Chương VIII (3)
Cậu lính nhà ta nhướng mắt, móc bóp lôi hết tiền ra đếm hết giấy hai chục, giấy năm đồng, một đồng thì vừa đủ để trả. Chỉ nội cái việc có đủ tiền để trả, chịu trả một cách bình thản như vậy cũng đủ làm cho nhà hàng và hai đồng chí công an vũ trang ngạc nhiên quả đổi rồi, trơ mắt ếch ra nhìn. Đến nỗi anh Ba Tàu chủ nhà hàng, khi đếm tiền còn run run thì biết.
Nhưng cũng chưa hết ngạc nhiên đâu. Tiền trả còn thừa lại 7 hào, chủ nhà hàng thối lại, bốn cậu lại bỏ luôn trên bàn không lấy, cười mỉm chi cọp, tà tà đi ra bảo «buộc boa» cho công nhân nhà hàng. Bảy hào nhiều lắm chớ bộ ít sao anh! Trả được bốn lần hớt tóc đó!
Hai ông công an vũ trang cho đến cả chủ nhà hàng Phú Gia, ai nấy như trên trời mới rớt xuống, chết đứng không được tiếng nào.
Vì vậy, vụ đó được đồn đãi ra khắp Hà-nội, rồi khắp miền Bắc không ai là không biết. Cho nên từ đó về sau, mấy nhà hàng ăn, mấy hợp tác xã ăn uống, thấy «anh miền Nam» ghé vào dù là quần áo như xơ mướp đi nữa, họ cũng sáng rỡ lên, tíu tít chiều chuộng đủ thứ.
Thấy mọi người ai cũng vui vẻ góp chuyện, Bảy Cà cũng hả hê góp chuyện. Nhưng có lẽ vì «công tác chính trị» là nghề nghiệp chuyên môn, bất kỳ ở trường hợp nào cũng không quên được «vai trò giáo dục, lãnh đạo» của Đảng, cũng như bao giờ lập trường giai cấp cũng phải luôn luôn được đề cao, nên Bảy Cảnh vào đề bằng hình thức «giữ đúng đường lối Đảng».
– Tôi nghĩ chính sách của Đảng áp dụng ở miền Bắc hết sức tài tình, nếu không phải được soi rọi bằng tư tưởng Mác Lê thì không sao tài tình, hay đến như vậy được. Ngay như vấn đề chính sách của Đảng đối với tôn giáo trên toàn miền Bắc, thật không ai có thể trách. Chính bọn đế quốc muốn xuyên tạc lắm mà cũng không sao xuyên tạc nổi.
Sau cái lúc «phóng tay cải cách ruộng đất» đi qua, rồi «phong trào sửa sai», Đảng đưa nông thôn miền Bắc cũng như chính sách kinh tế đi vào con đường xã hội hội chủ nghĩa. Hợp tác xã cấp cao, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã kiểu mẫu, mậu dịch quốc doanh, hệ thống bách hóa, nhất là chế độ kiểm soát phân phối, cung cấp do Đảng lãnh đạo, chỉ trong thời gian ngắn, bộ mặt miền Bắc thay đổi ngay. Bọn phản động, phản cách mạng dù có ba đầu sáu tay cũng đành chịu phép, hết cựa quậy.
Anh Ba với anh Tám còn nhớ cai vụ đổi tiền trong vòng một ngày đó chớ? Phục thiệt! Bí mật hết chỗ nói. Ngay như bộ đội mình, ngày mai đổi tiền, tối nay mới được phổ biến cho biết. Còn nhân dân thì sáng mai, sau khi ngủ thức dậy, súc miệng rửa mặt mới hay qua đài Phát Thanh hoặc loa của xã. Thời gian được đổi tiền chỉ trong vòng 12 tiếng đồng hồ là hết hạn. Số tiền ít thì được đổi tại xã, nhiều hơn một chút lên huyện, lên tỉnh, còn nhiều nữa phải về Hà-nội.
Mấy anh nghĩ, bần cố nông mình nghèo làm gì có tiền dư, dù có dư dể dành cũng đâu có là bao, ra lệnh đổi là họ đổi ngay ở xã, nhanh như gió. Có khó khăn gì? Hay tin sớm hay muộn cũng chẳng thiệt thòi gì hết. Trung nông, tiểu tư sản mệt một chút nhưng cũng đổi được. Còn bọn phú nông, địa chủ, tư sản mại bản đành chịu phép. Chưa kể những vụ vì tiền cất giấu một nơi, không kịp đổi đã đành, mà ngay cả những bọn ôm một đống tiền tại nhà cũng đành ngồi khóc chớ làm sao đổi kịp. Hay tin đã muộn. Hạn đổi chỉ trong vòng một ngày. Cái bọn xa Hà-nội, ở các vùng xa, tài nào đi xe về kịp chứ? Chưa tới Hà-nội đã tới giờ đóng cửa ngân hàng. Có tới Hà-nội đi nữa, cũng phải chờ những người đến trước mà họ lại là người của ta. Cái bọn tư sản ở Hà-nội kia, còn phải khóc ròng thay…
Tôi phục thiệt. Chỉ riêng cái vụ đổi tiền, nó cũng đã thể hiện tính chất đấu tranh giai cấp cao độ, một hình thức tiêu diệt, trả thù những giai cấp phản động, đối kháng với giai cấp công nông, nòng cốt, cơ bản của chế độ ta. Kể như 99,5% bọn đó trắng tay, sạt nghiệp hoàn toàn.
Mấy anh còn nhớ mấy năm đầu mình ra Hà-nội, đi coi phim tuồng đó chớ? Đảng không đá động gì đến bọn chủ rạp hết. Phim thì nhà nước cho mướn giá cũng vừa thôi. Thuế cũng đánh vừa vừa thôi. Nhưng phim thì nhà nước lựa mấy phim cũ, phim dở cho mướn. Còn phim mới, phim hay thì để cho các rạp chiếu bóng của nhà nước chiếu trước, giá lại rẻ gấp đôi. Mấy anh nghĩ, như vậy mấy thằng tư sản chủ rạp không đi lạy lục nhà nước bán rạp sao được.? Để lại thì không có tiền đóng thuế, tiền sở phí mỗi ngày một lỗ nặng. Nhưng tụi nó bán, nhà nước lại không mua. Tụi nó ức lắm. Nhưng ức thì ức chớ làm chó gì được. Thằng nào nho nhoe, rẳng cổ là êm liền.
Sau cùng đành phải năn nỉ năm lần bảy lượt hiến không cho Đảng, nhà nước mới chịu nhận. Nhận nhưng thuế phải đóng đủ. Nghĩ đến mấy chuyện đó, khoái thiệt.
Về tôn giáo cũng vậy. Chế độ mình, Đảng mình cũng cho đồng bào tự do tín ngưỡng vậy. Không cấm đoán gì hết. Muốn đi nhà thờ đọc kinh, nghe giảng hay vô chùa lễ Phật cầu kinh cứ đi. Mình cũng chả công kích làm gì.
Nhưng ở nông thôn thì thi hành chánh sách cưỡng bách lao động, ở thành thị cũng vậy. Mọi người đều vào hợp tác xã, vào các đội sản xuất. Ai đi làm nhiều được chấm công nhiều, làm ít thì được chấm công ít. Khi vụ mùa thu hoạch thì hợp tác xã cứ dựa vào chấm công đó mà chia phần, nhiều hay ít.
Đi làm đều, làm ngày làm đêm, không nghỉ ngày nào khi chia phần còn phải ăn độn rau, khoai trối chết. Bây giờ cứ nay nghỉ đi chùa, mai nghỉ đi nhà thờ, so sánh với người chung quanh, mình bị thiệt thòi quá, khổ quá, thôi bớt đi chùa, bớt đi nhà thờ cho nó đỡ. Vì sinh kế đành phải xa Phật, xa Chúa lần lần.
Nhưng ít đi chùa, ít đến nhà thờ cũng vẫn thấy thiệt thòi, khổ sở hơn những người khác. Rốt cuộc đành phải thi đua, cố gắng với những người chung quanh, làm cho nhiều công hơn để được dễ thở như người ta.
Lúc đầu một tuần đi chùa, đi nhà thờ một lần. Sau đó ráng một tháng đi một lần. Rồi ba tháng, sáu tháng một lần. Sau cùng thì không còn Chúa, còn Phật gì nữa hết.
Nhà thờ, nhà chùa sống nhờ vào tín đồ, giờ không tín đồ đến nữa, sống với ai? Sống bằng cái gì? Thế là thầy chùa, linh mục, mục sư gì cũng phải bỏ Chúa, bỏ Phật, tự cày cấy lấy mà ăn, chớ đâu còn cái kiểu bất công xã hội, ngồi không bóc lột, sống nhờ, sống bám vào kẻ khác.
Ồ, anh Hùng có nghe chuyện thằng đại diện Gia Nã Đại, trong Ủy Hội Quốc Tế, bị anh em bộ đội miền Nam đánh lọt xuống Hồ Hoàn Kiếm không cà? Cái chuyện đó thú vị lắm. Nó không những thỏa mãn tự ái tình cảm dân tộc, một hình thức đấu tranh giai cấp, thứ chiến đấu tính cần thiết của người chiến sĩ vô sản đối với kẻ thù.
Vụ này xảy ra hồi năm 1956. Anh cũng hiểu, trên thực tế, cái Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam không có nghĩa lý gì hết. Nó không có quyền can thiệp vào nội bộ của bên nào, nó lại không phải là thứ trọng tài kiểu bóng tròn mà chỉ là một thứ nhân chứng con nít, nói không ai nghe, ù ù cạc cạc trước những chuyện của người lớn.
Ủy Hội Quốc Tế chẳng làm được cái tích sự gì, vậy mà Đảng phải đài thọ cho họ đủ mọi thứ. Nào tiền lương, nào nhà cửa, xe cộ, phương tiện di chuyển để đi chơi. Anh nghĩ, mình không tức sao được. Như tụi Ấn Độ, không nói gì, ít ra tụi nó cũng biết cái chức chủ tịch Ủy Hội đó là một hình thức bù nhìn, ậm ừ cho qua chuyện. Còn các đồng chí Ba Lan của ta thì lại có bổn phận giúp đỡ trong tình anh em xã hội chủ nghĩa ruột thịt. Chớ mấy thằng Gia Nã Đại thì là tay sai của bọn đế quốc, tư bản Mỹ, kiếm chuyện moi móc cái này, để ý rình mò cái kia để lập công với chủ. Thái độ nó cứ ngông nghênh coi thường chế độ ta.
Vì vậy cho nên sau tháng 7 năm 1956, Tổng tuyển cử bất thành, anh em bộ đội miền Nam mình ức lắm. Cái hy vọng thống nhất đất nước, trở về miền Nam sum họp gia đình đi tuốt luốt. Một số anh em điên lên, muốn làm một cái gì đó cho đã giận. Lúc đó, tụi này ở 330 bàn với nhau chủ nhật tới, tổ chức ra Hà-nội đập mấy thằng Gia Nã Đại chơi.
Thường thường, chủ nhật thì con đường Thanh Niên nằm quanh bờ hồ, khách ngoại quốc đến ngắm cảnh đông lắm.Tay nào cũng xách máy ảnh chụp lia, chụp lịa. Mấy thằng Gia Nã Đại cũng vậy.
Sáng bữa đó, tụi này chia thành nhiều tổ tam tam đứng rải rác quanh bờ hồ chờ sẵn. Gặp hai thằng Gia Nã Đại đi tới, tụi này liền bảo một em nhỏ bán đậu phộng rang tiến lên chận đường, mời nó mua để làm cớ, nếu không mua, quay mặt đi thì ghép nó vào cái tội khinh thường dân Việt Nam, coi thường dân Việt Nam, coi thường chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc qua hành vi quay nhổ nước miếng trước em bé Việt bán đậu phộng.
Hai thằng Gia Nã Đại không mua thiệt, xua tay lia lịa quay mặt bỏ đi. Thế là tụi này xôm tới, thụi liền mấy thoi như trời giáng vào mặt cái thằng mập râu ria. Thằng Gia Nã Đại ốm kia, thay vì bỏ chạy, nó cả gan chống lại. Tụi này lập tức cởi áo, giấu mũ giao cho một anh em giữ hộ, nhào tới một lượt. Hai thằng Gia Nã Đại bỏ chạy, nhưng nó chạy lên trời mới khỏi. Cái thằng ốm bị tụi này chận giò té sấp, đá nhào lăn cù như đá banh lông.
Đến chừng công an vũ trang thổi còi inh ỏi, rầm rập chạy tới can thiệp thì thằng Gia Nã Đại sặc máu mũi, nằm ngất ngư dưới mí nước bờ hồ, ướt mem như chồn bị chó vật, ngáp ngáp gần chết.
Anh biết tại sao tụi này phải cởi áo, giấu mũ giấu nón không? Sợ tụi nó tố cáo là bộ đội đánh nó, bất lợi về mặt chính trị cho mình. Tuy vậy, tụi nó cũng biết quá rõ tụi này là bộ đội rồi. Nhưng dầu sao, trước mặt tụi nó, đông đủ «bá quan văn võ» đứng xem chật đường, mình phải nói mình là nhân dân bên ngoài chớ. Đến chừng công an vũ trang lo chở thằng Gia Nã Đại đi điều trị ở bệnh viện Phủ Doãn thì tụi này mới mặc áo vào, khai là tại tụi nó khinh thị Việt Nam, nhổ nước bọt trước mặt tụi này và khi hỏi lý do tại sao, chúng nó còn đánh một bạt tai vào mặt đồng chí ta. Vì vậy, tự ái dân tộc, tự ái giai cấp, nhất là đối với bọn đế quốc, kẻ thù, ta không thể nhịn dược,
Kết quả anh biết sao không? Huề cả làng. Chính phủ ta viết một bức thư «chia buồn» tỏ ý tiếc về vụ xảy ra, thế là xong. Tụi này làm bản tự kiểm, nhận khuyết điểm là nóng nảy nhưng ngược lại, được Trên đề cao là giác ngộ ý thức đấu tranh giai cấp sâu sắc, thể hiện chiến đấu tính nhạy bén của người chiến sĩ vô sản của quân đội công nông chúng ta.
Nhưng, cái thằng Gia Nã Đại đó, ít ra nằm bênh viện cũng một tháng và xin về nước, đời đời chẳng dám bước chân đến Việt Nam.