuyết bình đẳng nó mới tiếp.
Anh Bảy Cống lộn ruột lên, đành phải viết thơ theo cái kiểu của nó đưa ra rồi dẫn theo hai chú cận vệ đến trường Miền Nam để gặp ông Tư lệnh con. Thằng Đe cũng mang súng lục đón ảnh tại văn phòng nhà trường. Bọn nó cả chục đứa.
Nó tưởng ảnh vào «đất địch» lại chỉ có hai ngoe cận vệ chắc cũng chẳng làm gì nổi nó. Ai dè vừa gặp mặt nó, bất ngờ ảnh nện cho một bạt tai chúi nhủi, rồi thộp cổ nó, móc súng chĩa vô hông nó, bảo đứa nào rục rịch thì ảnh bắn chết thằng Đe. Tụi kia không kịp phản ứng mà dù có phản ứng cũng không biết phản ứng ra sao, ngơ ngác nhìn anh Bảy Cống lôi cổ thằng con ra khỏi cổng trường đem lên xe. Ảnh đập nó thừa chết thiếu sống, bắt ra lịnh giải tán đám học sinh Miền Nam, cho bộ đội đến tước khí giới. Sau đó, đưa nó về Hà-nội «trói mình» chịu tội trước Đảng, Bác, Chú Giáp v.v…
Làm anh Bảy Cống ảnh cũng hết hồn, tưởng chuyện đó hậu quả của nó kinh khủng lắm. Ai ngờ Võ đại tướng sau khi nghe nó nói chuyện về điều binh khiển tướng học sinh, lập mặt trận v.v… thấy thằng quả thiệt có tài… quân sự nên sau đó cho nó đi học phi công, lái phi cơ Mig ở Liên Xô. Bây giờ… bây giờ nghe nói đâu nó đã là trung úy phi công rồi. Cậu ta mới bị cảnh cáo và cấm bay, vì năm ngoái đây, ba gai bốc đồng lái phi cơ Mig 17 bay tuốt vô Nam, tính về Bến Tre sao đó, bị phi cơ Mỹ rượt phải bay tuốt ra biển, chút nữa đã bị bắn rớt cắm đầu xuống biển Nam Hải. Thoát được về đến Đồng Hới, xăng không còn một giọt. Vậy mà hổng cảnh cáo sao được. Cái thằng thiệt trật búa, ba gai số một thế giới. Mình nghe vừa tức cười nhưng cũng phải nể mặt, đầu hàng.
Nhắc tới những giai thoại về cán bộ miền Nam mình tập kết ra Bắc thì thiệt không biết bao nhiêu là chuyện. À, anh Ba, mấy năm hồi còn ở ngoải, anh có gặp bà Bi thường không anh Ba? Chị Trần thị Bi, Tiểu đoàn trưởng thuộc chi đội 16 cũ của anh Ba Tô Ký đó! Ờ, ờ! Quên nữa, anh cũng thuộc chi đội 16 của anh Ba Tô Ký, anh biết rành chị Bi quá mà!
Cái chị đó tệ thiệt. Bê bối quá, chớ không thì chỉ được bầu làm anh hùng quân đội toàn quốc rồi. Thôi, chiến sĩ thi đua toàn quốc cũng đã được Đảng chiếu cố quá mạng!
Hồi còn ở phân liên khu miền Đông, được nổi danh tại vì phụ nữ mà mang súng, chỉ huy đánh giặc, bận đồ lính là điều ít có. Thiệt, phụ nữ mà bận quân phục, thắt 1ưng xề xệ, hai bên hông hai cây «con đui» (colt 12), lại to con, coi cũng oai dữ chớ. Tuy chỉ chưa điều khiển đánh trận nào coi cho được, nhưng dám ra trận bắn súng lia lịa, chiến sĩ thi đua cũng được đi. Phải không anh Ba?
Hồi chỉ tới 330 thăm tụi tôi, chỉ cũng bận quân phục, mang quân hàm Đại úy, súng lục cũng xề xệ bên hông. Có dở cái là ăn trầu liền miệng. Bận đồ lính, mang súng lục mà đi đâu, cận vệ cũng xách theo giỏ trầu, miệng cứ nhai nhóc nhách, coi chẳng ra cái «thống chế» gì hết. Lại bê bối về quan hệ nam nữ… Trước đây đã ly dị chồng rồi thì thôi, già rồi, mặt mày nhăn nheo rồi, tóc muốn trổ muối tiêu hết rồi, ta ở vậy cho xong đi, không chịu, cứ hú hí đeo mãi cái thằng cha trung úy, trung úy tên gì nhỉ? Trẻ hơn chỉ, đáng tuổi em út. Chính thức thì không chánh thức, mà cái gì cũng hổng ra cái gì cho nên tiến bộ hổng nổi. Hồi năm ngoái, chỉ cũng còn mang quân hàm đại úy. Phải hổng bị cái vụ đó, bây giờ dám lên tới thượng tá chớ chẳng chơi. Mới đây, anh em mới về hôm tháng trước cho biết chị Bi được đề bạt lên thiếu tá rồi.
Kể ra Đảng cũng thương tình, chẳng lẽ nhốt mãi cái quân hàm đại úy. Dầu sao đi nữa, cán bộ lâu năm mà tuổi Đảng cũng cao…
Đối với mấy anh em Nam bộ mình ở 330 hay 338 chỉ cũng điệu nghệ lắm. Có một lần, đầu tháng lãnh lương xong, gặp tụi này cả chục đứa đang «ba hoa xích thố» với nhau ở công viên Thống Nhất, một đứa nhảy chồm chồm với chỉ:
– Chị! Chị đãi tụi này một bữa đi chị! Em út lâu ngày mới ở doanh trại ra, đương đói nè chị.
Chỉ hỏi:
– Đãi thì đãi! Nhưng mấy cậu, cậu nào cũng mới lãnh lương hết mà.
Tụi này phân bì:
– Nhưng đâu bằng lương Đại úy của chị.
Bữa đó dẫn chỉ tới Phú Gia! Phú Gia là nhà hàng ăn sang trọng nhất miền Bắc, chỗ dành cho các cán bộ cao cấp, lãnh lương cỡ chuyên gia trở lên hay khách khứa ngoại quốc nhiều tiền mới dám vào. Tưởng chỉ từ chối hay phàn nàn gì. Đàng này chỉ cười hề hề:
– Phú Gia thì Phú Gia! Cũng vì Phú Gia mà cái danh «Anh Đội Miền Nam» nổi như cồn và Bác đã chẳng hỏi mấy cậu lần vô thăm 330 năm ngoái:
– «Các chú còn bán quần áo của Đảng cấp cho để uống chè, hút thuốc Thăng Long và ăn ở Phú Gia nữa thôi»?
Cho đến cái việc Bác nói:
– «Các chú miền Nam thì đánh giặc giỏi nhưng làm công tác tài chánh phải nhường cho các chú ở Khu 5. Thực là hai thái cực trái ngược, cái nào cũng không tốt, cần phải học tập, sửa chữa lại. Các chú hoang phí lắm, có khuyết điểm bừa bãi, không biết tiết kiệm. Lương lãnh ra chưa được nửa tháng đã tiêu hoang ở Phú Gia, hay các hợp tác xã ăn uống hết rồi. Nửa tháng sau không còn tiền uống chè, hút thuốc lá, các chú lại đi bán đồng hồ, bán đồ vàng kỷ niệm của gia đình tặng cho, còn bán cả quần áo Đảng cấp cho các chú mặc nữa. Các chú Khu 5 ngược lại, tiết kiệm quá mức, nhịn ăn nhịn mặc để tiền mua vàng, mua đồng hồ để làm kỷ vật, quần áo của các chú rồi bán ra với giá hời, hoặc gởi vào ngân hàng cho vay. Như vậy cũng khuyết điểm. Lương phát cho bộ đội là lương cao nhất. Đảng nhắm vào mục đích giúp các chú có phương tiện ăn uống đầy đủ, bồi dưỡng sức khỏe để phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng tốt hơn, đâu phải để mua vàng? Tiêu hoang cũng khuyết điểm; tiết kiệm quá hóa ra hà tiện cũng khuyết điểm. Các chú nhớ sửa chữa».
Mà thiệt, anh em miền Nam mình, tay nào cũng có cái máu xài hoang. Không biết làm sao ông già biết rõ cái chuyện cuối tháng bán áo, bán quần của tụi mình để uống trà? Hay thiệt! Mấy ông Khu 5 chỉ có biết mua vàng tích trữ, nhịn ăn, nhịn uống, nhịn chơi được cũng phục thiệt. Cho nên, Đảng bao giờ cũng giao cho mấy anh Năm Eo làm cán bộ tài chánh.
Anh Hùng ngạc nhiên cái danh từ «Năm Eo» hả? Bộ đội miền Nam mình hay ngạo mấy chư vị Khu 5 dành tiền mua vàng, không biết để làm «nhà mả táng xa» gì mà không dám uống trà, ăn ngon chỉ biết uống nước lạnh và rau muống nên có danh từ Năm Eo. Gặp mấy tay Khu 5 kêu là Năm Eo, mấy tay đó tức lắm, mặt đỏ như cắc kè lửa, gây sự ngay. Nhưng mấy cha đó đánh đâu có lại cái đám du côn Nau bộ nên chỉ có nước đem ra phê bình, phản ảnh lên Trên kiểm thảo. Phê bình, kiểm thảo thì nhận khuyết điểm có lỗ lã gì. Còn chất vấn hỏi tại sao gọi là Năm Eo, mấy chư vị Nam bộ giải thích, bảo gọi mấy đồng chí là Năm Eo vì mấy đồng chí ở khu «Năm». Trên bản đồ Việt Nam, khu «Năm» là khu xương sống không có thịt, gầy gò, eo thắt lại, từ biển đến biên giới Lào, có chỗ không đầy ba chục cây số. Đâu như Nam bộ hay miền Bắc, bề ngang dài hàng trăm cây số. Vậy là huề cả làng. Năm Eo cứ gọi Năm Eo, nhưng bị chỉnh quá, trước mặt mấy «anh em» không dám gọi, gọi sau lưng thôi
Cái chuyện ăn ở Phú Gia, thiệt chỉ có cái đám Nam bộ mình, xài bạt mạng mới dám vô thôi. Hồi mới ra miền Bắc có một lần mấy anh em Tiểu đoàn 307 cũ, chắc lần đầu tới đó. Bốn chư vị mới lãnh lương xong đi chơi Hà-nội, quần áo thì như đồ ăn xin, mặt mày ngơ ngáo kéo nhau vô Phú Gia ngồi như bốn ông tướng cướp. Mạnh tay nào tay nấy kêu món ăn. Ăn thì gọi toàn mấy thứ đắt tiền, bồ câu, bào ngư, vi cá. Rượu thì gọi Martel chính cống của Pháp.
Nhà hàng họ hoang mang, không hiểu bốn «anh đội miền Nam» như bốn thằng ăn mày, khố rách áo ôm này làm gì có tiền mà dám chơi kiểu đó? Hễ gọi món ăn, goi rượu phải đem ra. Bốn ông tướng. ông nào cũng súng lục kè kè, sĩ quan mà, không đem ra lỡ mấy ổng nổi nóng bắn bậy làm sao? Còn đem ra thì sợ ăn quỵt không tiền trả.
Nhà hàng xì xào một hồi, rồi họ cũng mang ra đủ hết nhưng ngầm cho người đi báo đồn công an vũ trang tình hình kể trên. Thế là hai ông công an vũ trang tới Phú Gia ngồi chong ngóc như hai ông thần đất ở bàn ngoài canh chừng. Vì công an vũ trang, ngoài cách ngồi chờ ra đâu có lý do nào khác để can thiệp, không cho người ta ăn. Chừng nào ăn xong người ta không trả tiền mới can thiệp được chớ.
Bốn chư vị này ngồi ăn cả hai tiếng đồng hồ, no bụng phè phởn rồi tới chừng đứng dậy, một cậu móc bóp ở túi quần đứt nút của mình ra, kêu nhà hàng tính tiền. Hỏi tất cả bao nhiêu, nhà hàng cho biết hơn 110 đồng, lẻ mấy hào. Số tiền đó lớn lắm, gần bằng hai lần lương của một kỹ sư hay bác sĩ mới ra trường. Hai ông công an vũ trang mặt mày khẩn trương hết sức, đứng dậy như thể xông vào, chờ xem mấy ông này làm sao. Còn mấy người trong nhà hàng thì lố nhố nép mình ở chỗ cửa ra vô sau quày, lấm lét theo dõi.