Chương IX (2)
Trở lên nhà, tôi leo lên võng nằm nhìn chung quanh suy nghĩ bâng quơ. Đồng Nai Thượng đây ư? Cũng toàn rừng và rừng. Cũng màu xanh muôn thuở. Cũng không khí yên tĩnh, yên tĩnh đến u buồn, gợi một cái gì sợ hãi bâng quơ lẫn với nỗi bâng khuâng triền miền không căn cớ.
Suốt ngày hôm nay, với cái thân sốt rét mới hết, tôi phải lội bộ mỏi đến nhừ người. Ở B2 chắc người ta hài lòng lắm. Hài lòng vì đã tống khứ được tôi. Hài lòng vì mình có quyền, nhất là thỏa mãn được tình cảm giai cấp, đã thống trị, đã sai khiến tên trí thức, hạ uy thế, hạ giá trị nó xuống ngang hàng với thứ người hạng bét trong xã hội.
Vậy mà, ngoài mặt người ta vẫn làm ra vẻ quan tâm, chăm sóc đến tôi. Chính trị là vậy. Bây giờ thì xa lắm rồi. Xa sông Bé, xa đồng bằng, xa tất cả. Ngược lại, có lẽ từ nay tôi sẽ được vui vẻ hơn, thoải mái hơn về tinh thần. Tôi sẽ được sống trong quên lãng, không chừng chính tôi, tôi cũng quên lãng không còn nhớ đến mình là ai, thuộc giai cấp nào, có gì để kiêu hãnh khoe khoang với mọi người? Và nhất là quá khứ. Một quá khứ trong mơ, nhiều hoa mộng.
Từ nay tôi sẽ được biến thành anh nông dân, không «tay cuốc, tay cày» thì cũng «tay cuốc, tay rựa». Tôi chợt nhớ, mình nằm mỗi một mình. Không biết Du đâu mất?
Chắc là Du la cà xuống bếp, tán hươu tán vượn, «quạt» chị nuôi của tôi đây. Kể như Du cũng sướng thật. Hồn nhiên vui vẻ, không chút băn khoăn suy nghĩ nào. Thản nhiên chấp nhận cuộc sống hiện tại của chính mình. Không cần biết, không cần quan tâm nhiều đến sự thể xảy ra hằng ngày, xem đó như là một thứ tự nhiên, không ta thán, không oán hờn. Thế nào cũng được. Sao cũng được. Đúng hết, mọi thứ đều đúng. Duy chỉ có mỗi một điều, sợ Đảng nhận xét xấu, sợ Ban Chỉ huy không hài lòng ghi lý lịch.
Chỉ có thế thôi ư? Lạ thực. Đảng là gì nhỉ? Là một thứ thần thánh vô hình hay cũng chỉ là người, thể hiện bằng người với tất cả cái xấu, cái yếu, cái hèn và biến đổi luôn?
Tôi chợt nghe có tiếng cười nói của nhiều cô gái từ xa vọng lại lần với tiếng gió trên ngon cây rừng. Các nàng tiên trên Đồng Nai Thượng đi tải thịt đã về rồi đó. Tôi mỉm cười một mình. Đêm hôm kia, từ bệnh viện về, núp ngoài rừng, tôi nghe cấp chỉ huy đã nói về «bản chất bệ rạc, tệ hại» của tôi, đạo đức kém mà giờ đây hết chỗ đưa tôi đi sao lại đưa tôi về một nơi toàn con gái, không ngại tôi tác oai tac quái đốn mạt thêm hay sao?
Rồi tiếng cười vui rộn rã nổi lên dưới bếp. Tiếng kim khí, dao thớt va chạm vào nhau, khua động không ngừng. Một chút sau, một thanh niên đứng tuổi hiện ra ở khúc quanh tiến vào nhà. Anh ta mặc quân phục vải ta đen, da rám nắng với cây súng trường Mas ở trên vai. Tay cầm mấy tờ giấy. Ý chừng anh ta là Hai Minh, chắc đã gặp Du dưới nhà bếp trao thư từ giấy má của B2.
Tôi ngồi dậy. Bước đến sân, anh ta nhoẻn miệng cười:
– Chào anh! Anh vừa đến hả?
– Dạ, chào anh! Tôi vừa đến.
– Xin tự giới thiệu với anh, tôi là Minh, Hai Minh, phụ trách B195. Mấy hôm nay, tôi có được thư báo của B2 là sẽ có anh đến. Tôi có ý trông. Hôm nay mừng được gặp anh.
Hai Minh bắt lấy tay tôi, xong, mang súng máng lên cột:
– Nghe nói anh bị sốt nặng nằm ở G2. Nay khá nhiều chứ, anh? Coi bộ anh xanh nhiều.
– Tôi mới ra bệnh viện chiều hôm kia…
– Sao anh không nghỉ lại ít hôm cho khỏe hãy đi?
Tôi cười:
– Anh Ba Biếu bảo đi thì đâu ở lại được. Vả lại… tôi cũng muốn đi sớm.
– Có lẽ nhờ vậy mình lại gặp nhau sớm hơn. Thú thực với anh, ở đây thanh niên mình ít lắm. Không bằng cái lẻ của chị em! Có anh thêm đông, vui nhà vui cửa. Có muốn đánh lơ khơ tay tư, cũng đủ người.
– Khi nãy tôi nghe cô Hiền cho biết anh bắn được con bò rừng. Lớn không anh?
– Cũng to. Chắc được trên ba trăm cân. Chị em bây giờ họ còn đang luân phiên nhau tải vào. May là hôm nay có thịt để đãi anh. Thôi, anh nằm nghỉ nha! Tôi còn phải trở xuống trông cho chị em họ ra thịt. Tối nay, ăn uống xong xuôi, chúng mình sẽ nói chuyện nhiều. Anh ăn cháo nghe! Để tôi dặn đồng chí Hiền nấu cho anh…
– Đừng, anh! Mấy anh chị ăn gì, tôi ăn nấy mà!
– Tụi tôi chỉ có bắp kè. Anh còn đang bệnh, ăn không kham nỗi đâu. Tôi đi nghe anh!
– Dạ, anh bận anh cứ đi! Khách khứa gì! Từ nay tôi là lính của anh mà!
Hai Minh cười, xua tay lia lịa:
- Ý chết! Đừng anh, anh đừng nói vậy chứ, anh!
– Chút nữa, khỏe không chừng tôi xuống bếp chơi với anh.
– Ừ, anh xuống cho vui.
Hai Minh bước đi. Tôi nằm xuống. Và vì mệt mỏi tôi ngủ thiếp đi. Đến chừng giật mình, tỉnh giấc thì đã tối tự bao giờ.
Trên chiếc bàn tre, ai đã đốt sẵn một chiếc đèn làm bằng vỏ chai Alcool de Menthe. Chiếc đèn chai, nhìn kỹ tôi mới thấy đó là cả một kỳ công, một sáng tạo thích thú. Miệng chai alcool vốn là một cái lỗ nhỏ xíu, được người ta dùi cho rộng ra rồi dùng một cái vỏ đạn carbine giũa cho nhỏ lại đút vừa lọt khít miệng chai. Vỏ đạn được gỡ hột nổ, xiên vào ống đồng rỗng bằng ruột cây viết bi, luồn tim bằng chùm chỉ sợi. Trong lòng vỏ đạn có một lò xo thép. Mỗi khi vặn chặt nút chai đậy thì ống đồng và tim thụt xuống. Mở nắp ra, ống đồng lại vọt lên. Nắp chai được bọc ngoài lớp thau sáng loáng có núm nhỏ. Từ núm người ta cột một sợi xích xuống cái khoen ở cổ chai.
Như vậy, dùng chiếc đèn chai này vừa gọn, vừa có thể bỏ trong ba lô hay cài vào thắt lưng di chuyển mà không sợ dầu hôi đổ ra ngoài.
Tôi ngồi mân mê, ngắm nghía mãi chiếc đèn. Tiếng dao băm thịt lẫn trong tiếng cười đùa vui vẻ của đám đông dưới nhà bếp vọng lên làm tôi thấy thèm muốn hòa mình vào đám đông đó.
Bắt chước mấy anh em trước đây, tôi bẻ một lá dầu con mọc ở đầu nhà, cặp vào phía sau đèn làm tấm chắn cản gió để đèn không bị gió chao cũng như không chói mắt.
Tôi hạ đèn thấp xuống, lom khom soi đường sợ có rắn, bước dần xuống bếp. Từ ngoài nhìn vào, hàng chục chị em ngồi quây quần thành từng khóm bên những đống thịt to tướng, vừa xắt, vừa chặt, vừa cười đùa vui vẻ. Ánh lửa trong lò bập bùng, ánh sáng đèn chai bên ngoài giăng giăng, gợi cho tôi cái không khí gia đình trong những ngày có giỗ hay bất cứ một đám tiệc nào ở miền quê. Không khí thực ấm cúng vui vẻ, hồn nhiên làm sao.
Tôi chợt nghe một giọng nữ từ bên trong bếp vọng ra:
– Kìa! Ổng bưng đèn xuống kìa! Coi bộ nằm một mình buồn. Sợ ma, sợ cọp nữa chịu sao thấu.
Và tôi cũng nghe tiếng Hiền:
– Nhằm cái lúc gian khổ nhất, tụi mình ăn bắp kè thay gạo như lúc này, đến đây để xúm nhau chịu khổ cho vui. Sốt rét mới hết, mặt còn xanh như mặt giộc, không khéo lại sốt nữa cho coi.
– Cha, bằm thịt nấu cháo cho người ta kia mà còn nói bắp kè. Coi bộ lo dữ hả? Chị nuôi tích cực và tốt bụng quá.
– Bà đừng có nói bậy! Bà bệnh hay ai bệnh cũng vậy. Chị nuôi phải có bổn phận săn sóc, nấu cháo cho người ta chớ!
– Suỵt, coi chừng người ta nghe.
Hai Minh quay đầu ra gọi lớn:
– Anh Tư ơi! Vô đây anh!
Tôi sựng người. Lạ thiệt! Tôi chưa hề nói với anh ta là tôi thứ tư, sao anh ta biết? Chắc Hiền nói. Chỉ ba tiếng ngắn ngủi «anh tư ơi!» nhưng nó làm tôi cảm động khôn cùng. Tuy tôi nói với Hiền là nàng cứ kêu tôi bằng tên, đừng gọi thứ. Thực sự đó chỉ là một hình thức từ chối theo kiểu xã giao. Tôi là người Miền Nam mà. Phong tục tập quán của quê hương tôi hằn vết trong lòng tôi mà. Xưng hô với nhau, gọi nhau bằng thứ nó là một hình thức biểu hiện sự kính trọng, biểu hiện tình thân ái mặn nồng. Và ở trong khung cảnh này, trong rừng núi của chiến khu, nó còn biểu biện sự chấp nhận tình cảm chân thành, đón nhận «người chơi nhập cuộc».
Nếu Hiền, nếu Du hay một người nào khác ở đây lần đầu tiên gặp tôi đã gọi tôi bằng từ ngữ «anh Tư» đó, có lẽ sự rung cảm trong lòng tôi chỉ là một phút thoáng qua như làn gió nhẹ. Nhưng với Hai Minh, một người lớn tuổi hơn tôi, mặt khác, trên phương diện «địa vị cách mạng» là cấp chỉ huy trực tiếp, là thủ trưởng của tôi, sự rung cảm «thấm» hơn nhiều. Nó nói lên một cách mạnh mẽ: «Tình tôi dành cho anh đó, chân thành lắm, không màu mè, không là một hình thức động viên chính trị».
Tôi bước vào nhà bếp với sự cảm động nghẹn ngào.
Tôi run run thốt lên:
– Mấy anh mấy chị dưới này vui quá!
Hai Minh tay vừa xắt thịt, miệng vừa cười:
– Hì hì… anh coi giống nhà có giỗ không hè? Động dao động thớt rùm beng.
Một cô lên tiếng, hóm hỉnh cãi lại:
– Không phải giỗ mà đón khách mới từ Sàigòn hoa lệ đến đó!
– Sao lại khách, bà? Người nhà chớ!
– Ơ! Ông hổng chịu khách thì… lính mới!
Hiền ngồi bên bếp cũng vui miệng kê thêm vào:
– Cha! Kẻ gọi bà, kẻ đáp ông! Cha! Ông bà vui dữ.
Cô gái kia dẫy nẫy lên:
– Bỏ đi! Bỏ đi! Đồ quỷ! Đừng nói bậy. Đừng phá tao chớ! Người ngoài nghe hiểu lầm, nhà nước nghe có mà ngồi kiểm thảo rục xương sống.
Hai Minh giải vây:
– Thôi mà! Mấy bà bỏ đi. Để tôi giới thiệu đã. Đây là anh Tư Hùng. U.50 mới thuyên chuyển đến công tác với B195 mình. Anh Tư Hùng là một sinh viên Luật khoa Siàgòn, và cũng là một cán bộ cũ kháng chiến chống Pháp từ 9 năm. Trong khi chờ đợi Cục Chính Trị xác nhận cấp bực, chức vụ, tạm thời coi như là cán bộ của U.50.
Mọi người vỗ tay lẹp bẹp. Tôi cũng vỗ tay cười theo. Tiếng vỗ tay dứt thì Hiền «phát biểu ý kiến» ngay:
– Anh Hai! Quan mà không lon cứ coi như lính chớ anh Hai!
– Nữa! – Hai Minh nói-. Cái bà này nữa! Gì mà quan với không quan?
Tôi chen vào:
– Mấy chị đùa cho vui mà anh!
– Từ nay trở đi, có anh, mình ở đây có thể tổ chức học văn hóa được rồi đó. Trước giờ chuyện học hành thiệt là è ạch, chẳng ra làm sao hết.
Hiền hỏi với vẻ châm biếm:
– Vậy sao Ban Chính Trị bảo là các đơn vị trực thuộc U.50 đơn vị nào cũng phải xúc tiến phong trào học văn hóa bổ túc, ngoại trừ B195. B195 cần làm rẫy cho tốt chứ chưa cần học?
– Nữa! Nữa!
Tôi lấy làm lạ hỏi:
– Gì lạ vậy anh Hai?
– Thế mới có chuyện cho chị em người ta thắc mắc. Nói cho ngay, giấy tờ công văn, chỉ thị không đá động gì tới nhưng hôm trước, Bảy Cảnh ở B2 nói với mấy đơn vị khác bảo B195 chừng nào lao động giỏi rồi hãy học.
– Biết thế nào là lao động giỏi? Bộ anh chị em mình ở đây bị xem là không biết lao động sao?
Giọng Hai Minh thấp xuống:
– Chút nữa về trên nhà tôi nói anh nghe.
Sau khi ăn xong, tôi nhìn đồng, hồ tay đã mười giờ hơn. Tôi và Hai Minh lững thững kéo nhau về nhà trước, trong khi mọi người còn ở lại nhà bếp vui vẻ chuyện trò, «nói chuyện năm trên». Vài anh chị em còn xiên thịt lụi, nướng ở miệng lò.
Để ca, muỗng lên chiếc bàn tre, Hai Minh trở lại vấn đề ban nãy:
– Cái chuyện học văn hóa phiền lắm anh. Phần lớn anh chị em đưa về đây công tác được Đảng ủy khu A xem không phải thành phần cơ bản. Số còn lại là bần cố nông nhưng số này ít quá. Trình độ mỗi người một cỡ không ai bằng ai hết. Động cơ tham gia cách mạng cũng không thuần nhất.
Tôi hơi lấy làm lạ:
– Như vậy hầu hết anh chị em đều có trình độ văn hóa khá, ít ra cũng lớp nhất tiểu học?
– Không! Không anh! Đa số chỉ biết viết. Tuy nói là không phải thành phần cơ bản, thực sự anh chị em đó cũng không phải địa chủ, phú nông hay tiểu sư sản trí thức gì mà được cắp sách đến trường như những người khác. Anh lạ gì bà con nông thôn của mình. Những gia đình có ăn chút đỉnh thuộc lớp trung nông mới ở miền quê xa xôi hẻo lánh. Đâu có trường gần nhà để học. Xa lại ngại không muốn cho đi, giữ ở nhà để giúp đỡ tay chân.
– Vậy thì anh chị em ở đây cũng nông dân cày ruộng, chân lấm tay bùn. Phân chia thành phần giai cấp gắt gao dữ.
– Nói chung, tuy trên danh nghĩa không giống như anh là tiểu tư sản trí thức, nhưng thực tế, những anh chị em ở đây chẳng khác anh mấy.
– Ở đây có anh chị em nào trình độ văn hóa khá không anh?
– Hai chị hồi nãy với anh dưới bếp đó, một chị tên Hiền, một chị tên Ngân. Chị Hiền có tú tài một, tú tài Pháp đó. Chị Ngân học qua lớp đệ tam. Như vậy ngang với lớn 8 lớp 9 miền Bắc. Vài ba chị em nữa thì đâu đệ thất đệ lục còn bao nhiêu đều lem nhem ở cấp 1. Cấp 1 miền Bắc, tức bậc Tiểu học trong Nam. Nhưng mấy chị em khá họ không quen dạy học nên họ lọng cọng, mắc cỡ không chịu dạy. Ngược lại mấy anh chị em kém họ lại thích học, tôi muốn tổ chức mấy lớp văn hóa bổ túc mà làm không xuể, nên thôi. Bây giờ có anh, nhờ anh giúp vậy.
Kể ra giúp anh chị em trong đơn vị được học, trau dồi thêm văn hóa cũng là một điều tốt nên làm. Tôi cũng thích như vậy. Vì chính công việc đó, nó sẽ làm cho tôi vui hơn và hòa mình vào tập thể. Thân mật hơn, vui vẻ hơn trong nỗi thông cảm hoàn toàn giữa anh chị em cùng đơn vị. Nhưng việc đó cũng có những trở ngại rất lớn.
Trước tiên là sách vở, tài liệu lấy ở đâu ra? Hướng dạy như thế nào để khỏi bị quy vào tội «dạy theo phương pháp đế quốc, chương trình đế quốc», trái ngược với «đường lối giáo dục công nông» của Đảng đề ra. Ấy là chưa kể, Bảy Cảnh bảo B195 chừng nào lao đông giỏi hãy học.
Tôi ngập ngừng, trả lời Hai Minh một cách chiếu lệ dò xem phản ứng của Hai Minh ra sao:
– Anh Hai à, có nhiều vấn đề khó khăn lắm! Mình tổ chức lớp học rồi sẽ ra sao?.
Hai Minh ngỡ tôi muốn nói riêng việc phản ứng của B2 nên trả lời ngay:
– Đã là lính hạng bét, thứ cán bộ B phó, tôi có ngại gì chuyện thăng giáng đâu. Cái có lợi cho tập thể mình cứ làm. Không lẽ tổ chức học văn hóa là một cái tội như tội phản động sao?
***
Tôi ngả lưng trên võng nằm suy nghĩ bâng quơ. Tôi thấy nhớ tiếng đàn, thấy thèm được kéo vĩ cầm vài đoản khúc của Chopin.
Ôi nhớ quá, B39 ơi! Mấy người sao ác quá vậy?
Cây đàn vĩ cầm của tôi các người đã chuyển vận đến phương trời vô định nào? Con cái radio transistor «Standard» nữa. Suốt mấy tháng nay rồi, tôi như một thằng mù, thằng điếc, không biết những gì đã xảy ra trên đất nước này cũng như trên thế giới.
Báo chí đã không, tin tức cũng không nốt, dù là thứ tin một chiều. Tôi nhớ đến câu nói của người xưa: «Kẻ sĩ một ngày không xem sách, soi gương mặt mũi thấy tối tăm». Huống hồ tôi đã không đọc mấy tháng liền. Người nay bảo: «Một ngày không xem tin tức, báo chí đã trở thành lạc hậu, quờ quạng như thằng mù». Một ngày đã vậy, huống hồ tôi đến những mấy tháng.
Mặt mũi tôi đã ra sao rồi? Tôi đã đui mù, lạc hậu đến mực độ nào rồi? Một thứ người rừng chăng?
Hai Minh kéo tôi về thực tại:
– Anh Tư! Lên đây anh? Uống nước chứ!
Tôi ngồi dậy, bộ bình trà sứt vòi, đen thủi đen thui, nằm lăn lóc, ngã nghiêng trên bàn tre được Hai Minh rót nước sôi trong bình ton mới mang về tráng, rửa sơ qua. Bộ bình trà nghèo nàn quá. Chả bù với bộ bình trà có cả phích đựng nước nóng của văn phòng B2. Từ chiếc bàn dài bằng cây bằng lăng xẻ ra bào bóng nhoáng đến những lon lớn, lon nhỏ đựng trà, đựng kẹo, đựng cà phê, đường cát… Ở đây, chiếc bàn tre chôn chân, nang tre kết lại làm mặt, nang cao nang thấp, lồi lõm như mặt ruộng cày mùa khô. Ngoài, trống lổng, trống trơn như một chòi ruộng xơ xác..
Hai Minh đi lại hàng kệ treo sát mái nhà để bồng đựng quần áo và vật dụng, lôi ra một gói giấy nhật trình cũ, cười toe với tôi:
– Hì hì! Sang lắm anh! Người ta uống trà Tàu, trà Blao, đôi khi còn có cả trà hoa nhài Phú Thọ, mang từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa vào. Còn mình, mình uống trà Sâm Việt Nam.
Tôi giương mắt nhìn. Hai Minh mở giấy chìa trước mắt tôi một nắm cỏ luôn cả rễ, lá to bản và dài, đốt cháy lem nhem:
– Anh ngửi thử xem! Thơm lắm! Bảo đảm với anh Sâm Việt Nam chính hiệu con nai vàng mà!
Tôi mỉm cười, kê mũi vào. Không nghe mùi sâm nào cả, chỉ toàn mùi cỏ khét. Nhìn nụ cười không tròn miệng ngỡ ngàng của tôi cũng hiểu được ra sao rồi nên Hai Minh đưa lên mũi mình, hít hít mấy cái:
– Mùi cỏ khét! Hì hì! Nhưng bỏ vào nước sôi thơm thiệt anh. Thơm sâm thiệt mà. Chẳng những vậy, uống thứ này còn thông tiểu, đái dữ lăm. Mát thận, chắc chắn là mát thận.
Hai Minh nhón lấy một nhúm, vo tròn cả rễ, cả lá bỏ vào bình và châm nước sôi đựng trong bình ton ra. Nhìn cử chỉ thành thạo, quen tay và trịnh trọng của Minh làm tôi thấy thương Minh, gần Minh hơn bao giờ hết. Có lẽ trước đây, Minh cũng một tay sành trà, ghiền là khác, biết chép miệng để thưởng thức cái vị trà pha đặc như nước cau ngâm. Giờ, bên bờ Đồng Nai Thượng, đành chịu uống nước «sâm Việt Nam chính hiệu con nai vàng».
Có hơn mười lăm phút sau, Minh mới nâng bình lên lắc mấy cái:
– Lắc lắc vầy cho nó ra sâm, anh Tư!
Đoạn Minh rót ra bốn chén chung:
– Đâu, bây giờ anh ngửi thử coi! Thơm mà! Đúng là «sâm Việt Nam chính biệu con nai vàng».
Chiều theo Minh, tôi nâng chén chung lên ngang mũi.
Quả mùi sâm thực. Mùi sâm lẫn với mùi cỏ cháy. Minh đưa lên miệng ực một cái:
– Đúng không anh?
Tôi gật đầu, cười:
– Thiệt, thơm mùi sâm thiệt.
Tôi cũng uống. Nhạt nhẽo như uống nước lã đun sôi.
Hai Minh móc gói giấy dầu, mở ra để lộ cục thuốc rê và một cuộn giấy nhật trình cuốn y như giấy quyến:
– Hút thuốc anh Tư!
Tôi cũng móc cục thuốc rê và cuộn giấy quyến bèo nhèo trong túi tôi ra, bỏ bừa lên bàn:
– Có giấy quyến nè anh Hai! Hút giấy quyến mới ngon, anh.
Tôi đưa cuộn giấy quyến cho Minh. Mắt Minh sáng lên:
– Vậy là anh sang quá rồi. Anh coi, thuốc rê phải vấn bằng giấy quyến mới đúng bài bản, nhưng cái đất này dễ gì kiếm được tờ giấy quyến, đành hút thuốc nhật trình chớ biết sao! Có nhật trình, có thuốc rê, còn hơn có lúc tụi này phải hút bằng râu bắp, bằng xác trà phơi khô hay lá chỉ thiên thay thuốc rê, nó mới thảm chớ! Ghiền thuốc nó khổ vậy, anh Tư. Thuốc không mua được, ngáp dài ngáp vắn, mắt mở không ra. Túng làm liều vậy mà. Nó nhạt phèo, nó hôi rình vẫn phải lấy làm ngon. Chiến trường khu A nổi danh gian khổ như thế đó.
– Gì đến nỗi dữ vậy anh! Thuốc rê khó kiếm đến nỗi vậy sao?
– Anh cứ hỏi anh chị em đây thì biết! Tiếp liệu của U.50 dưới đó, khi nào thừa thải lắm, các B dưới đó thừa mứa ra rồi mới còn đến tụi này. Đi chia thực phẩm hàng tháng, lần nào may mắn nhằm đúng chuyến hàng mới đưa về, họa may gỡ gạc chút đỉnh. Nếu không cũng đành thôi. Cho đến bây giờ cũng vậy. Nhưng giờ thì tụi này khôn hơn. Ngoại giao với trạm đường dây Suối Đá, ngoại giao với đồng bào Thượng ở Bù Cháp đem muối đổi thuốc rê, đổi gà, nhờ vậy mới có hút đây chớ. Đi đồng bằng, tụi này làm gì có dịp di. Ai dẫn đường cho mà đi?
Tôi hiểu, và thông cảm hoàn toàn với Hai Minh. Trong cuộc đời, ghiền một thứ gì, đam mê một thứ nào thật là khổ vì nó. Tôi không nhớ là đã đọc ở đâu, đọc ở quyển sách nào, người ta bảo bất kỳ một thứ đam mê nào đều mang ý nghĩa của nô lệ. Mình tự biến mình thành một thứ nô lệ cho đam mê, tự mình hành hạ thân xác mình đến chán chường.
Ghiền thuốc giữa núi rừng quả là một thứ đam mê khốn khổ, đáng thương biết bao nhiêu. Nỗi khổ của Minh, của những anh em ở đây từ trước đến nay sẽ là của tôi trong những ngày tới.
Ngày tôi mới rời khỏi Sàigòn, tôi vốn đã ghiền thuốc Ruby. Trong những ngày ở văn phòng B39 rồi Vườn Thơm, đến phòng tuyển mộ Tân Binh I4, tôi không thấy việc thiếu thuốc lá là quan trọng. Vì bất cứ lúc nào tôi cũng có thể mua được. Chung quanh nơi tôi ở, hàng quán không thiếu chi.
Trước khi lên đường về khu A, Năm Râu đã nhắc tôi, cụ bị mua theo hai cây thuốc, tức 20 gói, bỏ trong bồng hút dần. Nhưng những ngày đi đường, không chỉ hút mỗi mình tôi mà còn có hai cậu cảnh vệ, còn có Năm Râu, nên trọn một cây hóa khói bay bổng về trời.
Mười gói còn lại, khi trở về đồng bằng, Năm Râu lại đến tìm tôi, cười mơn, nói nịnh mấy câu lấy lòng để xin hai gói. Một cho anh ta một cho cậu cảnh vệ, «kỷ niệm» «lưu tình», «nhớ đến anh». Tôi nghe rất «chướng» vậy mà vẫn phải «tống khứ» hai gói. Thấy Năm Râu có hai gói Ruby, và biết tôi còn tám gói nữa, Bảy Cảnh nhìn ra rừng nói một câu bâng quơ:
– Thuốc ARA thuộc loại «đệ nhất anh hùng», mỗi khi uống trà có kẹo cầm tay, thiếu nó chẳng khác nào như lân thiếu pháo, như cá trê nướng thiếu nước mắm gừng, như ăn dồi chó mà thiếu ba xi đế. Vậy mà có mùi khói Ruby phất qua, hút ARA nghe như hút thuốc chồi, lãng òm lãng nhách.
Tôi đã biết uống trà Blao, ăn kẹo, hút thuốc ARA của Ban Chỉ huy tôi, thì tôi phải biết đền lại bằng Ruby chứ. Thế là tôi lấy thêm một gói biếu đồng chí thủ trưởng Bảy Cảnh. Nhưng thủ trưởng của tôi đến ba người, biếu Bảy Cảnh phải biếu Ba Biếu, lấy thêm hai gói nữa. Rồi tới Tám Chi. Vị chi nửa chục đủ đầu, thoáng cái giã từ ra đi.
Bốn gói còn lại chỉ đủ cho tôi hút mấy ngày nằm đọc sách và ra đến rẫy hoa màu. Đến bệnh viện G2 tôi chỉ còn bao giấy không. Tôi biết làm sao hơn? May là tôi bị sốt mê man, liệt giường không hút được.
Đến chừng dứt cữ, ngóc đầu dậy, nhờ Mười Phương y sĩ Viện trưởng G2 thương tình, đặc cách giới thiệu với quản lý nên cũng chia được hai gói ARA, gọi là thay thế «mùi hương» cũ. Hết hai gói đó, thôi thì đành «xuống ngựa»,
Tôi bắt đầu chia thuốc rê, giấy quyến như mọi người.
Tôi tưởng mình không hút nổi vì thuốc rê khói nặng, mà nặng thực. Hơi khói đầu tiên của nó đi qua cổ, tôi tưởng chừng như ai xé cổ mình ra, như búa bổ vào lồng ngực. Tôi sặc một cái, rồi ho rũ rượi, nước mắt, nước mũi tràn ra ràn rụa. Tôi ho đến nôn, đến ọc. Miệng đắng, cay và tanh, nước dãi chảy không ngừng. Cuối cùng tôi nhắm mắt nằm thở dốc, mệt lữ cò bợ.
Tôi đầu hàng thuốc rê. Tôi nhất quyết lòng dặn lòng, phen này nhất định bỏ thuốc. Thuốc rê ơi! Giã từ ngươi nhé! Tôi cho anh em nằm chung trại rê thuốc và tờ giấy quyến vừa mua. Ngày hôm đó, tôi thấy lạt miệng làm sao. Và một cái gì buồn buồn trên mi mắt.
Tôi nhớ trước kia được nghe câu chuyện của một người cai thuốc lá. Mỗi lần thèm thuốc, anh ta ngậm một cục kẹo, uống một cốc nước, hoặc ăn một món gì đó. Kết quả anh ta bỏ phăng không gì khó.
Tôi nghĩ đó là một kinh nghiệm hay, mình bắt chước thử xem sao. Tôi đến quản lý G2 năn nỉ chia lại một kí đường táng. Tôi ăn đường liên miên, và uống nước không ngừng. Đến độ, tôi phải bỏ cơm chiều hôm đó và đi tiểu đến mỏi chân. Tối lại, tôi đi ngủ sớm, ngủ trong giấc ngủ chập chờn vì đói và nhớ thuốc lá.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy rất sớm, tự lúc mọi người chưa dậy. Trời hãy còn nhàn nhạt, chưa nom rõ mặt người. Tôi thức dậy với sự uể oải lạ thường, đầu óc nhẹ tênh, ngồi không vững. Và cái miệng nó vừa khô, vừa nhạt một cách khó chịu, nước miếng dường như đặc quánh lại.
Nỗi thèm thuốc lá dâng lên đến độ như hốt hoảng như mất hết sự tự chủ thường ngày. Nó quýnh quáng, nó mụ người đi. Tôi vói lên kệ, mở giấy lấy táng đường mía, nhai lấy nhai để, không kịp súc miệng, rồi lật bình ton rót ra nửa ca nước nguội, uống sạch. Sau đó, tôi nằm lại, chóp chép mút cục đường.
Để «đấu tranh tư tưởng», tôi như hét lên trong đầu: «bỏ thuốc! Bỏ thuốc! Nhất định không hút thuốc! Hút thuốc lại là hèn, là không biết tự ái, không biết tự trọng. Không bỏ thuốc được là không thể làm nổi những việc khó khăn hơn. Hèn! Con trai không bỏ thuốc được không phải con trai!»
Trời về sáng, ở rừng lạnh buốt, vậy mà tôi nghe mồ hôi chảy ướt sống lưng, rịn đầy cả mặt, cả chân tóc và nhớp nháp ở cổ. Anh em trong trại thức dậy, chưa cuốn mùng đã vấn điếu thuốc đầu tiên ngồi rung đùi ở mép giường, thưởng thức. Mùi khói thuốc rê bay ra, sao tôi nghe thơm lạ, quyến rủ lạ. Không còn hôi như trước đây. Làn khói xanh bay lên nhẹ nhàng, tản mạn, ôi sao là đẹp.
Nước dãi trong miệng tôi đầy ứ. Tôi nuốt ực đi, luôn cả cục đường chưa tan hết. Chao ơi! Thèm lắm! Suýt tí nữa tôi đã bước sang giường xin vấn điếu thuốc. May, tôi trấn áp được. Thay vì đi xin thuốc, tôi bước ra sân, đi thơ thẩn nhìn lên mấy ngọn dầu cao, sương mù phủ trắng. Tôi chép miệng, thở dài. Trời, cực sao cực thế này. Ghiền thuốc lá nó có thể hành hạ tôi đến thế nà sao?
Tôi cố gắng chịu đựng cho tới lúc ăn cháo sáng, đến cả buổi ăn trưa. Tôi gần như muốn tránh hết mọi người, không muốn gần ai cả, nhưng cũng gần như muốn gần tất cả mọi người, nhất là những anh em có thuốc biết hút thuốc. Ý nghĩ trong đầu tôi là một cái gì hỗn độn mâu thuẫn nhau gay gắt, giằng co cấu xé không ngừng.
Những ý nghĩ đó, ngay cả lúc tôi bị đè xuống để tiêm thuốc vào mông, đau xé thịt vẫn cứ ám ảnh quay cuồng không thôi.
Nhất định phải bỏ thuốc, không bỏ được không phải là con trai, là hèn. Phải can đảm lên chứ! Chuyện đó chuyện tầm thường trên mọi sự tầm thường. Tôi tự nhủ. Tôi «đấu tranh tư tưởng» với tôi.
Nhưng sau giấc ngủ trưa dậy, Quốc ngồi ở giường bên cạnh, hút thuốc phì phèo, chìa gói giấy bọc thuốc ra mời thì tôi không còn tự chủ được nữa. Ác thế! Sao anh mời tôi chi? Đáng lẽ đừng mời mới phải chứ. Trí tôi bảo đừng mà sao tay tôi như tay người lạ, mất hết bản ngã, chỉ còn có bản năng, chộp lấy cuộn giấy quyến xé dòn tan, rứt thuốc một cách gọn gàng và vấn một cách thành thạo.
Tôi nghe lòng tôi dịu lại, nhủ thầm: «Cái này lỗi tại Qnốc nó mời, thôi thì hút một điếu thôi. Thuốc rê gắt lắm, nặng lắm, hôi lắm, hút xã giao mà! Nhất định lần sau nó mời, từ chối tức khắc. Cái này lỗi tại thằng Quốc đó!» Nhủ lòng như vậy tôi thấy tôi nhẹ. nhàng, bình tĩnh hoàn toàn, bật lửa mồi thuốc.
Ngỡ là sẽ bị sặc sụa, dã dượi như trưa hôm qua vì khói thuốc rê, nên tôi chỉ hít vào một tí khói. Không nghe sao cả. Hơi thứ nhì tôi kéo thật dài. Trời ơi! Sao nghe ngon một cách chi lạ lùng. Một nỗi thống khoái, thư sướng vô tả, tê rần khắp cả châu thân. Đầu tôi choáng váng vì say thuốc và cũng vì sướng vô tả. Cuộc đời thật đẹp vô cùng.
Tôi ngã nằm xuống giường, nhắm mắt lắng nghe chất nicotine ngấm vào tạng phủ, tung hoành trong huyết quản tôi. Tôi lan man dường nghe một câu nói dội lên:
– Tưởng sao! Thuốc rê ngon đến thế này, lại dễ tìm, lại rẻ, thôi thì cứ hút. Tội chi mà bỏ nhỉ! Nó có hại gì đâu! Hút thuốc, ghiền thuốc đâu là tật xấu, đâu có ai cười l
Thế là tôi xuôi tay đầu hàng. Chẳng những tôi không phải là kẻ sợ thuốc rê, mà trở thành kẻ thích thuốc rê nhiều hơn ai hết. Thuốc và giấy đã cho hết rồi, tôi bèn nghĩ kế, lang thang xuống quản lý G2 kỳ kèo chia được một rê và một tờ giấy quyến nữa.
Không có gì để gói, để đựng gọn gàng như anh em, tôi rứt một cục nhỏ, rọc giấy cuộn nhỏ để trần cho vào túi áo bà ba. «Chu» rồi! Còn bao nhiêu tôi xin một tờ giấy tập gói lại, để xuống đít bồng.
Nhớ tới cảnh của tôi, nghe Hai Minh kể khổ về nỗi thuốc lá ở đây tôi thông cảm vô cùng, sự thông cảm của người đồng cảnh ngộ. «Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu», là vậy.
Hai Minh xé giấy quyến, rứt thuốc vấn một điếu đưa lên đèn. Cử chỉ đó chậm rãi, trịnh trọng làm sao. Đưa lên miệng, Minh hít một hơi dài, mắt lim dim, khói đâu mất hết. Mãi lúc sau, khói mới từ mũi, từ miệng tuôn ra từ từ, từ từ lan nhẹ lên không.
Minh phát biểu ý kiến:
– Đã thiệt, anh Tư!
Tôi cười, nhớ tới cái ngày bỏ thuốc ở bệnh viện G2.
Bên ngoài có mấy anh chị em dưới bếp đi lên. Hai chiếc đèn chai hiện ra ở góc sân.
Minh hỏi vọng ra:
– Giải quyết xong ba cái thịt rồi hả?
Tiếng của Hiền vọng vào:
– Xong rồi, anh Hai.
Minh quay sang tôi:
– Lần nào cũng vậy, anh! Hễ bắn được bò rừng hay nai là người nào người nấy mệt đứ đừ. Anh nghĩ coi, bốn trăm kí thịt đâu phải ít ỏi gì. Bày ra cả nửa căn nhà. Khổ nhứt là mình không có gì để đựng, để chứa. Làm ăn liền một bữa, bất quá nhiều lắm là chục kí. Số còn lại muốn giữ ăn lâu, chỉ có hai cách: muối và phơi khô. Muối cũng chút đỉnh năm ba chục kí. Vì không có lu hũ gì đựng, rồi để lâu có giòi, hôi ăn cũng không được, bỏ uổng.. Thành thử phần lớn phải phơi khô. Nhưng phơi khô, muốn cho ngon phải thái thịt ra từng miếng mỏng bằng bàn tay, nhúng nước muối trước khi đem ra nắng. Anh thấy đó, mười mấy người xúm thái thịt từ chập tối tới giờ mới rồi. Ý là thái xong nhúng nước muối chớ chưa phơi. Còn cái độ sáng mai xúm khiêng ra rẫy…
Hiền, Du và hai cậu thanh niên nữa vào đến nhà, đứng lóng nhóng quanh bàn. Minh nhích vào phía trong, sát đầu bàn.
Minh bảo:
– Ngồi chơi, các đồng chí!
Du ngồi xuống cạnh tôi. Hai cậu kia ngồi với Minh. Chỉ có Hiền đứng dựa gốc cột. Minh hỏi Hiền:
– Cô Hiền chắc là nóng nghe chuyện Sàigòn lắm phải không?
Hiền cười:
– Vậy chớ anh Hai coi, nhà cửa gia đình quê quán tôi ở đó mà. Biết được anh Tư Hùng mới ở Sàigòn ra, không nóng sao được.
– Ù, hỏi gì thì hỏi sơ sơ ba cái đi. Chứ khuya rồi đó. Gần mười hai giờ khuya rồi. Còn bao nhiêu để mai, để mốt. Ảnh ở đây, mặc sức mà hỏi. Bây giờ ảnh đi đường xa còn mệt, lại khuya… Đồng ý chớ cô Hiền?
Du cũng cười xen vào:
– Ừ, khuya thiệt! Tui đồng ý để mai!
– Ơ! – Hiền nói- Cái anh này! Ai hỏi anh mà anh đồng ý lãng nhách vậy!
Chợt Du la lên:
– Máy bay! Máy bay nghe!
Nhanh như gió, đèn trên bàn tắt phụt. Không hiểu ai thổi mà nhanh thế. Lóng tai nghe thật kỹ mới nghe tiếng rì rì nhỏ xíu của phi cơ từ xa vọng lại
Hiền phàn nàn:
– Anh Du phá đám hén? Máy bay đâu?
– Đó, mấy người lóng tai nghe cho kỹ coi!
Hai Minh nói:
– Ờ! Có tiếng máy bay thiệt. Lỗ tai thằng Du rõ thiệt!
Rồi Hai Minh lật đật rời khỏi bàn bước ra sân la lớn
– Máy bay! Máy bay nghe! Dưới bếp dập lửa, tắt đèn đi nghe! Máy bay gần tới rồi đó.
Có nhiều giọng nữ, ơi ới, lập lại:
– Máy bay! Máy bay!
Du cười hinh hích:
– Ê! Tắt đèn, ai ở đâu ngồi yên đó. Không được nhúc nhích, rục rịch gì đa! Ai rục rịch ba tháng tù ngồi.
Tiếng phi cơ rõ dần. Một cậu lên tiếng, tào lao:
– Cái thằng phi công này coi bộ chưa có vợ.
– Sao mầy biết nó chưa vợ?
– Biết quá đi chớ! Nếu nó có vợ, giờ này nó đâu có bay bậy vậy! Nó bay, nó để vợ nó ngủ với ai?
– Mày nói trật rồi. Thằng này có vợ nhà, vợ nó ghen. Hồi tối tới giờ nó đi chơi, bây giờ, bây giờ khuya nó về nhà ngủ bị vợ nó nổi cơn tam bành lục tặc, hỏi chớ hồi tối đến giờ đi với con mặt tròn mặt méo nào. Rồi bị vợ nó đạp xuống giường. Ức tình, cu cậu leo lên máy bay, bay một vòng cho đỡ tức.
– Sao mày biết?
– Thì tao mới nghe hai vợ chồng nó cãi nhau đây!
– Ê! Xạo mày! Đó! Đó! Nó bay ngang đầu mình đó. Đừng chơi ỉa bậy vài cục, cực lắm đa! Thứ này là Dakota chở mắm ruốc mà!
Tôi vấn một điếu thuốc. Rõ ràng tiếng phi cơ Dakota bạy chậm rì. Thiệt, chiếc phi cơ này phá đám quá. Chắc Hiền cũng không còn đủ hứng để hỏi chuyện Sàigòn đêm nay.